Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Địa lý Chuyen de mot so ppdh giup hs hoc tot dia li...

Tài liệu Chuyen de mot so ppdh giup hs hoc tot dia li

.DOC
6
564
103

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRƯỜNG LONG HÒA  Chuyên đề MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN ĐỊA LÍ THCS  Giáo viên thực hiện: Nguyễn Tấn Thanh Năm học: 2012-2013 Chuyên đề MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC 1 GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN ĐỊA LÍ THCS I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Chúng ta đang sống trong thời đại “Ứng dụng Công nghệ thông tin”, những kiến thức giảng dạy ở nhà trường chỉ là những kiến thức cơ bản, có tính chất khí quát và thời gian học tập của các em ở trường không thể kéo dài vô hạn. Vì vậy trong quá trình giảng dạy địa lí ở trường phổ thông, chúng ta cần phát huy năng lực tư duy của các em để các em không chỉ nắm được kiến thức mà còn mở rộng kiến thức áp dụng vào thực tiễn biết phán đoán các sự phát triển của các hiện tượng. Nước ta đang trong quá trình phát triển và đổi mới nên rất cần có những người có tri thức, do vậy sự nhạy bén của học sinh trong tư duy đòi hỏi cao và nhiệm vụ dạy học địa lí cùng sự phát triển tư duy là nhiệm vụ mà người giáo viên địa lí cần chú trọng hơn bao giờ hết. Muốn thực hiện được nhiệm vụ này giáo viên cần phải cải tiến các phương pháp dạy học nhằm phát huy cao độ tính tích cực của học sinh, do đó mà tôi quyết định chọn đề tài: “Một số phương pháp dạy học giúp học sinh học tốt môn địa lí”. II.NỘI DUNG: 1.Thuận lợi: -Nhìn chung, đa phần các em học sinh có tập trung trong việc học tập và nhờ những biện pháp hữu hiệu đã thu hút, lôi cuốn các em vào học môn địa lí một cách thích thú, say mê. -Muốn được như thế, tôi luôn tìm hiểu, học hỏi và không ngừng thay đổi phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, đặc điểm từng bài học. 2.Khó khăn: Qua tìm hiểu nguyên nhân làm cho học sinh nghỉ học trong những năm học trước là do các em học yếu ngày càng không theo kịp các bạn nên sinh ra nghĩ chán nản, buông lỏng việc học hành cuối cùng thì thôi học. III.BIỆN PHÁP 1.Dạy học địa lí là gì ? Nó có nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng cho học sinh có đầy đủ năng lực làm tốt nhiệm vụ giáo dục của mình một cách sáng tạo và có hiệu quả cao đối với các thế hệ học sinh thông qua môn địa lí. Như vậy dạy học địa lí là sự nghiên cứu quá trình dạy học môn địa lí trong nhà trường phổ thông, hay nói cách khác đầy đủ hơn là: “Quá trình giáo dục – đào tạo dạy dỗ học sinh thông qua việc giáo viên tổ chức hướng dẫn cho học sinh nắm vững một khối lượng kiến thức, kỹ năng nhất định trong chương trình học của môn địa lí trong nhà trường phổ thông. 2.Nhiệm vụ của dạy học địa lí: 2 Giáo viên dạy địa lí phải tìm ra những mối quan hệ có tính quy luật giữa nội dung môn địa lí trong nhà trường với các hoạt động của giáo viên và học sinh, nhằm tạo ra những hiệu quả ngày càng cao đối với học sinh. Nhiệm vụ đó yêu cầu giáo viên phải giải quyết được hai câu hỏi: +Môn địa lí dạy những nội dung gì ? Tại sao phải học và học những môn đó ? +Dạy và học như thế nào trong điều kiện thực tế của nhà trường để học sinh có sự tư duy địa lí, kỹ năng địa lí. Giải đáp được hai câu hỏi trên tức là phải giái đáp các vấn đề có liên đến mục đích, đến nội dung, đến các điều kiện và phương pháp dạy và học của môn địa lí. 3.Nhiệm vụ của người giáo viên địa lí: Các kiến thức cơ bản trong bài học địa lí là các quy luật địa lí, các khái niệm địa lí được sắp xếp theo một hệ thống nhất định. Vì vậy việc dạy các kiến thức địa lí cho học sinh chính là việc hình thành một cách vững chắc các quy luật địa lí, các khái niệm địa lí cho học sinh. +Ví dụ 1: Núi là dạng địa hình như thế nào ? +Ví dụ 2: Núi Hoàng Liên Sơn ở Việt Nam là khái niệm riêng vì nó gắn liền với một địa danh cụ thể. Như vậy, khái niệm địa lí cũng giống như tất cả các khái niệm khoa học khác, trước hết là kết quả của sự tư duy trừu tượng, nó là cơ sở của tri thức địa lí, các khái niệm địa lí cũng có tính chất không gian đó chính là dấu hiệu phân biệt chúng với các khái niệm khoa học khác. Do đặc điểm của chúng nên mỗi một khái niệm đều có phương pháp hình thành riêng trong quá tình dạy học. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của môn địa lí trong nhà trường là phải giải thích các hiện tượng xảy ra trong môi trường tự nhiên và kinh tế xã hội (trang 42/SGK 6) +Ví dụ: Muốn hình thành cho học sinh khái niệm về núi, trước hết dựa vào tranh ảnh, giáo viên cho học sinh quan sát quả núi, sau đó hướng dẫn cho học sinh phân tích các bộ phận cấu thành của nó như chân núi, sườn núi, đỉnh núi,...tiếp đó giáo viên cho các em so sánh những đặc điểm của núi với các dạng địa hình khác như đồi, cao nguyên và đồng bằng....Sau đó tổng hợp lại các kiến thức nhằm rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Để có được những tri giác học sinh có thể tự mình tạo nên được nhưng để hình thành những khái niệm thì cần có người thầy để tổ chức chỉ đạo hướng dẫn và dìu dắt, từ đó học sinh mới phát huy được tính tích cực tự giác trong việc thực hiện các thao tác tư duy, mỗi khái niệm được hình thành cho học sinh phải luôn luôn chính xác và đòi hỏi học sinh phải diễn đạt được bằng ngôn ngữ, tư duy càng đúng đắn thì sự diễn đạt bằng ngôn ngữ càng chính xác. Tóm lại, môn địa lí giúp học sinh có đủ khả năng phát triển tư duy trong học tập, nó chỉ đạt được kết quả khi giáo viên tạo được hứng thú cho học sinh, giúp các 3 em tự giác chủ động lĩnh hội tri thức địa lí dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Để làm được điều đó, giáo viên phải được bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức và phương pháp giảng dạy. Nếu không được bồi dưỡng thường xuyên, thay đổi cách tuyền đạt thì học sinh thường học một cách thụ động, không phát huy được năng lực tư duy sáng tạo. Vì vậy phương tiện trực quan trong giảng dạy địa lí không chỉ là hình tượng bên ngoài của sự vật địa lí mà nó còn là kết quả của sự vật, nó là chỗ dựa để học sinh tiến hành các thao tác tư duy và lĩnh hội được tri thức. Trong môn học địa lí ở nhà trường phổ thông cần có những phương tiện dạy học đặc trưng như bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, mô hình, atlat,.... Chúng ta đều biết rằng không có môn học nào ở trường phổ thông mà không cần đến thiết bị giảng dạy, riêng môn địa lí thì cac dụng cụ nói trên lại rất cần thiết, do các sự vật và hiện tượng địa lí đều được phân bổ trên toàn bộ bề mặt trái những điều kiện để học sinh trực tiếp quan sát lại càng ít ỏi. Vì vậy hệ thống biểu tượng và khái niệm địa lí phần lớn được hình thàn bằng con đường tư duy trừu tượng thông qua các thao tác phân tích, so sánh, khái quát,...Nếu không có sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học thì học sinh khó lĩnh hội vững chắc kiến thức địa lí. Ngoài việc sử dụng thiết bị để hình thành biểu tượng và khái niệm địa lí, giáo viên còn dựa vào các phương tiện đó để thực hiện những yêu cầu về rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh, những dụng cụ sử dụng trong nhà trường có thể không tinh vi chính xác như những thiết bị của các nhà chuyên môn nhưng chúng đã giúp rất nhiều cho việc rèn luyện những kỹ năng địa lí của học sinh. Song song với tác dụng to lớn về mặt trang bị kiến thức cho học sinh, những thiết bị giảng dạy địa lí còn có tác dụng về mặt giáo dục như tranh ảnh, mô hình về các hiện tượng địa lí tự nhiên, về các hoạt động sản xuất của nhân dân ta là những phản ánh phong phú về thực tế cuộc sống xung quanh các em....đó là phương tiện để gắn liền học tập trong nhà trường với thực tế cuộc sống ở ngoài xã hội. IV.PHƯƠNG PHÁP 1.Phương pháp giảng giải: Là phương pháp giáo viên dùng lời để giải thích sự kiện, hiện tượng địa lí. Ví dụ: Giải thích nguyên nhân gây ra thủy triều. Phương pháp giảng giải thường kết hợp với các phương tiện trực quan như tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ,... để minh họa cho lời giải thích, trong khi giải thích giáo viên có thể đưa ra các số liệu, sự kiện, hiện tượng địa lí rồi sau đó đi tìm nguyên nhân và rút ra kết luận. 2.Phương pháp đàm thoại (hỏi, đáp): Cũng là phương pháp dùng lời nhưng dưới hình thức trao đổi qua lại giữa thầy và trò thường giáo viên là người chủ động đề ra các câu hỏi và yêu cầu học sinh trả lời. Trong phương pháp đàm thoại sự tham gia của học sinh có nhiều mức độ, điều đó tùy thuộc vào mục đích của việc đàm thoại, nếu giáo viên vẫn coi mục đích cung cấp 4 tri thức làm sẵn cho học sinh là chính thì những câu hỏi đặt ra phần lớn là có tính chất hình thức chỉ nhằm vào việc yêu cầu học sinh nhắc lại những điều mà giáo viên biết chắc chắn là các em đã nắm vững hoặc những vấn đề mà giáo viên vừa mới giảng. Những câu hỏi như vậy chỉ mang tính chất kiểm tra kiến thức cũ, củng cố kiến thức mới và nhắc nhở thức học tập của học sinh mà chưa có tác dụng về mặt phát triển tư duy. Các câu hỏi như thế không đòi hỏi giáo viên mất nhiều công sức về mặt chuẩn bị và cũng không có tác dụng gì hơn trong quá trình nhận thức của học sinh, chỉ trong trường hợp giáo viên đã có thức trong việc phát huy trí lực của học sinh thì những câu hỏi cần được chuẩn bị chu đáo hơn. Khi chuẩn bị giáo viên cần nghiên cứu kỹ những yù trọng tâm của bài, đặt ra những vấn đề đòi hỏi học sinh phải tích cực suy nghĩ, phải vận dụng các thao tác tư duy cần thiết mới tìm ra lời giải đáp. Giáo viên cũng phải hình dung ra được quá trình suy nghĩ và làm việc của học sinh, giáo viên dựa vào những kiến thức nào ? những kỹ năng nào ? những dữ kiện nào đã biết ? những dữ kiện nào còn thiếu ? những dữ liệu nào cần bổ sung thêm bằng câu hỏi phụ ?..... Ví dụ: Khi dạy phần khí hậu Châu Âu, giáo viên có thể đặt ra câu hỏi: Em hãy dựa vào lược đồ trong sách giáo khoa (hình 51.2) giải thích tại sao khí hậu Tây Âu lại ôn hòa, ấm áp, nhiều mưa, còn khí hậu Đông Âu lại khắc nghiệt, có mùa đông lạnh và lượng mưa trong năm cũng ít hơn (trang 155/SGK) Để trả lời được câu hỏi này, học sinh phải xác định được vị trí hai khu vực Tây Âu và Đông Âu trên bản đồ, nắm được các nhân tố ảnh hưởng đến khí hậu như vĩ độ, vị trí địa lí (gần biển hay xa biển), địa hình, hướng gió, đặc điểm các dòng hải lưu ven bờ và khái niệm về hai kiểu khí hậu và lục địa. Tất cả các nhân tố trên, học sinh đã được học trong phần địa lí đại cương nhưng khi vận dụng vào trường hợp này tùy theo trình độ của học sinh giáo viên có thể nêu một số câu hỏi phụ để các em không bỏ sót các nhân tố chính như đặc điểm của gió Tây Ôn đới của dòng biển Bắc Đại tây Dương..... Nói chung các câu hỏi phát triển tư duy của học sinh đặt ra trong quá trình đàm thoại thường tập trung vào hai yêu cầu: +Bắt buộc học sinh phải so sánh hai dữ liệu, hiện tượng địa lí đã biết. +Giải thích các sự kiện, hiện tượng địa lí bằng cách vận dụng các kiến thức đã học. Quá trình đàm thoại có thể diễn ra dưới hình thức một cuộc trao đổi liên tục giữa thầy và trò với những câu hỏi, trong đó thầy hỏi với mục đích vừa kích thích học sinh suy nghĩ vừa gợi yù để học sinh trả lời. V.KẾT LUẬN Môn địa lí giúp học sinh hiểu rằng: đất nước ta trước đây bị bóc lột và tàn phá trong chiến tranh như thế nào, đời sống nhân dân ta vì đâu mà nghèo khó,...Hiểu được như vậy, các em sẽ càng quyết tâm học tập bảo vệ những thành tựu của đất nước. Như vậy , môn địa lí không chỉ giáo dục cho học sinh long yêu nước, thái độ nhiệt tình lao 5 động mà còn bồi dưỡng cho các em yù thức làm chủ và góp phần làm cho đất nước giàu đẹp. Tuy nhiên, khi học địa lí địa phương không phải chúng ta chỉ nói đến những thuận lợi mà phải nói đến những khó khăn về tự nhiên cũng như về kinh tế, xã hội đang cản trở bước tiến của chúng ta. Các khó khăn đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: một xã hội cũ với nền kinh tế lạc hậu, trình độ khoa hoc mỹ thuật chưa phát triển nền nông nghiệp còn lệ thuộc vào tự nhiên, việc khai thác sử dụng tài nguyên quá mức gây lãng phí,... Quá trình dạy học địa lí ở trường phổ thông, cần phải khắc sâu được kiến thức cơ bản học sinh. Trong môn địa lí ở trường phổ thông kiến thức cơ bản chính là các khái niệm địa lí, các quy luật địa lí, vì vậy cần có các phương pháp và biện pháp có hiệu quả để hình thành một cách vững chắc các khái niệm và quy luật địa lí, cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học tự nhiên, về dân cư và các hoạt động kinh tế của con người ở khắp nơi trên trái đất, đặc biệt là giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay. Trang bị cho học sinh một số kỹ năng kỹ xảo để học sinh vận dụng các kiến thức của khoa học địa lí vào thực tiễn, làm quen các phương pháp: quan sát, làm việc với bản đồ, các số liệu thống kê,... để các em không bỡ ngỡ trước những hoạt động phức tạp và đa dạng của cuộc sống. Duyệt của CGH Duyệt của Tổ trưởng Trường Long Hòa, ngày 30/10/2012 Người viết 6
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan