Bài thứ 4:
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC
LĨNH VỰC KINH TẾ
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
Sau khi nghiên cứu học tập bài này học viên cần nắm được:
- Các kiến thức cơ cấu về kinh tế
- Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng.
- Các phương hướng phát triển kinh tế ở nước ta, các giải pháp để thực
hiện các phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển các lĩnh vực
kinh tế.
- Rèn luyện các kỹ năng vận dụng lý luận vào thực tiễn
B. BỐ CỤC CỦA BÀI GIẢNG: GỒM 3 PHẦN CHÍNH
I. Những nhận thức chung về cơ cấu kinh tế
II. Phương hướng cơ bản để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta đến
năm 2010.
III. Những biện pháp chủ yếu để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nước ta.
C. PHƯƠNG PHÁP
I. Giảng viên.
Phương pháp diễn giảng, thuyết trình.
Phương pháp đàm thoại, nêu vấn đề.
II. Học viên
Tái hiện kiến thức, sử dụng sách và tài liệu.
D. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Trung học chính trị kinh tế học chính trị Mác-Lênin tập 2
(Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội 2004).
1
- Giáo trình kinh tế phát triển (Khoa Quản lý Kinh tế – Phân viện Báo chí
và Tuyên truyền – Hà Nội 2001).
- Giáo trình kinh tế phát triển (Khoa Kinh tế phát triển- Phân viên Hà Nội
1999).
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc (lần thứ VI, VII, VIII, IX).
- Nghị quyết TW IV, V khóa 8.
- Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
- Tạp chí Cộng sản.
- Các tài liệu khác.
E. NỘI DUNG BÀI GIẢNG
LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng cơ cấu kinh tế là vấn đề rất quan trọng đối với sự phát triển và
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Lịch sử thế giới đã chứng mình rằng bất
cứ nước nào trong quá trình tăng trưởng và phát triển đều phải xây dựng một cơ
cấu kinh tế thích hợp. Bởi vì nếu xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, đúng
đắn thì nền kinh tế đất nước phát triển, chính trị xã hội ổn định, đời sống nhân
dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Ngược lại nếu cơ cấu kinh tế bất
hợp lý thì nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, đời sống thấp, tích lũy thấp…
Nhận thức sâu sắc được điều đó, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII khẳng định: “ Mục tiêu của CNH-HĐH là xây dựng đất nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ…” (trang 84). Từ đó nêu ra định hướng phát triển và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Vậy thì những nhận thức cơ bản về cơ cấu kinh tế là gì? Các phương
hướng chủ yếu để phát triển kinh tế ở nước ta như thế nào và giải pháp để thực
hiện các phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó như thế nào? Chúng ta đi
vào nghiên cứu bài học này.
2
PHƯƠNG PHÁP
NỘI DUNG
I. NHỮNG NHẬN THỨC CHUNG VỀ
CƠ CẤU KINH TẾ
1. Khái niệm:
a. Khái niệm về cơ cấu kinh tế:
Như chúng ta đã biết cơ cấu (kết
cấu) là một phạm trù triết học phản ánh
cấu trúc bên trong của một đối tượng,
nó bao gồm những yếu tố cấu thành và
mối quan hệ cơ bản tương đối ổn định
của đối tượng đó trong một thời gian
nhất định.
Hay nói cách khác cơ cấu kinh tế là
một thuật ngữ khá phổ biến để chỉ cấu
trúc của một đối tượng bao gồm các bộ
phận hợp thành trong mối tương quan
tỷ lệ về lượng và những liên kết bên
trong giữa các bộ phận đó.
Ví dụ: Khi nói đến dân số – kết cấu
nội tại của nó gồm:
- Chất: tính trội chiều sâu.
- Lượng: nam, nữ…
Vì thế, nền kinh tế quốc dân cũng là
một thể thống nhất bao gồm nhiều bộ
phận tạo thành, do đó cũng có cơ cấu
riêng.
Các bộ phận hợp thành có thể xem
xét dưới nhiều góc độ khác nhau
(ngành, lĩnh vực, vùng, các thành phần
3
kinh tế) do đó hình thành nên các kiểu
cơ cấu khác nhau.
- Ngành KTQD: công nghiệp, nông
nghiệp, GTVT, y tế, giáo dục….
- Các TPKT: Nhà nước tập thể.
- Các vùng kinh tế:
Theo Mác “cơ cấu kinh tế xã hội là
toàn thể những quan hệ sản xuất phù
hợp với một quá trình phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất vật chất”
(góp phần phê phán KTCT học năm
1964, trang 7).
Cũng trên bình diện KTCT,Mác
nhấn mạnh khi phân tích cơ cấu kinh tế
phải chú ý đến 2 khía cạnh chất và
lượng. Từ đó ông đưa ra một khái niệm
hoàn toàn ngắn gọn “ cơ cấu kinh tế là
một sự phân chia về chất và một tỷ lệ
về số lượng của những quá trình sản
xuất xã hội” (Tư bản – quyển 2- tập 2Nxb Sự thật 1975, Trang102).
Từ những phân tích khái quát trên ta
có thể hiểu một cách khái quát sau:
Cơ cấu kinh tế là quy mô, vị trí, mối
quan hệ giữa các bộ phận hợp thành
của nền kinh tế được hình thành tương
đối ổn định, thích ứng với những điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nhất định
cho một thời kỳ nhất định.
Từ khái niệm trên chúng ta thấy:
4
- Cơ cấu kinh tế là nói đến những
bộ phận chính yếu của nền kinh tế là
mối quan hệ giữa chúng.
Khi nghiên cứu TSX xã hội cho
thấy, quá trình TSX xã hội trải qua 4
giai đoạn có quan hệ chặt chẽ với
nhau: sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng.
- Cơ cấu kinh tế là nói đến sự phân
chia tỷ lệ ( cả chất và lượng) thông qua
chỉ tiêu GDP.
Cơ cấu kinh tế là sự hợp thành của
nền kinh tế chủ yếu được xem xét ở 3
góc độ: cơ cấu theo các ngành, lĩnh
vực; cơ cấu theo các vùng lãnh thổ và
cơ cấu theo thành phần kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế thể hiện theo vị trí,
vai trò của từng ngành và từng vùng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước
ta bao gồm 3 nội dung cơ bản:Chuyển
dịch theo ngành lĩnh vực; chuyển dịch
theo vùng lãnh thổ và chuyển dịch theo
thành phần kinh tế.
b. Khái niệm về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế luôn luôn vận động,
thay đổi. Việc thay đổi cơ cấu kinh tế
là do sự thay đổi thường xuyên của
nhân tố khách quan và chủ quan như:
thị trường, khoa học – công nghệ,
5
chính sách…
Nếu như quá trình chuyển dịch cơ
cấu diễn ra một cách tự phát hoàn toàn
theo cơ chế thị trường – bàn tay vô
hình thì có thể dẫn đến hậu quả xấu về
kinh tế, chính trị-xã hội và môi trường
sinh thái. Do đó quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế phải là quá trình tự giác,
có sự quản lý của Nhà nước và gắn với
những mục tiêu, hướng đích nhất định.
Mối quan hệ trên ta có thể hiểu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Là quá trình thay đổi cấu trúc của
các bộ phận hợp thành nền kinh tế và
mối quan hệ giữa chúng có hướng
đích, mục tiêu.
Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, hầu hết các chủ thể kinh doanh
đều tìm kiếm lợi nhuận. Quá trình ấy
có thể làm tổn hại đến lợi ích chung
của quốc gia và cộng đồng. Do đó
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm
bảo 3 nhóm mục tiêu là: Mục tiêu kinh
tế, mục tiêu chính trị xã hội, mục tiêu
môi trường sinh thái.
Từ khái niệm trên cho ta thấy:
- Các bộ phận hợp thành cơ cấu
kinh tế được xem xét dưới nhiều góc
độ khác nhau như: ngành, lĩnh vực,
vùng hay thành phần kinh tế… do vậy
6
mà hình thành nên những kiểu cơ cấu
kinh tế khác nhau.
- Cơ cấu kinh tế không chỉ phản ánh
sự phân chia tỷ lệ về lượng mà còn
biểu hiện sự khác nhau về chất của một
nền kinh tế.
Chẳng hạn một nền kinh tế trong
đó công nghiệp chiếm tỷ trọng cao,
thường là một nền kinh tế có năng suất
và thu nhập bình quân đầu người cao
hơn một nền kinh tế có tỷ trọng công
nghiệp thấp hơn.
Mức độ liên kết kinh tế giữa các bộ
phận cũng là một tiêu chuẩn đánh giá
trình độ phát triển của một nền kinh tế.
Trong nền kinh tế tự cấp, tự túc rõ
ràng mối liên kết kinh tế theo ngành
và theo vùng yếu hơn so với kinh tế thị
trường.
- Cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực
cho biết tỷ trọng của từng ngành, lĩnh
vực tham gia vào cơ cấu kinh tế và mối
quan hệ liên ngành giữa chúng là
những thông tin có ý nghĩa quan trọng.
Số lượng các ngành chuyên môn
hóavà tỷ trọng của chúng trong cơ cấu
kinh tế, đặc biệt là tỷ trọng của các
ngành chế biến có giá trị gia tăng và
hàm lượng công nghệ cao cùng với
quan hệ liên ngành của chúng là những
7
tiêu chuẩn đánh giá quan trọng đến
trình độ phát triển của nền kinh tế .
Theo Nghị định 75 CP của Chính
phủ ngày 23 –10-1993 về phân loại
ngành thì trong khái niệm này ngành
được hiểu là các ngành chuyên môn
hóa, còn lĩnh vực được hiểu là:
- Lĩnh vực nông nghiệp bao gồm
các ngành nông, lâm nghiệp và thủy
sản.
- Lĩnh vực công nghiệp bao gồm
các ngành khai thác, chế biến điện, ga,
nước và ngành xây dựng.
- Lĩnh vực dịch vụ bao gồm các
ngành còn lại như thương mại, GTVT,
bưu điện, khách sạn nhà hàng, tài
chính, tín dụng và bảo hiểm…
- Cơ cấu kinh tế theo vùng coi mỗi
vùng là một bộ phận hợp thành của nền
kinh tế. Tỷ lệ về lượng và mối liên kết
kinh tế giữa các vùng cũng thể hiện
trình độ phát triển của nền kinh tế.
- Ở góc độ chính trị-xã hội người ta
có thể xem xét cơ cấu theo các thành
phần kinh tế. Xác định vị trí, vai trò
của từng thành phần kinh tế để đề ra
chính sách phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội của nước ta theo
định hướng XHCN.
8
Từ những phân tích trên đã phần
nào làm rõ được khái niệm cơ cấu kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Cơ cấu
kinh tế luôn mang tính khách quan,vì
vậy theo trình độ phát triển của LLSX
và nhu cầu xã hội thì các yếu tố, các bộ
phận hợp thành của cơ cấu kinh tế luôn
có sự thay đổi và xu hướng vận động
của nó như thế nào, chúng ta chuyển
sang phần 2:
2. Các xu hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế (trên thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng).
Đó là sự tăng, giảm về số lượng và
các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ
tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các
thành phần do sự xuất hiện hoặc biến
mất của một số ngành và tốc độ tăng
trưởng không đều giữa các yếu tố và
các bộ phận.
Hơn nữa sự thay đổi này tạo nên sự
vận động thường xuyên của cơ cấu
kinh tế. Đặc điểm của sự vận động là
khách quan, từ thấp lên cao, từ nhỏ đến
lớn, trong mối quan hệ tương đối ổn
định nên diễn ra rất chập chạp.
Trong quá trình vận động của cơ
cấu kinh tế, các yếu tố, bộ phận cấu
thành luôn ở trạng thái biến đổi, phá vỡ
9
cân đối và tự nó điều chỉnh, cân đối để
tạo ra sự ổn định tương đối. Như vậy:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự
thay đổi từ trạng thái này sang trạng
thái khác cho phù hợp với môi trường
phát triển. Sự chuyển dịch này không
chỉ đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà
là sự biến đổi cả về lượng và chất trong
nội bộ cơ cấu kinh tế.
Trên cơ sở cơ cấu kinh tế hiện có,
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên thế giới diễn ra theo 3 xu hướng
sau:
a. Trên thế giới:
- Xu hướng thứ nhất:
Xu hướng chuyển dịch từ một nền
kinh tế tự cấp, tự túc sang một nền
kinh tế hàng hóa.
Xu hướng này là một tất yếu bởi 2
lý do: .Là kết quả tất yếu của quá trình
phát triển LLSX.
.Là sự tất yếu của phân công lao
động xã hội.
Từ đó cơ cấu kinh tế cũng có sự
chuyển biến lớn về chất theo hướng: từ
một nền kinh tế có cơ cấu kinh tế đơn
giản, yếu ớt, lỏng lẻo “như những củ
khoai trong một bị khoai” dần trở
thành một nền kinh tế có mối liên kết
ngành và vùng chặt chẽ trên cơ sở phân
10
công lao động ngày càng trở nên sâu
sắc hơn.
- Xu hướng thứ hai
Xu hướng biến đổi của cơ cấu kinh
tế theo hướng tỷ trọng công nghiệp
ngày càng tăng và tỷ trọng nông
nghiệp ngày càng giảm trong tổng sản
phẩm quốc dân. Tỷ trọng công nghiệp
tăng lên đồng thời kéo theo sự gia tăng
tỷ lệ dân cư sống ở khu vực thành thị.
.Do giới hạn của đất đai.
Đất đai chỉ có giới hạn vì đất đai
không sinh sôi nảy nở.
.Do đặc tính của cây trồng vật nuôi.
Cây trồng vật nuôi không thể phát
triển nhanh hay rút ngắn thời gian như
trong công nghiệp.
. Tăng năng suất trong khu vực
công nghiệp bằng các biện pháp: tăng
cường sử dụng máy móc, sử dụng
phương pháp trồng trọt và giống mới.
- Xu hướng thứ ba.
Xu hướng chuyển dịch từ cơ cấu
kinh tế khép kín trong phạm vi quốc
gia sang cơ chế kinh tế mở trong quan
hệ kinh tế quốc tế.
.Xu hướng này xuất phát từ hoạt
động ngoại thương bao gồm cả lợi thế
tuyệt đối và lợi thế so sánh.
Lợi thế tuyệt đối của ngoại thương
là lợi ích thu được do khả năng sản
11
phẩm của một nước có chi phí thấp
hơn so với các nước khác cùng sản
xuất một loại sản phẩm đó.
Lợi thế so sánh ngoại thương là khả
năng nâng cao mức sống và thu nhập
thực tế của một nước thông qua việc
mua bán, trao đổi hàng hóa với các
nước khác.
. Xu hướng trên được gia tăng bởi
quá trình quốc tế hóa, khu vực hóa và
tự do hóa tăng lên, đặc biệt trong
những năm gần đây đã tháo gỡ được
hàng rào ngăn trở trong hoạt động
ngoại thương.
Trên đây là 3 xu hướng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế chung của thế giới, còn
đối với Việt Nam thì xu hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế diễn ra như thế
nào? Chúng ta chuyển sang phần b.
b. Ở Việt Nam
Cơ cấu kinh tế ở Việt Nam được
xây dựng đầu tiên vào kế hoạch5 năm
lần thứ nhất (1961-1965) được điều
chỉnh qua các thời kỳ sau:
- Đại hội IV của Đảng (1976) “ ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ”
Cơ cấu kinh tế ấy đã có tác dụng
nhất định trong việc phát triển kinh tế
phục vụ đặc lực cho cuộc kháng chiến
12
chống Mỹ cứu nước. Nhưng khi chiến
tranh kết thúc, viện trợ cắt giảm thì cơ
cấu kinh tế lấy công nghiệp nặng làm
trọng tâm là không thích hợp. Vì thế đã
hạn chế tăng trưởng, khó khăn về kinh
tế, xã hội diễn ra gay gắt.
- Đại hội V của Đảng (1981) “đẩy
mạnh 3 chương trình mục tiêu: lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu” là bước quan trọng
đặt cơ sơ cho việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế trong Đại hội VI.
Đại hội V đã điều chỉnh cơ cấu
kinh tế theo hướng hạn chế và thu hẹp
phát triển công nghiệp, chuyển hướng
mạnh vào phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ để giải quyết các nhu
cầu về lương thực- thực phẩm – hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng
ta đã xác định “Phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN”.
- Đại hội VII của Đảng (1991).
+ Tiếp tục đẩy mạnh nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần.
+ Xác định rõ vai trò của Nhà nước.
+ Xác định vai trò, nhiệm vụ của
từng thành phần kinh tế.
13
Trên tinh thần của hội nghị đại biểu
giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, Đại
hội VIII (1996) đưa ra những quan
điểm phát triển và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH – HĐH, mà
trước hết là CNH- HĐH nông nghiệp
và nông thôn.
- Đại hội VIII của Đảng (1996)
khẳng định: “ Phát triển và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế CNH- HĐH đất
nước. Đặc biệt coi trọng CNH – HĐH
nông nghiệp nông thôn, phát triển một
cách toàn diện và đồng bộ nông, lâm,
ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến. Phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trong điều kiện cho phép.
- Đại hội IX của Đảng (2001) cũng
nhất quán với quan điểm của Đại hội
VIII vạch ra.
Các quan điểm về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên đây thể hiện sự tăng
trưởng về tư duy kinh tế của Đảng, vì
thế đã đưa đến những biến đổi tích cực
trong cơ cấu này, gồm thành phần kinh
tế, các bộ phận cơ cấu kinh tế.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ
cấu kinh tế.
Mặc dù sự biến đổi của cơ cấu kinh
tế luôn tuân thủ theo những xu hướng
14
chung, song không có nghĩa hoàn toàn
giống nhau đối với mọi nước. Do tính
chất đa dạng và sự tác động nhiều
chiều của các nhân tố, người ta có thể
phân ra theo 3 cách sau:
a. Chia các nhân tố ảnh hưởng ra
thành 2 nhóm:
- Nhóm các nhân tố tự nhiên.
- Nhóm các nhân tố kinh tế-xã hội.
Tự nhiên là điều kiện chung của
sản xuất, do đó ảnh hưởng của tự nhiên
đến cơ cấu kinh tế là một tất yếu, mặc
dù ngày nay sự phát triển vượt bậc của
LLSX thì nền sản xuất trước sau vẫn
gắn bó với tự nhiên.
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực
quan trọng ảnh hưởng đến nền sản xuất
xã hội. Các nhân tố kinh tế xã hội gồm
các nguồn lực lao động, vốn, trình độ
khoa học – công nghệ…phản ánh trình
độ phát triển của mỗi quốc gia.
Các nhân tố tác động của quốc tế và
chính sách phát triển của mỗi quốc gia
mới là nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu
kinh tế và quá trình biến đổi cơ cấu
kinh tế.
b. Cách phân loại thứ hai
- Các nhân tố bên trong bao gồm
toàn bộ tiềm năng có thể huy động
được và cách thức sử dụng tiềm năng
15
đó vào quá trình phát triển hay có tác
động hạn chế đến quá trình phát triển.
- Các nhân tố bên ngoài bao gồm:
tất cả các yếu tố KTCT quốc tế có tác
động tích cực hay hạn chế đến sự phát
triển kinh tế của đất nước.
Tóm lại: các nhân tố bên ngoài tuy
ảnh hưởng đáng kể, song các nhân tố
bên trong mới có tính chất quyết định,
bởi vì nó không những tác động vào
khả năng huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực bên trong mà còn
quyết định cả việc huy động và sử
dụng các nhân tố bên ngoài hoặc cố
gắng hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực của các nhâ tố bên trong trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
c.Cách phân loại thứ ba
- Các nhân tố khách quan bao gồm
các nhân tố tự nhiên, trình độ phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, các nhân
tố bên ngoài.
- Các nhân tố chủ quan liên quan
đến chính sách của Nhà nước, sự lựa
chọn chiến lược phát triển cụ thể hóa
các chiến lược đó, tổ chức thực hiện
nó trong thực tiễn.
Tóm lại: Các nhân tố khách quan có
thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây
cản trở cho quá trình phát triển, song
16
không mang tính chất quyết định.
Nhân tố chủ quan mang tính chất quyết
định tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả
hay không hiệu quả thể hiện ở quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
những thành tựu hay thất bại do sai
lầm chủ quan của chính sách kinh tế ở
thời kỳ này trở thành nhân tố khách
quan thuận lợi hay gây trở ngại cho tốc
độ và hiệu quả của quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở những thời kỳ
tiếp theo.
Trên đây là toàn bộ những nội dung
cơ bản mang tính lý luận về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Vậy đối với nước
ta phương hướng phát triển kinh tế ở
nước ta như thế nào? Chúng ta chuyển
sang phần II.
II. PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ
CƠ CẤU KINH TẾ NƯỚC TA ĐẾN
NĂM 2010
Trong những năm đổi mới,cơ cấu
kinh tế nước ta có những chuyển biến
tích cực. Cơ cấu kinh tế theo ngành,
theo vùng và theo thành phần đều có
những bước thay đổi quan trọng.
QHSX đã có bước tiến đổi mới phù
hợp với trình độ của LLSX và thúc đẩy
sự hình thành của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Từ chỗ
17
khan hiếm hàng hóa nghiêm trọng, đến
nay sản xuất trong nước đã đáp ứng
được nhu cầu thiết yếu của nhân dân và
nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự
trữ. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước
ta đã mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
và khu vực, chủ động từng bước hội
nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế
giới.
Tuy vậy, cơ cấu kinh tế nước ta
chuyển dịch còn chậm, khả năng cạnh
tranh của nhiều hàng hóa dịch vụ còn
thấp, nhiều tiềm năng, nguồn lực chưa
được khai thác có hiệu quả.
Nghị quyết Đại hội IX đã xác định
chiến lược phát triển kinh tế –xã hội10
năm đầu của thế kỷ XXI “chiến lược
đẩy mạnh CNH- HĐH theo định hướng
XHCN, xây dựng nền tảng đến năm
2020,nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp” (Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà
Nội 2001, trang 148).
Nghị quyết Đại hội IX cũng đã đề
ra đường lối chủ trương chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nước ta – cả về định
hướng và định lượng đến năm 2010
(Văn kiện Đại hội IX).
Sau đây là những định hướng cơ
18
bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
ngành, theo vùng, theo từng thành
phần kinh tế.
1.Định hướng phát triển theo
ngành.
a. Về nông nghiệp:
- Bước vào thời kỳ phát triển mới
của đất nước, nông nghiệp giữ vị trí hết
sức quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân.
- Nông nghiệp là ngành sản xuất và
cung cấp cho con người lương thực,
thực phẩm, nhu cầu tối thiểu cần thiết
của cuộc sống. Chưa ngành nào có thể
thay thế được, đảm bảo an toàn lương
thực là cơ sở đảm bảo ổn định kinh tế,
chính trị, xã hội, tiền đề cần thiết cho
sự phát triển.
- Nông nghiệp nước ta cũng là nơi
có khả năng cung cấp nguyên liệu và
thị trường rộng lớn cho phát triển công
nghiệp, cung cấp nhiều loại sản phẩm
có giá trị cho xuất khẩu.
-Phát triển hợp lý nông nghiệp sẽ
góp phần to lớn vào việc bảo vệ và giữ
gìn, cải tạo môi trường sinh thái.
- Phát triển nông nghiệp là cách tốt
nhất nhằm phát triển tiềm năng của
nông nghiệp nông thôn, tạo việc làm,
19
tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân
dân khu vực nông thôn, tạo ra thị
trường phát triển công nghiệp.
Trên cơ sở đó phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn là thực
hiện một chiến lược kép vừa đảm bảo
chiến lược phát triển kinh tế, vừa giải
quyết mọi vấn đề xã hội.
- Chương trình phát triển nông
nghiệp
Đại hội IX của Đảng đã thông qua
chương trình phát triển nông nghiệp và
kinh tế nông thôn như sau:
+ Đẩy nhanh CNH- HĐH nông
nghiệp và nông thôn theo hướng hình
thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn
phù hợp với yêu cầu thị trường và điều
kiện sinh thái của từng vùng.
+ Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất
nông nghiệp.
+ Tăng cường tiềm lực khoa học
công nghệ trong nông nghiệp nhất là
công nghệ sinh học kết hợp với công
nghệ thông tin.
+ Tiếp tục phát triển và hoàn thiện
về cơ bản hệ thống thủy lợi ngăn mặn,
giữ ngọt kiểm soát lũ, bảo đảm tưới
tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất
nông nghiệp và đời sống nhân dân.
+ Phát triển công nghiệp và dịch vụ
20
- Xem thêm -