ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LẠI VĂN THÁI
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LẠI VĂN THÁI
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số
: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
HÀ NỘI - 2013
2
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
1
MỞ ĐẦU
Chương 1:
LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN
7
KIỂM SÁT
1.1.
Quyền công tố trong tố tụng hình sự
7
1.1.1.
Sự xuất hiện quyền công tố
7
1.1.2.
Khái niệm quyền công tố
11
1.1.3.
Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố
18
1.2.
Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự
19
1.2.1.
Khái niệm thực hành quyền công tố
19
1.2.2.
Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố
22
1.3.
Chức năng công tố trong một số mô hình tố tụng hình sự
tiêu biểu trên thế giới
25
1.3.1.
Mô hình tố tụng tranh tụng
25
1.3.2.
Mô hình tố tụng thẩm vấn
29
1.3.3.
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam
30
Chương 2:
32
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1.
Chức năng công tố trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 ra đời
3
32
2.1.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
32
2.1.2.
Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 ra đời
33
2.2.
Chức năng công tố theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
34
2.2.1.
Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố ở Việt Nam
34
2.2.2.
Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
35
2.2.3.
Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự
37
2.2.3.
Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự
52
Chương 3:
71
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ Ở VIỆT
NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
3.1.
Thực trạng hoạt động công tố ở Việt Nam
71
3.1.1.
Thực trạng thực hiện quyền công tố ở Việt Nam trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
71
3.1.2.
Thực trạng thực hiện quyền công tố ở Việt Nam trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự
80
3.2.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tố ở
Việt Nam
84
3.2.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật
84
3.2.2
Đổi mới nội dung và phương pháp thực hành quyền công tố
trong tố tụng hình sự
88
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng khởi tố vụ án hình sự, thực hiện có
hiệu quả các biện pháp thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự
88
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố tại phiên tòa
89
3.2.2.3. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong việc tổ
chức thực hiện quyền công tố
89
4
3.2.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền,
mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với các ngành
hữu quan trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm
90
3.2.3.
91
Giải pháp về công tác cán bộ của Viện kiểm sát
3.2.3.1. Nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số
lượng Kiểm sát viên
91
3.2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của
lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên đối với các Viện kiểm sát
cấp dưới
93
KẾT LUẬN
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
3.1
Kết quả hoạt động điều tra, truy tố trong 6 năm (2007-2012)
82
3.2
Số liệu thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra những
86
bảng
vụ án đình chỉ, tạm đình chỉ và trả hồ sơ điều tra bổ sung
3.3
Kết quả kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm 6 năm (2007-2012)
7
89
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10]. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân (VKSND) năm 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003.
Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi
hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong đó việc tăng cường chất lượng công tố của VKS nhằm chống bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, là một nội dung quan trọng được thể hiện
trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Nghị quyết 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới" đã chỉ rõ:
Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với
nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội
phạm, làm oan người vô tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của
công dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và với các cơ quan tư pháp [11].
Cụ thể về công tố, Nghị quyết 08/NQ-TW đã có ý kiến chỉ đạo:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động
công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt
quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội… Nâng cao chất lượng công
8
tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với Luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… [11].
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW "Về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020", trong đó có nội dung: "Hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện
tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới
chuyển thành Viện công tố" [12].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục ghi nhận các nội dung: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
hoàn thiện hệ thống pháp luật; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm;
thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra…
Trong những năm vừa qua, quá trình thực hiện đã đạt được những
thành tựu đáng khích lệ trong việc trừng trị tội phạm, bảo vệ quyền tự do dân
chủ của công dân. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, Nghị quyết 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005 "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã chỉ ra:
Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình
sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tổ chức tố tụng tư
pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ
máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư
pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn
thiếu; trình độ nghiệp vụ bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ
còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và
trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra,
bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu [13].
9
Những năm qua, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn
bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKSND năm
2002, BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản trên có nhiều quy
định mới liên quan đến chức năng công tố của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu,
làm rõ các quy định của pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
VKS riêng cũng như của các cơ quan tư pháp nói chung.
Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, để góp phần bảo đảm VKS
thực hiện tốt chức năng công tố, việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả về mặt lý
luận và thực tiễn quyền công tố trong tố tụng hình sự là vấn đề bức xúc và cần
thiết. Đây cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài "Chức năng công tố của Viện
kiểm sát" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình
sự đã được một số sách, báo, công trình nghiên cứu đề cập. Một số tác giả đã
có những nghiên cứu, bài viết về vấn đề này: Tiến sĩ khoa học Lê Cảm có bài
Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố (nhìn nhận từ góc độ nhà
nước pháp quyền) (tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2001; Lê Thị Tuyết
Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sĩ luật học), Hà Nội, 2002;
Tiến sĩ Trần Văn Độ có bài Một số vấn đề về quyền công tố; một số bài viết
của các tác giả khác trong tập kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý
luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay, Hà Nội, 1999…
Một số luận văn thạc sĩ luật học đã được công bố tại Khoa luật - Đại học
quốc gia Hà Nội: Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận
dụng vào điều kiện Việt Nam, của Lý Văn Chính (năm 2004); Quan hệ giữa
Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, của Lang Văn Bảo (năm 2005); Tranh
10
tụng tại phiên tòa một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Nguyễn Mạnh Tiến
(năm 2005); Phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định
của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Đào Thị Diệp (năm 2008).
Những luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu trên về tổ chức và hoạt
động của VKS nói chung, đồng thời đề cập đến các vấn đề liên quan đến
quyền công tố. Từ khi BLTTHS 2003 có hiệu lực đến nay chưa có công trình
nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về chức năng công tố của VKS;
ngoài ra việc thực hiện các quy định về chức năng công tố có những nơi, địa
bàn còn có nhận thức, áp dụng chưa thống nhất. Chính vì vậy việc tiếp tục
nghiên cứu về chức năng công tố của VKS là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả
về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu chức năng để làm rõ vai trò của VKS trong
thực hiện chức năng công tố cả về mặt lý luận và thực tiễn. Từ đó làm sáng tỏ
một số vấn đề lý luận về chức năng công tố, đồng thời xác định thực trạng
thực hiện chức năng, tìm nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố
tụng hình sự.
- Nghiên cứu việc thực hiện chức năng công tố trong một số mô hình
tố tụng hình sự tiêu biểu trên thế giới.
- Nghiên cứu về chức năng công tố theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
11
- Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố ở nước ta trong
những năm gần đây, tìm ra những nguyên nhân của những kết quả đạt được
và những tồn tại, hạn chế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ chuyên ngành luật hình sự, luận văn tập trung nghiên
cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền
công tố trong tố tụng hình sự, thực trạng thực hành quyền công tố trong tố
tụng hình sự những năm gần đây ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử
pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình
sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học
trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên
tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.
- Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ
về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu
như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án,
báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC). Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các
công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các
chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa
học góp phần xây dựng một cái nhìn toàn diện về chức năng công tố của
VKS, đồng thời thấy được trách nhiệm cũng như vai trò của VKS trong công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay.
12
Về thực tiễn: Luận văn sẽ là tài liệu có giá trị, có thể dùng làm tài liệu
tham khảo, nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo, trong hoạt động
nghiệp vụ của Kiểm sát viên và lãnh đạo VKS. Những đề xuất, kiến nghị của
luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt động trong
cơ quan VKS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về chức năng công tố của Viện kiểm sát.
Chương 2: Chức năng công tố trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng hoạt động công tố ở Việt Nam và các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả.
13
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
1.1. QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Sự xuất hiện quyền công tố
Công tố là hiện tượng xã hội xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhân
loại, nó gắn liền với các nhà nước trong các chế độ chính trị - xã hội và ngày
càng phát triển. Trong nhà nước pháp quyền "công tố", "quyền công tố" và
"thực hành quyền công tố" là những phạm trù đi liền với chức năng nhà nước
trong quá trình quản lý xã hội, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Đồng thời, quyền công tố cũng được xem xét trong mối quan hệ với phạm trù
bảo đảm quyền con người, nên nó là vấn đề khá "nhạy cảm" nếu không giải
quyết tốt mối quan hệ này. Là hiện tượng trong cơ cấu thực hiện quyền lực
nhà nước nhưng quan niệm về sự xuất hiện quyền công tố cũng như nội hàm
của hiện tượng này có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và
cơ sở triết học cũng như thực tiễn khác nhau. Sự đa dạng của các quan điểm
về sự ra đời của quyền công tố giúp chúng ta xem xét nó ở trên nhiều bình
diện để có sự nhìn nhận, đánh giá khoa học nhất.
Chúng tôi, khái quát những quan điểm tương đối về sự ra đời của
quyền công tố trong lịch sử, cụ thể là:
Thứ nhất, quan điểm cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát
triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người
được đề cao, đòi hỏi cần phải có một cơ quan thay mặt nhà nước đứng ra bảo
vệ quyền bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp [39, tr. 11]. Như vậy, quan điểm
này đã thể hiện một nội dung quan trọng là quyền công tố không phải xuất
hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước trong lịch sử xã hội loài mà chỉ xuất
hiện khi nhà nước đó phát triển ở mức độ tương đối cao, khi mà "các khái
14
niệm dân chủ và quyền con người được đề cao". Với lập luận này quyền công
tố chỉ xuất hiện trong nhà nước có tính chất pháp quyền.
Thứ hai, quan điểm coi quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có
trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật
khi tham gia quá trình tố tụng tại phiên tòa và thực hiện các quyền theo quy
định của pháp luật (có thể nằm trong cơ cấu của Tối cao pháp viện). Cơ quan
công tố là "mối dây liên lạc giữa các cơ quan công quyền với quần chúng,
giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ lợi ích của các bên theo
quy định của pháp luật". Đại diện cho trường phái này là E.Hermann và tập
thể tác giả trong cuốn "Quyền công tố trong cơ cấu hành chính - chính trị".
Các tác giả nhấn mạnh quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự
phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì phải có một
loại cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng "chống" lại quyền xét
xử để nhằm bảo vệ các đạo luật, bảo vệ Chính phủ và các thể nhân bị Tòa án
xét xử. Đó là quyền công tố [39, tr. 12].
Thứ ba, quan điểm cho rằng, đến cuối thể kỷ XIII đầu thế kỷ XIV
(thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến), với việc tách các cơ quan Tòa án ra
khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống
pháp luật thì lịch sử công tố mới xuất hiện. Tuy không xuất hiện cùng với
Nhà nước nhưng lịch sử quyền công tố gắn liền với quá trình phát triển của
Nhà nước và phân chia quyền lực nhà nước, gắn liền với sự phát triển và văn
minh của pháp luật. Trước đó việc xét xử do các quan chức hành chính kiêm
nhiệm và là người đại diện cho Vua để xét xử, chứ không phải đại diện cho
công quyền. Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố là quyền
đại diện cho nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự
pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử (ra Tòa án), do đó quyền công tố không
thể xuất hiện cùng với nhà nước mà chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp và độc lập [39, tr. 13].
15
Thứ tư, quan điểm cho rằng, quyền công tố là một khái niệm pháp lý,
gắn liền với bản chất của nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà
nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu nhà nước, từ
nhà nước chủ nô đến các nhà nước đại diện [39, tr. 14]. Quan điểm này, khá
cởi mở và coi quyền công tố như một đặc tính vốn có của nhà nước như dân
cư, lãnh thổ...
Như vậy, đa số các quan điểm (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) đều có cơ sở
chung là khẳng định quyền công tố chỉ xuất hiện khi có nhà nước pháp quyền,
và gắn việc xuất hiện quyền công tố với vấn đề dân chủ. Theo đó, quyền công
tố là kết quả trực tiếp và tất yếu của quá trình vận động xã hội ở thời điểm
xuất hiện dân chủ với nghĩa là một thể chế. Những quan điểm thuộc loại này
đã phản ánh một thực tại là việc phân công rành mạch chức năng của các cơ
quan nhà nước chỉ gắn liền với nhà nước dân chủ, nhà nước pháp quyền.
Nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan
chuyên trách thực hiện quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với cuộc
đấu tranh chống lại nhà nước chuyên chế, phi dân chủ, thực hiện sự phân chia
quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Song không phải vì thế mà đồng
nhất sự ra đời của cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố (là một bộ
phận thuộc cơ cấu quyền lực nhà nước) với sự ra đời của quyền công tố (là
một khái niệm pháp lý).
Từ những phân tích trên, quan điểm thứ tư là có cơ sở hơn cả. Quyền
công tố luôn luôn gắn liền với bản chất của nhà nước, là một bộ phận cấu
thành và không thể tách rời của công quyền. Với quan điểm coi quyền công tố
là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện việc buộc tội
đối với những người đã thực hiện hành vi phạm tội (theo quan điểm của giai
cấp thống trị xã hội), chúng tôi cho rằng khi nhà nước xuất hiện thì cùng đồng
thời xuất hiện quyền công tố. Nhà nước nào cùng ban hành pháp luật để quản
lý xã hội (nói chính xác hơn là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho các
quan hệ xã hội được thực hiện theo ý muốn, theo khuôn mẫu tư tưởng của
16
giới thống trị xã hội). Đồng thời nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại khi xuất
hiện và tồn tại những mâu thuẫn đối kháng (mang tính giai cấp) không thể
điều hòa được. Điều đó có nghĩa là trong bất kỳ một xã hội nào (khi đã xuất
hiện nhà nước), bên cạnh lực lượng thống trị xã hội luôn luôn tồn tại một
(hoặc nhiều) lực lượng (bị thống trị) có thái độ, có hành động thù địch chống
lại lực lượng thống trị xã hội (nắm quyền lực nhà nước), biểu hiện cụ thể ở
những hành vi vi phạm pháp luật (chống lại ý chí của giai cấp thống trị) đến
mức nguy hiểm (đe dọa đến quyền thống trị nhà nước) cần phải bị trừng trị.
Muốn trừng trị kẻ vi phạm thì phải buộc được tội của họ. Quyền nhân danh
nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện sự buộc tội này chính là quyền
công tố. Tuy nhiên việc tổ chức thực hiện quyền công tố, nội dung quyền
công tố, và phạm vi thực hành quyền này được quy định rất khác nhau ở mỗi
quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Ngay trong một nhà nước cụ thể với một chế độ chính trị xác định, ở mỗi giai
đoạn phát triển của nó cũng có thể có những thay đổi nhất định trong việc tổ
chức và xác định phạm vi thực hiện quyền công tố.
Thời kỳ đầu khi nhà nước mới ra đời, trong điều kiện bộ máy nhà
nước còn đơn giản và hệ thống pháp luật mới được hình thành quyền công tố
chỉ được sử dụng trong một phạm vi hẹp để bảo vệ các lợi ích công, như các
lợi ích của nhà nước (của giai cấp thống trị) và lợi ích của cả cộng đồng. Do
đó chức năng nhà nước chưa được phân định rõ ràng giữa các cơ quan nhà
nước, quyền công tố có thể do một cơ quan, thậm chí một quan chức nhà
nước duy nhất thực hiện từ đầu đến cuối. Ví dụ, trong nhà nước chủ nô hoặc
phong kiến, việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thông thường chỉ do một
quan án đảm nhiệm.
Càng về sau cùng với sự phát triển, hoàn thiện của bộ máy nhà nước
và hệ thống pháp luật, việc phân định chức năng nhà nước giữa các cơ quan
trong bộ máy nhà nước ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng chuyên môn
hóa. Mặt khác nhận thức xã hội về lợi ích công, lợi ích tư, về trách nhiệm của
17
nhà nước đối với xã hội và cá nhân đã có sự thay đổi đáng kể. Dần dần, nhà
nước (giai cấp thống trị) nhận thức một cách đầy đủ và rõ ràng rằng, trong
nhiều trường hợp khi có lợi ích cá nhân bị xâm phạm thì lợi ích công (như trật
tự công cộng, an ninh xã hội...) cũng bị xâm hại hoặc bị đe dọa. Bởi vậy, cần
thiết phải có sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ lợi ích cá nhân khi chúng bị
xâm phạm. Chính vì lẽ đó, vai trò của công tố ngày càng được đề cao, trong
khi vai trò của tư tố ngày càng mờ nhạt dần trong hoạt động tố tụng hình sự.
Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật
hình sự, trong đó quy định cụ thể các loại hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm. Bất kỳ giai cấp thống trị nào khi lên nắm quyền lực nhà nước đều hết
sức quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự, bởi chính pháp luật hình sự là
phương tiện cai trị hữu hiệu nhất. Khi một hành vi bị coi là tội phạm được
thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà
nước và bên kia là người phạm tội. Trong quan hệ này nhà nước là chủ thể sử
dụng quyền lực nhà nước (quyền lực công) để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, còn người phạm
tội là chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và gánh chịu các chế tài do pháp
luật hình sự quy định và áp dụng. Quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hình sự
gắn liền với sự buộc tội nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) và chỉ
phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền
đó được gọi là quyền công tố.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng "quyền công tố là một
khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của nhà nước. Nó xuất hiện cùng với
sự ra đời của nhà nước và pháp luật, tồn tại khi có nhà nước và mất đi khi
không còn nhà nước" [39, tr. 17].
1.1.2. Khái niệm quyền công tố
Thuật ngữ "công tố" là một thuật ngữ Hán-Việt, theo cuốn từ điển
Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học do GS. Hoàng Phê chủ biên, công tố có
18
nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án" [59], như
vậy về mặt ngôn ngữ tiếng Việt, công tố được hiểu là việc nhân danh nhà
nước để buộc tội một người bị tình nghi là phạm tội.
Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa
ra thuật ngữ "thực hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của
VKSND (Điều 138). Thuật ngữ này được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ
chức VKSND năm 1981. Như vậy, trong các hoạt động của VKSND, bên cạnh
khái niệm truyền thống "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" đã xuất hiện khái
niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố". Trong thời gian vừa qua
đã có rất nhiều tài liệu, bài viết trên các tạp chí khoa học đề cập đến khái niệm
này, song đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao trong
nhận thức về vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một văn bản chính
thức nào của Nhà nước ta (từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến VKSNDTC)
chính thức giải thích nội dung quyền công tố. Hiện nay, ở nước ta vẫn tồn tại
rất nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố, tựu chung lại có những quan
điểm về nội hàm của quyền công tố, có thể kể đến các quan điểm tiêu biểu sau:
a) Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND (trước khi Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ
sung năm 2001). Có thể thấy quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKSND
để xem xét quyền công tố. Quan điểm này cho rằng tất cả các hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố. Điều đó có nghĩa
là ngay cả khi VKS kiến nghị yêu cầu các cơ quan nhà nước sửa chữa những
vi phạm pháp luật của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (một
thời chúng ta gọi là kiểm sát chung) cũng là thực hành quyền công tố. Theo
quan điểm này, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà
chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật [45, tr.85-87]. Có thể nói đây là quan điểm phổ biến, đặc biệt là
trong ngành kiểm sát từ năm 1960 cho đến khi Luật tổ chức VKSND năm
2002 ra đời. Những người theo quan điểm này lập luận trên cơ sở nội dung
19
các điều luật được quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 1981, 1992.
Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1992 quy định VKSND thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố bằng 6 mặt
công tác: đó là công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên các lĩnh vực
hành chính, kinh tế, xã hội; công tác kiểm sát điều tra; công tác kiểm sát xét
xử; công tác kiểm sát giam, giữ và cải tạo; công tác kiểm sát thi hành án và
công tác điều tra tội phạm. Việc Hiến pháp năm 1992 đã bỏ đi chức năng
kiểm sát chung của VKS nhưng chức năng công tố vẫn giữ lại cho thấy quan
điểm đồng nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát chung là không có cơ
sở. Chức năng trọng yếu của VKS là công tố nên không thể quan niệm quyền
công tố chỉ là một quyền năng, một hình tức thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự;
b) Quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước để đưa các vụ việc
vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của nhà nước,
bảo vệ trật tự pháp luật. Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền
công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên
trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của
các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân
sự và ngày nay tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Theo
quan điểm này, trong khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa, khái niệm quyền
công tố được xác định trên cơ sở các khái niệm công tố nhà nước, công tố xã
hội và tư tố. Quyền công tố là quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho
VKSND thực hiện theo luật định. Nội dung quyền công tố là tổng hợp các
biện pháp pháp lý đặc trưng theo luật định mà VKS có trách nhiệm thực hiện
trong hoạt động tố tụng tư pháp. Quyền công tố là một nội dung hoạt động
thực hiện chức năng của VKS trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hình sự
và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm bảo đảm mọi hành vi vi pháp pháp luật,
hành vi phạm tội đều được phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất.
20
- Xem thêm -