Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự việt nam

.PDF
174
153
120

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ NGỌC HÀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 9.38.01.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................8 1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ......................................................................8 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước....................................................................13 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu ...........................................................................27 1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ....................................................30 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...............................................................................33 2.1. Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .........33 2.1.1. Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................33 2.1.2. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...............................47 2.2. Vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các chức năng cơ bản khác của tố tụng hình sự .........................................................................................53 2.2.1. Vai trò của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................53 2.2.2. Mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử .........................................................................................................................55 2.3. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự và chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự ...............................................57 2.3.1. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .....................57 2.3.2. Chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự .................................61 2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ......................................................................................................................66 Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN .........................................................................................................................69 3.1. Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ...................................................................................................................................69 3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ...................................................................................................................69 ii 3.1.2. Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam ...........................................................................90 3.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự..................95 3.2.1. Tình hình người bị buộc tội và người bào chữa tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự .............................................................................................................95 3.2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố ...........................................................................................105 3.2.3. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa trong giai đoạn xét xử .......................................................................................................................113 3.2.4. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bị buộc tội ...................118 3.2.5. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.......................................................................................122 Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......131 4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ..................................................................131 4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.................................................................................................................137 4.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .............................................................................................................137 4.2.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .............................................................................................................146 KẾT LUẬN ............................................................................................................158 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ .............................................................159 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................160 PHỤ LỤC ...............................................................................................................166 iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên NBC Người bào chữa TA Tòa án TANDTC Tòa án nhân dân tối cao THTT Tiến hành tố tụng TTHS Tố tụng hình sự TAND Tòa án nhân dân TGPL Trợ giúp pháp lý VKS Viện kiểm sát VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao VAHS Vụ án hình sự iv DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Danh mục bảng Bảng 3.1: Số vụ án có NBC tham gia ở giai đoạn xét xử sơ thẩm............................95 Bảng 3.2: Số vụ án luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa trong quá trình tham gia giải quyết vụ án ...............................................................................98 Danh mục biểu đồ Biểu đồ 3.1: Số vụ án luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan THTT từ năm 2013 đến 2018 ........................................................................................98 Biểu đồ 3.2: Số luật sư trên toàn quốc từ năm 2013 đến 2018 .................................99 v MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các chức năng của tố tụng hình sự là một trong những vấn đề lý luận quan trọng, cơ bản của tố tụng hình sự. Mặc dù còn nhiều cách tiếp cận khác nhau về các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự nhưng đa số các ý kiến đều thừa nhận có ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Các chức năng này luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Việc tồn tại chức năng bào chữa cùng với chức năng buộc tội, chức năng xét xử là nhu cầu tất yếu khách quan, xuất phát từ mục đích của tố tụng hình sự là tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về chức năng bào chữa trong TTHS. Chức năng bào chữa là gì, nội dung của chức năng bào chữa bao gồm những vấn đề gì, chức năng bào chữa có đồng nhất với hoạt động bào chữa của luật sư hay không, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa có giống với chủ thể của quyền bào chữa không… vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Bào chữa trong tố tụng hình sự có thể được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như: bào chữa là một chức năng của tố tụng hình sự, bào chữa là một nguyên tắc của tố tụng hình sự, bào chữa là quyền của người bị buộc tội, bào chữa là một chế định trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, dưới góc độ là một chức năng của tố tụng hình sự, chức năng bào chữa có phạm vi rộng hơn cả. Chức năng bào chữa có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, chức năng bào chữa góp phần bảo vệ công lý, xác định sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Cùng với chức năng buộc tội và chức năng xét xử, chức năng bào chữa tạo nên sự vận hành mang tính ổn định của hệ thống tố tụng hình sự. Như vậy, nhìn từ góc độ lý luận, chức năng bào chữa có vai trò rất quan trọng đối với công cuộc cải cách tư pháp, nhằm mục đích không ngừng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo như tăng cường hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó nhấn mạnh việc mở rộng hơn nữa quyền của người bào chữa và người bị buộc tội; bảo đảm tranh tụng với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Ngày 30/3/2009, 1 Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 33/CT-TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. Đây là văn bản của Đảng chỉ đạo toàn diện, đầy đủ nhất cho việc phát triển nghề luật sư. Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự trở nên cấp thiết trong bối cảnh BLTTHS 2015 ra đời, thay thế cho BLTTHS năm 2003. Các vấn đề có liên quan đến bào chữa trong tố tụng hình sự đã được quy định thành chương riêng, đó là chương về bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong đó, có sự ghi nhận các quy định về người bào chữa, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, lựa chọn và chỉ định người bào chữa, thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa và các hoạt động tham gia tố tụng khác của người bào chữa như : việc đăng kí bào chữa, việc gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, thu thập chứng cứ, giao tài liệu, đồ vật, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa… Tuy nhiên, một số quy định thể hiện chức năng bào chữa trong BLTTHS năm 2015 vẫn còn bất cập, hạn chế, vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Như vậy, xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Xét từ góc độ thực tiễn, việc thực hiện các chức năng bào chữa, chức năng buộc tội và chức năng xét xử chưa được phân biệt rõ ràng, còn xảy ra tình trạng chồng chéo nhau, các chủ thể thực hiện chức năng nêu trên chưa làm hết chức năng của mình. Bên cạnh đó, mặc dù trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người bào chữa ngày càng được nâng cao, sự tham gia của người bào chữa ngày một nhiều hơn, nhưng chất lượng giải quyết vụ án vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan từ phía người bào chữa, và nguyên nhân khách quan từ các cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, người bào chữa chưa thực sự được cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, nhận thức của cơ quan bảo vệ pháp luật về vai trò của người bào chữa chưa thực sự đúng đắn. Vị trí của người bào chữa phải được xem là một bên tham gia tố tụng, ngang hàng và bình đẳng với Kiểm sát viên. Cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng, các hoạt động của người bào chữa góp phần tìm ra chân lý khách quan của vụ án. Nhận thức này phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, đặc biệt là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và mọi công dân. 2 Các nội dung về bào chữa đã được nhiều tác giả quan tâm ở những khía cạnh khác nhau, thể hiện qua các luận án, luận văn thạc sỹ, bài viết trong tạp chí chuyên ngành, bài viết chuyên đề trong đề tài nghiên cứu khoa học… Đó là các nội dung liên quan đến quyền bào chữa, việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa, người bào chữa, vai trò của người bào chữa, chức năng của tố tụng hình sự, chức năng xét xử của tố tụng hình sự, chức năng buộc tội của tố tụng hình sự… Tuy nhiên, ở cấp độ tiến sỹ, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu rộng, toàn diện về chức năng bào chữa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam ” là cấp thiết và tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu dưới góc độ là một luận án tiến sỹ luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Để thực hiện mục đích này, luận án đặt ra các nhiệm vụ sau : - Làm rõ vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong TTHS như : cơ sở quy định chức năng bào chữa; khái niệm, đặc điểm, vai trò của chức năng bào chữa; hình thức thực hiện chức năng bào chữa… - Làm rõ thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng thực hiện quy định về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự - Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa và các giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, mục đích ý nghĩa, nội dung, cơ sở của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự... ; các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. Ngoài ra đối tượng của đề tài là thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, đánh giá thực tiễn để phân tích và làm rõ những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành thông qua những số liệu, ví dụ điển hình trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự để đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. 3 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng bào chữa trong lĩnh vực tố tụng hình sự, thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam. Về thời gian: Quy định của pháp luật về chức năng bào chữa được nghiên cứu trong từng giai đoạn lịch sự cụ thể như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời, giai đoạn BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và giai đoạn BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành. Các vấn đề thực tiễn về chức năng bào chữa chủ yếu nghiên cứu trong khoảng 10 năm trở lại đây (thời gian thực hiện BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015) từ năm 2009 đến 2019, trong đó có sự so sánh về thực trạng thực hiện các quy định về chức năng bào chữa theo BLTTHS năm 2003 và thực trạng thực hiện chức năng bào chữa theo BLTTHS năm 2015. Về không gian : Luận án nghiên cứu các vấn đề thực tiễn thông qua việc nghiên cứu, tổng kết các vụ án có sự tham gia của NBC trong phạm vi toàn quốc và phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS trên cơ sở báo cáo của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, phiếu khảo sát một số luật sư ở Hà Nội và địa phương như Bắc Giang, Bắc Ninh... Luận án không nghiên cứu, đánh giá việc thực hiện chức năng bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tư pháp trong quân đội. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Luật tố tụng hình sự kết hợp tiếp cận đa ngành, liên ngành. Cách tiếp cận: Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên ngành Luật tố tụng hình sự, Luật hình sự, Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Khoa học điều tra hình sự, Tội phạm học và phương pháp tiếp cận lịch sử, tiếp cận đa ngành, liên ngành; tiếp cận dưới khía cạnh luật so sánh… Cụ thể : Tiếp cận của chuyên ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự, Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật: phân tích, luận giải các vấn đề lý luận của người bào chữa, người bị buộc tội như quyền và nghĩa vụ của họ, các hoạt động bào chữa của các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, chức năng của Nhà nước, chức năng của 4 pháp luật… Đặc biệt, việc tiếp cận chức năng bào chữa trong TTHS cần phải dựa trên lý thuyết chức năng luận. Tiếp cận hệ thống: phân tích và đánh giá các nội dung của chức năng bào chữa đặt trong một chỉnh thể thống nhất, có mối liên hệ và tác động qua lại giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử - ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự … Tiếp cận đa ngành, liên ngành: có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn như xã hội học, luật học so sánh… Tiếp cận lịch sử : Dưới góc độ lịch sử, chức năng bào chữa trong TTHS xuất hiện từ rất lâu, gắn liền với sự ra đời của người bào chữa và hoạt động của người bào chữa. Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá trình nghiên cứu và các nội dung liên quan đến chức năng bào chữa được phân tích, đánh giá trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài.Trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, cụ thể là: phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh, logic, tổng hợp… Chương 1, tác giả luận án sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích tài liệu để tổng quan các công trình nghiên cứu về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, trên phương diện lý luận và thực tiễn. Sử dụng phương pháp so sánh khi nghiên cứu vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước liên quan đến luận án; so sánh với các chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở đó, đánh giá và so sánh các công trình nghiên cứu nhằm xác định rõ những kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án, có sự kế thừa những kết quả này đồng thời xác định những vấn đề liên quan đến đề tài mà các công trình, bài viết trước đó còn bỏ ngỏ cần phải nghiên cứu bổ sung, phát triển. - Chương 2, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đánh giá và đưa ra các khái niệm, đặc điểm, nội dung của chức năng bào chữa, cơ sở quy định chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. - Chương 3, sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về chức năng bào chữa thể hiện trong từng giai đoạn lịch sử nhất 5 định như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời, trong BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015; phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa, người bị buộc tội, bị can bị cáo; trên cơ sở đó rút ra bất cập, hạn chế, thiếu sót trong qui định và thực hiện pháp luật về vấn đề này. Luận án cũng sử dụng phương pháp điều tra xã hội học khi lập bảng hỏi, tiến hành khảo sát một số luật sư ở Hà Nội và địa phương. - Chương 4, sử dụng phương pháp phân tích, dự báo nhằm đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Kết quả của luận án đã đóng góp mới về mặt khoa học như sau : - Thứ nhất: Luận án làm rõ và bổ sung một số vấn đề lý luận quan trọng của chức năng bào chữa trong TTHS như: cách tiếp cận chức năng bào chữa dựa trên cơ sở chức năng luận; cơ sở hình thành chức năng bào chữa trong TTHS; khái niệm, đặc điểm, vai trò của chức năng bào chữa trong TTHS; hình thức thực hiện chức năng bào chữa, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự… Đồng thời, luận án phân tích để luận giải sâu sắc hơn các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong TTHS qua từng thời kỳ lịch sử nhất định để thấy được lịch sử lập pháp của chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam. - Thứ hai: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam trong 10 năm trở lại đây, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu định tính và định lượng nhằm tạo ra độ tin cậy cho các kết luận. Cụ thể: Làm rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật TTHS ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS; Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa của người bào chữa, người bị buộc tội; Nêu và phân tích được những khó khăn, bất cập mà chủ thể thực hiện chức năng bào chữa gặp phải trên thực tế… Luận án đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với một số luật sư hành nghề trong vụ án hình sự trên thực tế để thấy được thực tiễn thực hiện một số quy định mới của Bộ luật TTHS năm 2015 có liên quan đến chức năng bào chữa như: việc thực hiện một số quyền mới của luật sư, việc tạo điều kiện của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với luật sư trong quá trình bào chữa và bảo vệ quyền lợi 6 cho thân chủ ở giai đoạn trước khi ra phiên tòa (khởi tố, điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử) và tại phiên tòa… - Thứ ba: Luận án đã đưa ra các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa có hiệu quả trên thực tế. Các giải pháp này bao gồm các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật, đặc biệt là pháp luật TTHS về chức năng bào chữa và nhóm các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về chức năng bào chữa trong TTHS như: giải pháp về con người, giải pháp về kinh tế, chính trị, xã hội… 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Cụ thể : Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong TTHS, hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, mối quan hệ của chức năng bào chữa và chức năng buộc tội, chức năng xét xử trong TTHS… Luận án có ý nghĩa thực tiễn rất lớn và là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo, nghiên cứu trong quá trình góp ý, hoàn thiện quy định của pháp luật. Đồng thời, luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học và phòng ngừa tội phạm… 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được chia thành bốn chương: Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam Chƣơng 3: Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện Chƣơng 4: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam 7 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nƣớc Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các vấn đề về bào chữa được nghiên cứu từ nhiều khía cạnh, chẳng hạn về quyền bào chữa, người bào chữa, việc tham gia tố tụng của người bào chữa… Đó là nền tảng khoa học cho việc xây dựng, thực hiện các quy định pháp luật về chức năng bào chữa. Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của mô hình tố tụng hình sự là rất cần thiết đối với nghiên cứu sinh, bởi vì mô hình tố tụng hình sự là phương thức để thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Theo bài viết “Major legal systems in world today” (tạm dịch: Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại) của Rene David, John E.C.Brierly, The Free Press năm 1978 thì hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới được phân thành 4 nhóm là: hệ thống pháp luật châu âu lục địa, hệ thống thông luật Anh-Mỹ, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật dựa trên vấn đề tôn giáo và truyền thống pháp luật khác. Cuốn sách “Những mô hình tố tụng hình sự trên thế giới” của tác giả JeanPhillipe Rivaud năm 2000 đã tập trung phân tích, so sánh các mô hình tố tụng hình sự trên thế giới, đồng thời khẳng định các quyền cơ bản của người bị buộc tội như quyền có người bào chữa, quyền im lặng, quyền được bào chữa miễn phí… Cuốn sách “Tư pháp hình sự so sánh” của tác giả Phillip.L.Reichel (bản dịch tiếng việt của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý năm 1999) đã phân tích đặc điểm và so sánh các truyền thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đặc biệt là so sánh mô hình tố tụng kiểm soát tội phạm và mô hình tố tụng công bằng. Tất cả các truyền thống pháp luật này đều có chung mục đích là phát hiện tội phạm, tìm ra sự thật khách quan của vụ án nhưng mỗi truyền thống pháp luật sử dụng mô hình tố tụng khác nhau, quan trọng là cách thức nào tốt nhất để tìm ra sự thật của vụ án. Sự khác nhau của các mô hình tố tụng tất yếu dẫn đến sự khác nhau của các chức năng tố tụng, trong đó có chức năng bào chữa và những nội dung cơ bản của chức năng bào chữa. Bài viết “Phân tích, so sánh hai hệ thống pháp luật Mỹ và Pháp” của tác giả James Claude và Joseph Daly (thông tin khoa học pháp lý tháng 10/1994) đã chỉ ra sự giống nhau trong hệ thống pháp luật của 2 nước này, đó là mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng kết hợp yếu tố tranh tụng. Cuốn sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga” do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010 đã làm rõ cơ cấu tổ chức của cơ quan tư pháp hình sự, quy định về các quyền bào chữa của người bị buộc tội. 8 Các công trình nghiên cứu về vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự có thể kể đến bài viết “The role of the defense attorney: not just an advocate” (tạm dịch: vai trò của luật sư bào chữa: không chỉ là một người ủng hộ) của tác giả Roberta K.flowers năm 2009 [100]. Bài viết khẳng định vai trò của Luật sư bào chữa không chỉ là 1 người ủng hộ cho khách hàng của mình, mà còn là 1 thành viên của liên đoàn luật sư, người bào chữa chuyên nghiệp, không chỉ đại diện cho khách hàng mà còn là 1 cán bộ của hệ thống pháp luật, có trách nhiệm bảo vệ pháp lý, bảo vệ công dân. Bài viết cũng chỉ ra 3 vai trò, biện pháp để chức năng bào chữa có hiệu quả, đó là vai trò của luật sư bào chữa, vai trò của cán bộ tòa án và vai trò của bộ tư pháp (ở các nước theo truyền thống án lệ thì cơ quan công tố thuộc nhánh quyền lực hành pháp). Bài viết “Basic principles on the role of lawyers” (tạm dịch: Những nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư) của tác giả Adam Paker năm 2008 đã phân tích rõ nội dung nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự quốc tế qua việc chỉ ra các quy định minh bạch về quyền bào chữa và trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội như được nhanh chóng tiếp cận với luật sư, được tiếp xúc riêng với luật sư. Bài viết cũng phân tích rõ các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa như quyền có đủ thời gian và phương tiện chuẩn bị cho việc bào chữa của mình, tranh tụng, tiếp cận đối tượng có liên quan, thu thập chứng cứ…. Các công trình nghiên cứu về các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đa số đều khẳng định có 3 chức năng cơ bản tồn tại, đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội (bào chữa) và chức năng xét xử. Bài viết “Rethinking the functions of criminal Proceduce” (tạm dịch: bàn về các chức năng của tố tụng hình sự) năm 2010 của tác giả Peter A Renella, nhà nghiên cứu luật tại đại học luật Boston đã đặt ra câu hỏi: các chức năng nào phục vụ cho tố tụng hình sự? Sau khi phân tích đặc điểm của các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, tác giả đã đồng ý với quan điểm là tồn tại 3 chức năng cơ bản: buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự. Các bài viết về chức năng bào chữa có thể kể đến như: bài viết “Defense function” ( tạm dịch: chức năng bào chữa) của Đoàn luật sư Hoa Kỳ tại trang web www.americanbar.org / american Justice section archive đã nêu lên các tiêu chuẩn chung của người bào chữa và các chức năng của luật sư bào chữa. Theo đó, Luật sư bào chữa là một thành phần thiết yếu của hệ thống tố tụng hình sự, bảo vệ công lý và lẽ phải. Một tòa án thành lập đúng quy định để xét xử một vụ án hình sự phải được xem như là một thực thể ba bên bao gồm các thẩm phán, công tố viên và luật sư bào chữa cho bị cáo. Các tiêu chuẩn cũng như chức năng của luật sư bào chữa, 9 đó là: Luật sư bào chữa phải có lòng can đảm, sự tận tâm để tham gia giải quyết vụ án một cách hiệu quả và chất lượng, thể hiện bằng việc hành động tuân theo các quy định của pháp luật. Đồng thời, khi gặp các bất cập liên quan đến chính sách hình sự và quy định của pháp luật, người bào chữa phải đề xuất ý kiến, tìm cách cải cách và cải thiện hành chính tư pháp hình sự. Người bào chữa không có nhiệm vụ phải thực hiện bất kỳ chỉ thị nào của bị cáo mà không đúng với quy định của pháp luật hoặc vi phạm pháp luật. Người bào chữa không được xuyên tạc hoặc bóp méo sự thật, cung cấp các chứng cứ, tài liệu sai sự thật cho Tòa án… Người bào chữa phải được hướng dẫn và tuân theo các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, những điều được làm và không được làm khi hành nghề luật sư. Bài viết “Functions of the police, prosecutor, court workers, defense counsel, Judge in aiding Juvenile Justice” (tạm dịch: Chức năng của cảnh sát, công tố viên, công chức của tòa án, luật sư bào chữa, thẩm phán) năm 2009 của tác giả Donald J.Newman, Ph.D (Lecturer in law University Wiseunsin, Modison), một giảng viên của trường đại học luật Wiseunsin, Modison đã khẳng định: Các chức năng bào chữa có vai trò quan trọng gấp đôi trong giai đoạn điều tra của quá trình TTHS so với các giai đoạn tố tụng khác, bởi chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra với mục đích để hỗ trợ nghi can trong việc thu thập chứng cứ và để bảo vệ anh ta từ hành vi vi phạm các quyền của mình trong tay những người bảo vệ pháp luật (người tiến hành tố tụng). Bài viết “The emerging Role and Function of the Criminal defense lawyer”(tạm dịch: Vai trò và chức năng của luật sư bào chữa) của tác giả Samuel Dash (1969) tại trang web http:// scholar ship.law.urc.ed/nclr đã khẳng định vai trò ngày càng to lớn của luật sư bào chữa. Trước đây, luật sư bào chữa bị kì thị và cô lập với chính những người làm công tác bảo vệ pháp luật, vai trò của luật sư bào chữa mờ nhạt và ít được nhắc tới. Song ngày nay, vai trò của luật sư bào chữa được nhìn nhận đúng mực hơn, các quyền của luật sư bào chữa được bổ sung phù hợp với chức năng bào chữa của họ. Bài viết “Lawyer Defence in the Pre-Trial Proceedings” của tác giả Xiong Qiuhong, phó giáo sư-tiến sỹ của Viện luật, Viện khoa học xã hội Trung Quốc năm 2005 đã đưa ra những quan điểm của mình về luật sư bào chữa, quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn trước khi vụ án được đưa ra xét xử. Theo đó, quyền bào chữa của người bị buộc tội là quyền đặc trưng, có tác dụng và hiệu lực trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, thông qua các tài liệu và sự kiện, tình tiết để bào chữa theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Thực chất, người bị buộc tội có quyền bác bỏ cáo buộc hình sự từ phía những người tiến hành 10 tố tụng, có quyền trình bày ý kiến và đưa ra tình tiết nhằm chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Luật sư bào chữa tham gia vụ án dựa trên cơ sở có sự buộc tội và được người bị buộc tội mời bào chữa hoặc các trường hợp khác do bào chữa chỉ định. Ở giai đoạn điều tra, các luật sư có thể tư vấn pháp lý để người bị nghi thực hiện tội phạm nộp đơn hoặc khiếu nại. Trong trường hợp nghi can bị bắt giữ, các luật sư tham gia bào chữa cho họ có thể áp dụng biện pháp bảo lãnh đối với nghi phạm. Luật sư bào chữa có thể gặp người có thẩm quyền để hỏi về những căn cứ buộc tội đối với nghi can mà mình bảo vệ. Ở giai đoạn truy tố, trong thời hạn 3 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án từ cơ quan điều tra, viện kiểm sát thông báo cho người bị buộc tội có thể ủy thác cho luật sư bào chữa của mình.. Bài viết cũng khẳng định, điều tra tội phạm và bảo vệ nhân quyền là hai mục đích của thủ tục tố tụng hình sự, trong đó có quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời, khẳng định sự độc lập, vai trò quan trọng của chức năng bào chữa và nêu lên những hạn chế của chế định bào chữa trong BLTTHS Trung Quốc. Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học của nước ngoài, các bài viết về quyền con người, trong đó có quyền bào chữa, quyền có người bào chữa tương đối nhiều. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này chỉ dừng ở phạm vi pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và chủ yếu mang tính mô tả pháp luật tố tụng hình sự của các nước, trong đó tập trung nghiên cứu về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội và quyền được nhờ người khác bào chữa. Ở phạm vi toàn cầu, quyền có người bào chữa được ghi nhận tại Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR), theo đó, một người bị cáo buộc về một hành vi phạm tội sẽ có các quyền sau đây: Thứ nhất: quyền được có khoảng thời gian hợp lý và các điều kiện đầy đủ để chuẩn bị việc bào chữa, có quyền trao đổi với người bào chữa do mình lựa chọn; Thứ hai: có quyền được tự bào chữa hoặc thông qua người bào chữa do mình lựa chọn; Thứ ba: Trong trường hợp một người không có người bào chữa, anh ta sẽ được cung cấp người bào chữa chỉ định. Ở phạm vi khu vực, quyền có người bào chữa được ghi nhận trong các công ước về quyền con người ở 3 khu vực, đó là Công ước Châu Âu, Công ước Châu Mỹ về quyền con người và hiến chương Châu Phi về con người và quyền con người. Một số công trình nghiên cứu có đề cập tới các nội dung của quyền con người nói chung và quyền bào chữa nói riêng như: Bài viết “the guarantees for accused peorsons under Article 6 of the European convention on Human Righs” (tạm dịch: Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo điều 6 công ước châu âu về nhân quyền) của tác giả Stephanos 11 stavros (nhà xuất bản Sweet and maxwell, Anh quốc, năm 1993), trong đó tập trung phân tích quyền tự bào chữa và quyền được nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội. Cuốn sách “Criminal process and human rights” (tạm dịch: Tố tụng hình sự và vấn đề quyền con người) của tập thể tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của trường Đại học Luật tại Melbourne, Australia, năm 2001 về các quyền con người nói chung và quyền bào chữa của người bị buộc tội nói riêng, trong đó nhấn mạnh quyền được tiếp cận người bào chữa, quyền được liên lạc với người bào chữa, quyền được có người bào chữa miễn phí đối với nhóm người dễ bị tổn thương như người chưa thành niên hoặc người khuyết tật… Bài viết “Human rights protections and China’s criminal proceduce law in practice” (tạm dịch: Bảo vệ quyền con người và vấn đề thi hành trên thực tế trong tố tụng hình sự Trung Quốc) của Các nhà khoa học trong tổ chức phi chính phủ về nhân quyền ở Trung Quốc (nguồn trang web: [email protected]/ “Human rights in china”. Bài viết có nội dung chính về vấn đề bảo vệ quyền con người trong đó có quyền của người bị buộc tội và vấn đề thực hiện quyền này trên thực tế của tố tụng hình sự Trung Quốc. Tại Trung Quốc, luật sư là người bào chữa chủ yếu. Luật luật sư ở Trung Quốc ra đời lần đầu tiên năm 1996, khẳng định luật sư có 2 chức năng chính là: cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý và tham gia tố tụng, bào chữa, đại diện cho thân chủ. Luật sư có nghĩa vụ bảo vệ khách hàng, tư cách luật sư xuất hiện khi có người bị tình nghi thực hiện tội phạm. Cũng theo bài viết này, trong luật tố tụng hình sự Trung Quốc, luật sư bảo vệ quyền của người bị buộc tội trên cơ sở được trao một số quyền năng như: quyền thu thập chứng cứ, quyền được truy cập, tiếp cận các tài liệu do bên công tố thu thập nhưng trên thực tế, việc tiếp cận này khá khó khăn, vì vậy đã ảnh hưởng và làm suy yếu khả năng bào chữa của họ… Cuốn sách “Criminal proceduce – law and practice” của tác giả Rolando V.del carmen Trường Đại học bang Sam Houston, (in tại Printed in the United states of American) có 15 chương, nội dung tập trung chủ yếu về nguồn gốc quy định các quyền của người bị buộc tội, các nguyên tắc cơ bản theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kì, tổng quan về quá trình tư pháp hình sự, các quyền cơ bản của bị cáo. Cuốn “Brownlie’s document on the man right” (tạm dịch: tài liệu cơ bản về quyền con người) của tác giả Lan Brownlie, GuyS.Goodwin năm 2010 tập trung phân tích các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền bào chữa, quyền có người bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội. Bài viết “Quá trình phát triển luật hình sự ở Hoa Kỳ” của GS.JamesB.Jacob, Warren.E.Burger tại tạp chí điện tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ năm 2001 đề cập đến 12 việc bảo vệ quyền con người trong suốt quá trình tố tụng, trong đó có quyền bào chữa. Sách “Toward an international criminal procedure” (tạm dịch: hướng tới một thủ tục tố tụng hình sự quốc tế) của tác giả Christoph Saffeling năm 2003 với nội dung so sánh, phân tích những quy định bảo đảm các chuẩn mực quốc tế về quyền con người của người bị buộc tội nói chung và quyền bào chữa nói riêng, các bảo đảm pháp lý cần thiết để người bào chữa trợ giúp người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của họ. Tác giả cuốn sách này đã phân tích, so sánh sự khác nhau về thủ tục tố tụng hình sự của 2 hệ thống pháp luật là Anh-Mỹ và Châu Âu lục địa ở các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau, nhưng ở giai đoạn nào cũng luôn đảm bảo quyền được xét xử công bằng, quyền có người bào chữa của người bị buộc tội. Bài viết “Rights of the people: Individual freedom and bills of right” (tạm dịch: các quyền của con người: Tự do cá nhân và Tuyên ngôn nhân quyền) năm 2010 của tác giả Melvin Urofski tập trung phân tích các quyền con người, trong đó có quyền bào chữa, quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. Như vậy, nhóm các công trình, bài viết nêu trên về các vấn đề lý luận của quyền con người nói chung, quyền bào chữa nói riêng đã cung cấp cho nghiên cứu sinh một khối lượng kiến thức nền tảng về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên thế giới. Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tham khảo hữu ích đối với nghiên cứu sinh để học hỏi,đưa ra giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm và hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa tại Việt Nam. 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có chức năng bào chữa. Các công trình này chủ yếu tập trung làm rõ 3 chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Bên cạnh đó còn có các công trình khác liên quan đến những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, vấn đề đảm bảo quyền bào chữa trên thực tế, vai trò và địa vị pháp lý của người bào chữa… Những vấn đề lý luận đó giúp cho nghiên cứu sinh có được cách tiếp cận đúng đắn về chức năng bào chữa, mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với các chức năng khác của Tố tụng hình sự. 1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến lý luận của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Trong khoa học pháp lý, các vấn đề có liên quan đến cơ sở lý luận của luận án đã có khá nhiều công trình, bài viết ở các cấp độ khác nhau được công bố. 13 * Trước tiên phải kể đến nhóm các công trình khoa học nghiên cứu lý luận về chức năng của TTHS, trong đó có chức năng bào chữa. Các chức năng của tố tụng hình sự quyết định mô hình tố tụng hình sự, hay nói cách khác, mô hình tố tụng hình sự là phương thức để thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam” do VKSNDTC chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam (năm 2010). Đề án này nghiên cứu những mô hình TTHS điển hình trên thế giới và mô hình tố tụng của một số nước; nghiên cứu lịch sử mô hình TTHS Việt Nam; tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 và phương hướng xây dựng mô hình TTHS ở Việt Nam. Bài viết “ Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả TS. Lê Hữu Thể - Phó Viện trưởng, VKSNDTC và ThS. Nguyễn Thị Thủy - Trưởng phòng Viện Khoa học kiểm sát (Nguồn: http://www.nclp.org.vn) nêu lên những đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, khẳng định dù áp dụng mô hình TTHS nào thì trong TTHS cũng luôn tồn tại ba chức năng cơ bản: buộc tội, bào chữa và xét xử. Vai trò của các chủ thể được phân định theo các chức năng tố tụng. Việc phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể gắn với các chức năng cơ bản của TTHS là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của TTHS. Bài viết “Các chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả PGS.TS Nguyễn Thái Phúc trong báo cáo Hội thảo tại Học viện Khoa học Xã hội năm 2015 đã nêu lên quan điểm: các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là những phương diện hoạt động tồn tại khách quan trong tiến trình giải quyết vụ án hình sự, bao gồm chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Mối quan hệ qua lại giữa chúng cũng có tính khách quan và tuân theo quy luật nhất định. Giải pháp trong việc hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam là phải xuất phát từ đặc thù lịch sử, đặc thù về chế độ nhà nước, tiếp tục hoàn thiện mô hình pha trộn theo hướng thiên về tranh tụng hơn nữa. Bài tham luận của tác giả TS. Đinh Thị Mai tại hội thảo khoa học “Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ” (năm 2015) có nêu lên vấn đề về lý thuyết chức năng luận. Theo đó, cần nhận thức các chức năng của tố tụng hình sự dựa trên nền tảng chức năng luận để luận giải sâu sắc hơn vấn đề cần nghiên cứu. Đồng thời khẳng định: các chức năng của tố tụng hình sự cần được tiếp cận dựa trên lý thuyết chức năng luận. Bên cạnh đó, luận án tiến sĩ “Các chức năng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng ( bào vệ tại Học viện khoa học xã hội năm 2012) đã làm rõ những vấn đề lý luận về các chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử trong TTHS; tìm hiểu, đánh giá thực 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan