Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự...

Tài liệu Chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự

.PDF
99
572
99

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN ĐÌNH CHI CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU TRONG QUAN HỆ NGHĨA VỤ DÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN ĐÌNH CHI CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU TRONG QUAN HỆ NGHĨA VỤ DÂN SỰ Chuyên ngành : Luật Dân Sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : TS. Bùi Đăng Hiếu Hà Nội - 2011 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Trần Đình Chi 1 MỤC LỤC Trang Lêi cam ®oan Mục lục Danh mục cỏc kớ hiệu, cỏc chữ viết tắt MỞ ĐẦU Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO QUYỀN YEU CẦU TRONG QUAN HỆ NGHĨA VỤ DÂN SỰ. .................................................................................................... 5 1.1. Nghĩa vụ dan sự. ....................................................................................... 5 1.1.1. Khỏi niệm nghĩa vụ dõn sự................................................................... 5 1.1.2. Cỏc yếu tố của quan hệ phỏp luật về nghĩa vụ dõn sự. ................... 10 1.1.3. Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự. .......................................................... 13 1.2. Quyền yờu cầu. ....................................................................................... 15 1.2.1. Khỏi niệm quyền yờu cầu. .................................................................. 15 1.2.2. Đặc điểm của quyền yêu cầu .............................................................. 17 1.2.3. Phõn loại quyền yờu cầu. .................................................................... 18 1.3. Bản chất phỏp lý và cỏc quy định của BLDS 2005 về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. .......................................... 19 1.3.1. Khỏi niệm chuyển giao quyền yờu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dõn sự....19 1.3.2. Đặc điểm của chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. 22 1.3.3. Phõn loại chuyển giao quyền yờu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dõn sự......26 1.3.4. Phân biệt chuyển giao quyền yêu cầu với các giao dịch dân sự khác 27 1.3.5. Các quy định của BLDS 2005 về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự ............................................................................... 32 Chƣơng 2. CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU TRONG MỘT SỐ TRƢỜNG HỢP CỤ THỂ. ............................................................................ 40 2.1. Chuyển giao quyền yêu cầu trong trƣờng hợp thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới. ...................................................................................................... 40 2.2. Chuyển giao quyền yêu cầu trong hợp đồng bảo lãnh. ...................... 42 2.3. Chuyển giao quyền yêu cầu trong hợp đồng bảo hiểm tài sản. ......... 47 2.4. Chuyển giao quyền yêu cầu đối với phần vốn góp trong công ty theo Luật doanh nghiệp 2005. .............................................................................. 54 Chƣơng 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT. ..................................................... 61 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật ................................................................. 61 3.2. Phƣơng hƣớng và các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu. .......................................................................... 83 KẾT LUẬN .................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. .................................................... 91 1 Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt TAND : Tòa án nhân dân TNHH : Trách nhiệm hữu hạn CP : Cổ phần BLDS : Bộ luật dân sự LDN : Luật doanh nghiệp MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Luật dân sự là một ngành luật quan trọng của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới từ cổ đại cho đến hiện đại, vì nó điều chỉnh các quan hệ dân sự đa dạng thường xuyên phát sinh trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Nó không thể thiếu được dưới bất kỳ một chế độ nào. Luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của mỗi cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động (gọi chung là quan hệ dân sự). Luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Luật nghĩa vụ là một tiểu phân ngành quan trọng của luật dân sự, luật nghĩa vụ cũng có thể coi là nền tảng của luật thương mại. Trong bối cảnh phát triển thương mại như hiện nay và việc Việt Nam có các quan hệ thương mại với thế giới thì việc nghiên cứu về luật nghĩa vụ là hết sức cần thiết, nhằm mục đích hiểu sâu hơn về luật nghĩa vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực tiễn cũng như đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện luật nghĩa vụ.Tuy nhiên đây là vấn đề lớn và phức tạp cần có nhiều công trình nghiên cứu.Trong khuôn khổ luận văn này tôi chọn đề tài “Chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự ” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. Đây là lát cắt mỏng trong khoa học luật dân sự. Nhưng qua đó chúng ta có thể hiểu sâu hơn về nghĩa vụ dân sự, thấy được nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật và bản chất là quyền yêu cầu của trái chủ đối với thụ trái, quyền yêu cầu là một loại quyền tài sản- một loại tài 1 sản có thể chuyển giao.Tuy nhiên giao dịch chuyển giao quyền yêu cầu có đặc điểm gì giống và khác biệt với các giao dịch dân sự khác? Trường hợp nào thì không được chuyển giao quyền yêu cầu, thực tiễn áp dụng có gì vướng mắc không? và phương hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu như thế nào? Đó là những vấn đề đặt ra mà luận văn cần làm sáng tỏ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Nghĩa vụ dân sự là một lĩnh vực rất rộng, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan như: - Nghĩa vụ dân sự và quan niệm nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam của tiến sĩ Ngô Huy Cương đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 tháng 4/2008. - Nguồn gốc của nghĩa vụ và phân loại nghĩa vụ của tiến sĩ Ngô Huy Cương đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8 tháng 6/2008. - Bình luận khoa học về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong luật dân sự Việt Nam của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện (1999)-NXB trẻ thành phố Hồ Chí Minh. - Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt Nam của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện (2000)-NXB trẻ thành phố Hồ Chí Minh. - Việt Nam dân luật lược khảo, quyển II: Nghĩa vụ và khế ước lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài gòn (1963) của Vũ Văn Mẫu. - Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện (2001) –NXB trẻ thành phố Hồ Chí Minh. - Quyền tài sản- Một loại tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học của Sỹ Hồng Nam, bảo vệ thành công tại khoa luật- Đại học quốc gia Hà Nội năm 2007. - Chuyển giao quyền yêu cầu trong bảo hiểm tài sản của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thủy đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số tháng 11/2008. 2 Do mục đích và cách tiếp cận khác nhau nên các công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến những vấn đề chung về nghĩa vụ dân sự, về chuyển giao quyền yêu cầu với tư cách là chuyển giao quyền tài sản. Cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào một cách chuyên sâu về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. Chính vì vậy việc nghiên cứu khái niệm, bản chất pháp lý của chuyển giao quyền yêu cầu, những hạn chế của luật thực định, thực tiễn áp dụng pháp luật đồng thời đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật là việc làm cần thiết. Với mong muốn hoàn thiện các quy định có liên quan đến chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự đã thúc đẩy tôi chọn đề tài này làm luận văn. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn. Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về chuyển giao quyền yêu cầu, trên cơ sơ đó đưa ra một số phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Từ những mục đích trên, luận văn đưa ra một số nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu cụ thể như sau: -Đưa ra khái niệm và phân tích đặc trưng của Nghĩa vụ dân sự, quyền yều cầu và chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. -Phân biệt giao dịch chuyển giao quyền yêu cầu với các giao dịch dân sự khác. -Phân tích nội dung, điều kiện của giao dịch chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. -Đánh giá tính phù hợp của các quy định về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự theo pháp luật Việt Nam. 3 -Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua một số tranh chấp cụ thể. -Nêu ra phương hướng hoàn thiện pháp luật và đề xuất một số kiến nghị cụ thể. 4. Phạm vi nghiên cứu. Luận văn tập trung phân tích khái niệm, bản chất pháp lý của nghĩa vụ dân sự, quyền yêu cầu, chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, phân biệt chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự với các giao dịch dân sự khác. Luận văn khảo sát các quy định có liên quan theo pháp luật Việt Nam như: Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật kinh doanh bảo hiểm... Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật từ đó phát hiện ra những điểm chưa phù hợp và phương hướng khắc phục, hoàn thiện. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu và mối liên hệ với các vấn đề kinh tế xã hội. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: So sánh, lịch sử, logic, hệ thống, phân tích, tổng hợp... 6. Những điểm mới của luận văn. Trong quá trình nghiên cứu các học thuyết pháp lý, pháp luật thực định, thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, đồng thời so sánh với pháp luật của các nước khác trên thế giới, luận văn có một số điểm mới sau: -Luận văn phân tích một cách khoa học khái niệm về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. 4 -Luận văn so sánh những quy định về chuyển giao quyền yêu cầu trong pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới. -Luận văn phân tích, đánh giá các quy định hiện hành về chuyển giao quyền yêu cầu. -Luận văn nhận xét về việc giải quyết một số tranh chấp cụ thể về chuyển giao quyền yêu cầu. -Luận văn đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật và một số kiến nghị cụ thể. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU TRONG QUAN HỆ NGHĨA VỤ DÂN SỰ. 1.1. Nghĩa vụ dân sự. 1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ hiểu theo nghĩa hẹp hay theo cách hiểu thông thường là những gì mà một người phải làm hoặc không được làm vì lợi ích của người khác. Đó cũng chính là hành vi của một bên phải thực hiện theo yêu cầu của bên kia. Như vậy theo cách hiểu này, nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó một bên phải thực hiện những hành vi nhất định theo yêu cầu của bên kia. Trong đời sống hàng ngày thuật ngữ nghĩa vụ là sự xử sự mà một người phải thực hiện vì lợi ích của một hoặc nhiều người khác nhưng sự thực hiện đó không được bảo đảm bằng pháp luật của nhà nước. Pháp luật không điều chỉnh những hành vi này, họ thực hiện nghĩa vụ theo lương tâm, thói quen trong gia đình hay những nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo và để làm tròn bổn phận làm người của họ, ở phương diện này nghĩa vụ được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức. 5 Ví dụ: Nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên không được pháp luật bảo đảm thực hiện. Pháp luật nước ta không cấm cũng không buộc một người phải thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng này có thể do thói quen trong gia đình thể hiện sự tôn trọng đối với những người đã khuất, nếu người đó không thờ cúng tổ tiên có thể bị sự chê trách của gia đình dòng họ. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý ở nhiều nước trên thế giới nhất là các nước theo đạo Thiên chúa giáo và tin lành như Anh, Pháp, Đức, Đan mạch, Phần lan... họ chỉ thờ phụng Chúa Jesus, họ không có tục lệ thờ cúng tổ tiên và người chết mà họ có những cách thể hiện khác đối với tổ tiên và những người đã khuất. Như vậy trong cuộc sống hàng ngày, nghĩa vụ chịu ảnh hưởng rất nhiều của phong tục, tập quán, văn hóa và tôn giáo. Một người làm từ thiện đóng góp tiền để nuôi những đứa trẻ mồ côi hay ủng hộ những người bị thiên tai như bão lụt, hạn hán, núi lửa, động đất...thì khoản tiền đóng góp hay thời gian đóng góp phụ thuộc vào lòng hảo tâm và khả năng của họ. Pháp luật cũng không điều chỉnh loại nghĩa vụ này. Những nghĩa vụ như trên đã phân tích do các quy phạm đạo đức điều chỉnh và còn được gọi là nghĩa vụ đạo đức. Các luật gia La mã còn đưa ra một loại nghĩa vụ nữa là nghĩa vụ tự nhiên cũng là loại nghĩa vụ không có hiệu lực pháp lý, mặc dù không có định nghĩa chính xác về loại nghĩa vụ này nhưng để phân biệt người ta chia nghĩa vụ tự nhiên thành hai loại: Loại thứ nhất là các nghĩa vụ ban đầu do pháp luật điều chỉnh (có hiệu lực pháp lý) sau đó trở thành nghĩa vụ tự nhiên, ví dụ: nghĩa vụ chi trả một khoản nợ đã hết thời hiệu, loại nghĩa vụ này ngày càng nhiều ở nước ta khi thời hiệu khởi kiện được rút ngắn. Điều 427 BLDS 2005 quy định: Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ 6 thể khác bị xâm phạm, đây là điểm mới của Bộ luật dân sự 2005 so với Bộ luật dân sự 1995. Loại thứ hai là những nghĩa vụ đạo đức đúng đắn đặc biệt rõ ràng và thúc buộc. “ Chẳng hạn nghĩa vụ trợ giúp những người nghèo khó trong gia đình, bù đắp những thiệt hại gây ra mà không có lỗi về mặt pháp lý hoặc thực hiện những dịch vụ đã cam kết mà thiếu nguyên nhân hay khoản đối ứng có giá trị” [5]. Ví dụ : Một người cam kết ngừng bán hàng trong 1 ngày để cho người hàng xóm liền kề sử dụng mặt bằng vào mục đích dựng phông bạt tổ chức đám cưới cho con. Nghĩa vụ hiểu theo nghĩa rộng là một quan hệ theo đó một bên có quyền yêu cầu, còn bên kia phải thực hiện hành vi nhất định theo yêu cầu đó, có nghĩa là thể hiện mối quan hệ giữa trái chủ và người thụ trái xác định. Vì vậy khi nói hợp đồng làm căn cứ phát sinh ra nghĩa vụ thì có nghĩa là hợp đồng làm căn cứ phát sinh ra quan hệ giữa trái chủ và người thụ trái xác định. Những quan hệ nghĩa vụ dân sự mà được pháp luật dân sự điều chỉnh thì còn được gọi là nghĩa vụ pháp lý hay nghĩa vụ dân sự. Đây là loại quan hệ nghĩa vụ được nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn này. Trên thế giới có một số định nghĩa về nghĩa vụ như sau: “ Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật được xác lập giữa hai chủ thể theo đó một chủ thể (chủ thể quyền- người có quyền) có quyền yêu cầu chủ thể kia (chủ thể nghĩa vụ – người có nghĩa vụ) phải hoàn thành một yêu cầu nhất định’’ [3]. “ Ở đây các đặc điểm chính của quan hệ nghĩa vụ được đề cập tới và đối tượng của nghĩa vụ được trừu tượng hóa để làm rõ bản chất là quyền yêu cầu” [4]. Cuốn từ điển của Pháp mang tên Petit Dictionaire de Droit định nghĩa: “ Nghĩa vụ là một mối quan hệ pháp lý theo đó một người được gọi là trái chủ, có thể sử dụng phương cách cưỡng chế của quyền lực công theo sự lựa chọn của anh ta để buộc người khác, người thụ trái xác định, chuyển giao tài 7 sản, làm hoặc không làm việc gì đó’’[4]. Điều 421 Bộ luật dân sự Cộng hòa liên bang Đức quy định: “ Hiệu lực của nghĩa vụ là việc trái chủ có quyền yêu cầu sự thực hiện từ người thụ trái, sự thực hiện này bao gồm việc không hành động”[4]. Điều 194 Bộ luật dân sự Thái Lan cũng có quy định như sau: “ Đối với một nghĩa vụ, trái chủ có quyền yêu cầu sự thực hiện từ người thụ trái. Sự thực hiện bao gồm việc không hành động’’[4]. Ở Việt Nam có một số quan niệm về nghĩa vụ như sau: Trong cuốn Việt Nam dân luật lược khảo, quyển II. Nghĩa vụ và khế ước Vũ Văn Mẫu định nghĩa: “ Nghĩa vụ là mối liên hệ pháp lý giữa hai người nhờ đó một người là trái chủ (hay chủ nợ) có quyền đòi người kia là người thụ trái (hay con nợ) phải thi hành một cung khoản có thể trị giá bằng tiền’’ [11]. Giáo trình luật dân sự Việt Nam của Học Viện Tư Pháp năm 2007 đưa ra định nghĩa: Nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp luật về tài sản và nhân thân của các chủ thể, theo đó chủ thể mang quyền có quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ chuyển giao một tài sản, thực hiện một công việc hoặc không thực hiện một công việc vì lợi ích của mình hay lợi ích của người thứ ba, phải bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của bên có quyền. Chủ thể mang nghĩa vụ có nghĩa vụ thực hiện yêu cầu của chủ thể mang quyền. Các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên xác lập quan hệ nghĩa vụ [9]. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2 của Trường Đại học luật Hà Nội năm 2008 có định nghĩa: 8 Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự, trong đó một bên chủ thể là một hoặc nhiều người phải làm hoặc không được làm một hoặc một số công việc nhất định vì lợi ích của chủ thể bên kia. Bên phải làm hoặc không được làm những công việc được gọi là người có nghĩa vụ (thụ trái). Bên được hưởng lợi ích có quyền yêu cầu bên kia thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nào đó vì quyền lợi của mình được gọi là người có quyền (trái chủ) [22]. Điều 280 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)[15]. Về thuật ngữ “nghĩa vụ’’ có hai nghĩa. Một nghĩa chỉ hành vi phải thực hiện của một bên theo yêu cầu của bên kia (nghĩa hẹp). Một nghĩa khác chỉ một quan hệ mà theo đó bên có quyền yêu cầu, còn bên kia phải thực hiện hành vi nhất định theo yêu cầu đó. Có nghĩa là chỉ mối quan hệ giữa trái chủ và thụ trái xác định (nghĩa rộng). Định nghĩa về nghĩa vụ như điều 280 BLDS 2005 nói trên chỉ xuất phát từ hành vi của bên phải thực hiện một đối tượng vì lợi ích của người khác. Định nghĩa này chưa thể hiện được rõ nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật mà trong đó có hai chủ thể đối lập nhau về mặt lợi ích, chưa nêu lên vai trò chủ động của bên có quyền yêu cầu. Do vậy cần đưa ra một định nghĩa chính xác hơn về nghĩa vụ dân sự. Như vậy từ những phân tích và những quan niệm về nghĩa vụ như trên chúng ta có thể đưa ra được khái niệm về nghĩa vụ dân sự như sau: Nghĩa vụ 9 dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự về tài sản trong đó bên có quyền (trái chủ) có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ (thụ trái) phải thực hiện yêu cầu đó. Sự thực hiện bao gồm cả việc không hành động. 1.1.2. Các yếu tố của quan hệ pháp luật về nghĩa vụ dân sự. 1.1.2.1. Chủ thể. Chủ thể của một quan hệ pháp luật nói chung là những người tham gia quan hệ pháp luật đó. Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự. Do vậy, chủ thể của những quan hệ này bao gồm: Cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các chủ thể này có những quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những quan hệ nghĩa vụ mà họ tham gia. Các chủ thể khi tham gia quan hệ nghĩa vụ sẽ thiết lập mối liên hệ pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên. Trong đó một bên được gọi là người có quyền, một bên được gọi là người có nghĩa vụ. Ví dụ: Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản, khi đến hạn trả, bên vay phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bên cho vay tài sản, nếu là tiền thì phải trả đủ tiền, nếu là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên cho vay là bên có quyền yêu cầu đối với bên vay hoàn trả tài sản. Sự đa dạng của các quan hệ trong giao lưu dân sự làm cho các quan hệ về nghĩa vụ phát sinh trong đời sống thực tế cũng hết sức đa dạng và phong phú. Có những quan hệ dân sự mà trong đó một bên chỉ có quyền yêu cầu mà không phải gánh vác một nghĩa vụ nào, còn một bên có nghĩa vụ phải thực hiện cho bên kia một công việc nhất định mà không có quyền yêu cầu như các quan hệ dân sự phát sinh từ hợp đồng đơn vụ. Phần lớn các quan hệ dân sự, mỗi bên chủ thể đều có quyền yêu cầu bên kia thực hiện những hành vi nhất định nhằm đem lại lợi ích cho mình, 10 ngược lại họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm đáp ứng lợi ích cho phía bên kia như các quan hệ dân sự phát sinh từ hợp đồng song vụ. Ví dụ: Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản, bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán (quan hệ nghĩa vụ trả tiền), ngược lại bên mua có quyền yêu cầu bên bán chuyển giao quyền sở hữu vật, bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu vật cho bên mua (quan hệ nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu vật). Vậy chủ thể của nghĩa vụ là những người được phép tham gia vào một quan hệ nghĩa vụ và họ có các quyền, nghĩa vụ do pháp luật điều chỉnh đồng thời họ phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. 1.1.2.2. Nội dung của nghĩa vụ. Khi tham gia các quan hệ nghĩa vụ dân sự, các bên luôn hướng tới những lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần nhất định. Lợi ích đó chỉ đạt được khi các bên thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình để thỏa mãn yêu cầu của bên kia. Muốn thực hiện tốt nghĩa vụ của các bên thì phải xác định rõ các quyền và các nghĩa vụ của các bên tham gia các quan hệ nghĩa vụ đó. Trong một quan hệ nghĩa vụ cụ thể thì các quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự là yếu tố cấu thành nội dung của quan hệ nghĩa vụ dân sự đó. Nội dung của quan hệ pháp luật về nghĩa vụ dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể phụ thuộc vào các quy định của pháp luật và các điều kiện do các bên thỏa thuận để thực hiện quyền và nghĩa vụ. Quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ được thể hiện dưới dạng sau đây: 11 - Quyền yêu cầu: Bên có quyền được phép yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một số hành vi nhất định hoặc yêu cầu bên có nghĩa vụ không được thực hiện một số hành vi nhất định vì lợi ích của mình. Trong trường hợp đã yêu cầu trực tiếp nhưng bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện nghĩa vụ đó thì bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đó. - Nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu: Đối lập với bên có quyền yêu cầu, bên có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện những hành vi nhất định theo yêu cầu của bên có quyền hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền vì lợi ích của bên có quyền. 1.1.2.3. Khách thể của quan hệ nghĩa vụ. Khách thể của quan hệ nghĩa vụ là cái mà các chủ thể luôn hướng tới và nhằm đạt được. Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự, cho nên khách thể của nó là cách xử sự của các chủ thể nhằm tác động lẫn nhau để đạt được mục đích của mình. Quan hệ nghĩa vụ có đặc trưng cơ bản là quyền và nghĩa vụ của các bên đối lập nhau một cách tương ứng. Vì vậy, trong các quan hệ nghĩa vụ, chủ thể có quyền luôn hướng tới hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể bên kia. Nếu các bên đều thực hiện tốt nghĩa vụ của mình thì lợi ích của các chủ thể đều được thỏa mãn. Hành vi thực hiện nghĩa vụ là một phương tiện mà thông qua đó, quyền lợi ích của các chủ thể được đáp ứng. Vì vậy trong các quan hệ nghĩa vụ, hành vi là cái mà các chủ thể đều hướng tới, là khách thể của mọi quan hệ nghĩa vụ. Hành vi của chủ thể bao giờ cũng tác động vào một tài sản hoặc hành vi thực hiện một công việc nào đó (hoặc không thực hiện một công việc nào đó).Vật được gắn liền với hành vi trong quan hệ nghĩa vụ được gọi là đối tượng của nghĩa vụ. Có những quan hệ nghĩa vụ mà trong đó hành vi của chủ thể không gắn liền với một vật nhưng hành vi đó vẫn mang đến cho chủ thể 12 bên kia một lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần nhất định như hành vi thực hiện dịch vụ tư vấn pháp lý và các loại dịch vụ khác. Lúc này đối tượng của nghĩa vụ không được thể hiện rõ nét mà đã đồng nhất với hành vi thực hiện nghĩa vụ, có nghĩa là đối tượng của nghĩa vụ cũng chính là khách thể của nghĩa vụ. “ Đối tượng’’ hay “ Khách thể’’ đều được tiếng Anh gọi là “Object’’[4]. Trong cuốn từ điển Deluxe Black’s Law Dictionary định nghĩa “ Object’’ là mục đích được hướng tới tức cũng là khách thể [4]. Từ điển thuật ngữ pháp lý Việt- Pháp giải nghĩa thuật ngữ “ Object’’ như sau: “ Đối tượng của một nghĩa vụ là chủ đích của nghĩa vụ đó’’ nghĩa là “ Đối tượng’’ đã đồng nhất với “Khách thể’’[4]. Hành vi (xử sự của chủ thể) có thể được thể hiện ở dạng hành động nhưng cũng có thể được thực hiện ở dạng không hành động. Nếu hành vi đó được thể hiện ở dạng hành động và kết quả được tạo thành ra từ hành vi đó là một vật cụ thể thì hành này được gọi là hành vi được vật chất hóa, nếu kết quả đó không phải là một vật cụ thể thì hành vi này là hành vi không được vật chất hóa. 1.1.3. Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự. Thứ nhất, nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự, được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh. Đặc điểm này nói lên tính cưỡng chế thi hành của pháp luật khi điều chỉnh quan hệ nghĩa vụ và để phân biệt nó với nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ đạo đức. Thứ hai, nghĩa vụ dân sự là một quan hệ đối nhân. Đặc điểm này nói lên trong một quan hệ nghĩa vụ thì bên có quyền yêu cầu chỉ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ chứ không được quyền yêu cầu thi hành trên bất cứ một tài sản cụ thể nào. Quan hệ đối nhân là một quan hệ có tính chất tương đối trong đó một bên có quyền áp đặt một 13 nghĩa vụ đối với một người xác định, khác với quan hệ đối vật là một quan hệ có tính chất tuyệt đối trong đó một bên có quyền áp đặt một nghĩa vụ đối với mọi người nói chung; có nghĩa là hoặc đối với tất cả thế giới hoặc đối với tất cả thế giới trừ một số người xác định. Đặc điểm này nói lên sự khác biệt của quan hệ nghĩa vụ dân sự so với quan hệ sở hữu một vật cụ thể. Thứ ba, nghĩa vụ dân sự là một quan hệ tài sản. Đặc điểm này xuất phát từ việc nghĩa vụ có thể trị giá bằng tiền, khi thực hiện nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ phải bỏ thời gian, chi phí, công sức ra để thực hiện trong khi đó bên có quyền được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. Ví dụ: Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở. Đây là một hợp đồng song vụ. Bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán và bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu nhà cho bên mua. Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự trả tiền, bên mua đã phải chi phí tài sản của mình và bên bán được hưởng lợi ích từ việc nhận tiền. Trong quan hệ nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu nhà, bên bán đã phải chuyển giao tài sản của mình cho bên mua, bên mua được hưởng lợi ích từ việc sở hữu nhà được chuyển giao. Có một số quan niệm cho rằng Nghĩa vụ dân sự là quan hệ pháp luật về tài sản và nhân thân như Giáo trình luật dân sự Việt Nam của Học Viện Tư Pháp năm 2007 đã định nghĩa: “ Nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp luật về tài sản và nhân thân của các chủ thể…”[9].Nhưng giáo trình này không đưa ra giải thích tại sao nghĩa vụ dân sự là quan hệ nhân thân. Trong trường hợp bồi thường thiệt hại về tài sản do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm phạm. Chúng ta thấy việc bồi thường thiệt hại ở trên là một nghĩa vụ phát sinh ngoài ý chí của bên có nghĩa vụ do hành vi trái pháp luật. Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu cùng với chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại và thu nhập thực tế bị 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan