BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
Lê Khánh Toàn
CHẨN ĐOÁN VẾT NỨT TRONG THANH, DẦM
ĐÀN HỒI BẰNG HÀM ĐÁP ỨNG TẦN SỐ
Chuyên ngành: Cơ kỹ thuật
Mã số: 9 52 01 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
KỸ THUẬT CƠ KHÍ VÀ CƠ KỸ THUẬT
Hà Nội - 2019
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Người hướng dẫn khoa học 1: GS. TSKH. Nguyễn Tiến Khiêm
Người hướng dẫn khoa học 2: PGS.TS. Nguyễn Việt Khoa
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp
Học viện, họp tại Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam vào hồi … giờ ..’, ngày … tháng
… năm 201….
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Hư hỏng trong các kết cấu, nhất là các vết nứt có thể gây ra
sự sụp đổ công trình nếu không được phát hiện kịp thời. Điều
này đã được minh chứng bằng kết quả nghiên cứu các tai nạn đã
xảy ra với các công trình quan trọng như giàn khoan biển. Tuy
nhiên việc xác định vị trí và mức độ của một vết nứt trong một
cấu kiện cũng rất khó, bởi vì vết nứt thường nằm bên trong các
cấu kiện mà mắt thường không thể phát hiện được. Chính vì
vậy, để chẩn đoán vết nứt, người ta thường sử dụng các phương
pháp kiểm tra không phá hủy. Một trong các phương pháp đó,
mang tính tổng thể và có thể áp dụng cho các công trình phức
tạp, là dựa trên việc đo đạc các tham số dao động của công trình
để xác định vị trí và mức độ hư hỏng trong công trình.
Các tham số dao động thường được sử dụng trong chẩn
đoán hư hỏng kết cấu là các tần số và dạng dao động riêng hay
hàm đáp ứng tần số. Những tham số này là những đặc trưng khá
đầy đủ cho tình trạng kỹ thuật của một công trình mà không phụ
thuộc vào các kích động bên ngoài. Tuy nhiên, việc xác định
các đặc trưng này từ số liệu đo đạc (thường hiểu là việc đo đạc)
cũng là những vấn đề cần thiết và quan trọng. Đây là bài toán
của phương pháp thử nghiệm dao động (Modal Testing
Technique). Tần số dao động riêng là tham số dao động được sử
dụng đầu tiên và cho đến nay vẫn còn đang được sử dụng vào
việc đánh giá trạng thái kỹ thuật công trình (structural health
monitoring). Bởi vì tần số dao động riêng gắn liền với tính chất
tổng thể của kết cấu (như khối lượng, độ cứng) nên rất dễ đo
1
đạc được một cách chính xác. Trở ngại lớn nhất của việc sử
dụng các tần số riêng mà cho đến nay vẫn còn đang được giải
quyết là chúng ta chỉ đo được số lượng rất ít các tần số riêng
trong khi số lượng các hư hỏng thường là chưa biết. Nếu tần số
riêng là một đặc trưng số, thì dạng dao động riêng của kết cấu
công trình lại là một đặc trưng hàm trong không gian, có thể
cung cấp cho chúng ta thông tin chi tiết hơn về vị trí của hư
hỏng. Đã có nhiều công bố sử dụng cả tần số và dạng riêng để
chẩn đoán hư hỏng trong kết cấu công trình, nhưng vấn đề còn
tồn tại chính là khó khăn trong việc đo đạc dạng dao động riêng.
Để có thể đo được dạng dao động riêng cần rất nhiều đầu đo và
đòi hỏi một phương pháp xác định dạng dao động riêng từ số
liệu đo một cách chính xác (do tính không duy nhất của dạng
dao động riêng).
Như đã nói ở trên, cả tần số và dạng dao động riêng đo đạc
đều được xác định từ số liệu đo đạc của hàm đáp ứng tần số.
Việc xác định các tần số và dạng riêng từ hàm đáp ứng tần số
cũng gặp nhiều sai số mà cho đến nay vẫn còn đang được
nghiên cứu. Để tránh các sai số trong xử lý số liệu đo đạc nêu
trên, nhiều chuyên gia đã đề nghị sử dụng ngay hàm đáp ứng
tần số cho việc chẩn đoán hư hỏng kết cấu công trình. Ngoài ra,
hàm đáp ứng tần số còn là một đặc trưng hàm số trong miền tần
số nó cho phép chúng ta không chỉ xác định tần số riêng, dạng
dao động riêng mà còn chỉ ra ứng xử của kết cấu trong lân cận
của tần số cộng hưởng (xấp xỉ tần số riêng). Chính tiềm năng
này của hàm đáp ứng tần số chưa được khai thác và ứng dụng
nhiều trong chẩn đoán hư hỏng kết cấu công trình.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu của luận án này là phát triển và ứng dụng phương
pháp sử dụng hàm đáp ứng tần số để chẩn đoán vết nứt trong
kết cấu thanh - dầm đàn hồi. Nội dung nghiên cứu bao gồm: xây
dụng các mô hình kết cấu thanh, dầm có nhiều vết nứt; nghiên
cứu sự thay đổi của các tham số dao động, chủ yếu là hàm đáp
ứng tần số, do vết nứt; tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đo
đạc các tham số dao động của một số mô hình thanh, dầm có
vết nứt trong phòng thí nghiệm và đề xuất một số thuật toán để
chẩn đoán vết nứt trong kết cấu dựa trên mô hình đã xây dựng
và các số liệu đo đạc thực nghiệm.
3. Các nội dung nghiên cứu chính của luận án
(1) Nghiên cứu sự thay đổi các điểm nút dao động dọc trục
trong thanh, dao động uốn của dầm do sự xuất hiện vết nứt phục
vụ bài toán chẩn đoán vết nứt.
(2) Nghiên cứu thực nghiệm kết cấu thanh, dầm đàn hồi
chứa nhiều vết nứt bằng việc đo đạc hàm đáp ứng tần số. Từ đó
phân tích xử lý số liệu đo đạc hàm đáp ứng tần số để tìm các tần
số riêng thực nghiệm.
(3) Xây dựng hàm đáp ứng tần số tường minh trong kết cấu
thanh, từ đó kết hợp với số liệu đo đạc thực nghiệm và sử dụng
phương pháp CSM (Crack Scanning Method) để giải bài toán
chẩn đoán trong thanh chứa vết nứt.
(4) Sử dụng công thức Rayleigh và phương pháp CSM
thiết lập và giải bài toán trình chẩn đoán vết nứt từ tần số riêng
thực nghiệm.
3
Luận án gồm Mở đầu, 5 Chương và Kết luận, trong đó
Chương 1 trình bày tổng quan các kết quả nghiên cứu đã biết;
Chương 2 cơ sở lý thuyết kết cấu thanh, dầm đa vết nứt;
Chương 3 sự thay đổi điểm nút dao động; Chương 4 nghiên cứu
thực nghiệm và chương 5 trình bày thuật toán và kết quả chẩn
đoán kết cấu thanh, dầm dựa trên hàm đáp ứng tần số và tần số
riêng.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Bài toán chuẩn đoán hư hỏng
Với một đối tượng kỹ thuật luôn tồn tại hai bài toán: Bài
toán thuận, nghiên cứu ứng xử của kết cấu; Bài toán chẩn đoán,
thực chất là một bài toán ngược , nhằm mục đích phát hiện hư
hỏng trong kết cấu từ các số liệu đo đạc dựa trên kết quả phân
tích của bài toán thuận. Cụ thể đối một hệ cơ học thường được
mô tả bằng sơ đồ:
X
∑
Y
Hình 1.1. Sơ đồ cơ hệ cơ học
với:
X: là đầu vào, tác động ngoài,
∑: là mô hình hóa, mô tả cấu trúc, đặc tính của cơ hệ,
Y: là đầu ra, đáp ứng của cơ hệ.
Hệ cơ học có thể biểu diễn bằng một phương trình toán học:
LY X
Vết nứt là một dạng hư hỏng điển hình trong kết cấu các
công trình xây dựng và máy móc thiết bị Vết nứt nói chung
4
được mô tả bằng vị trí và kích thước của nó trong kết cấu. Sự
xuất hiện vết nứt trong kết cấu làm suy giảm độ cứng của kết
cấu trong vùng lân cận vết nứt.
Việc chẩn đoán các vết nứt trong kết cấu công trình đã thu
hút nhiều nhà nghiên cứu trong hơn hai thập kỷ qua như đã chỉ
ra trong các báo cáo tổng quan của Doebling và đồng nghiệp
năm 1996, Salawu năm 1997 và Sohn và các đồng nghiệp năm
2004.
Trong chẩn đoán hư hỏng trong kết cấu nói chung cũng như
vết nứt nói riêng, người ta thường sử dụng các đặc trưng động
lực học. Ở đó thì tần số dao động riêng, dạng dao động riêng và
hàm đáp ứng tần số (và một số đặc trưng liên quan như độ cứng
và độ mềm động) thường hay được sử dụng.
Việc chẩn đoán hư hỏng nói chung và vết nứt nói riêng của
kết cấu dựa trên sự thay đổi tần số thường chỉ phát hiện sự xuất
hiện của vết nứt mà không xác định được vị trí vết nứt. Trong
khi đó thì vết nứt lại ảnh hưởng một cách địa phương. Do đó
các thông tin vết nứt dựa vào dạng riêng được xem xét trong bài
toán chẩn đoán
Từ các nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra: dạng
riêng có thể sử dụng để xác định được vị trí của vết nứt. Tuy
nhiên nếu chỉ sử dụng dạng riêng cho mục đích này thì cần phải
có nhiều số liệu đo đạc chính xác, mà đây là những yêu cấu
không phải lúc nào cũng thực hiện được trong thực tế. Trong
khi đó hàm đáp ứng chứa đựng cả thông tin về tần số và dạng
riêng có thể được sử dụng để phân tích ảnh hưởng của vết nứt
5
lên đáp ứng của kết cấu. Việc đo đạc hàm đáp ứng tần số lại
đơn giản và cho kết quả chính xác. Vì vậy việc phát triển các
phương pháp ứng dụng hàm đáp ứng tần số trong chẩn đoán vết
nứt là rất cần thiết do tính ưu việt của nó.
1.2. Hàm đáp ứng tần số trong chẩn đoán hư hỏng kết cấu
Trong các dữ liệu đo đạc được của các đặc trưng dao động
thì người ta thấy rằng: Sử dụng hàm đáp ứng tần số mà thường
đo đạc được trực tiếp để làm số liệu đầu vào cho việc chẩn đoán
hư hỏng tốt hơn là dùng tần số và dạng riêng. Đó là do những
ưu điểm vượt trội của các dữ liệu hàm đáp ứng tần số đo được:
Hàm đáp ứng tần số ngoài cung cấp thông tin về
tần số riêng (tần số cộng hưởng) còn có khả năng
cung cấp thêm thông tin về đáp ứng của kết cấu ở
những tần số xa cộng hưởng.
Sử dụng hàm đáp ứng tần số sẽ tránh được sai số
của việc xử lý số liệu đo để tách tần số và dạng
riêng từ số liệu đo đạc (Hàm đáp ứng tần số là đầu
vào trong phân tích dạng riêng).
Ngoài ra, những thông tin rất quan trọng đó là vị
trí điểm đo và vị trí điểm đặt lực tác đều có trong
hàm đáp ứng tần số.
Những năm gần đây việc sử dụng hàm đáp ứng tần số để
chẩn đoán hư hỏng trong kết cấu có thể kể đến như: Araujo dos
Santos và các cộng sự năm 2005 đề xuất một phương pháp xác
định hư hỏng trên cơ sở độ nhạy của các hàm đáp ứng tần số.
Họ chỉ ra rằng kết quả nhận biết hư hỏng sẽ tốt hơn nếu như đo
ở tần số thấp và các điểm kích thích không phải là các điểm nút.
6
Vì vậy, khả năng khai thác thêm thông tin từ hàm đáp ứng tần
số cho bài toán chẩn đoán là rộng mở. Năm 2012 Huang và các
cộng sự xác định hư hỏng của kết cấu nhà năm tầng trong bài
toán điều khiển kết cấu dựa vào sự thay đổi của hàm đáp ứng
tần số và các bộ giảm chấn. Ở đây họ đã chỉ ra rằng với nhiễu
lớn hơn 10% thì không thể xác định được hư hỏng….
1.3. Một số nhận xét và đặt vấn đề nghiên cứu
Phương pháp đo đạc các đặc trưng dao động của kết cấu để
chẩn đoán hư hỏng hiện đang là phương pháp hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, dù là bằng cách nào, phân tích trực tiếp tín hiệu đo
hay sử dụng mô hình để chẩn đoán hư hỏng, thì cho đến nay
vẫn tồn tại hai vấn đề sau. Một là các đặc trưng dễ đo thì ít nhạy
cảm với hư hỏng và hai là sai số đo đạc có thể còn lớn hơn ảnh
hưởng của hư hỏng. Chính vì thế, việc tìm các đặc trưng dao
động khác vừa không nhạy cảm với sai số đo đạc, nhưng lại
nhạy cảm với hư hỏng để chẩn đoán hư hỏng trong công trình
vẫn là một bài toán chưa giải được. Trong các đặc trưng dao
động: tần số và dạng dao động riêng, hệ số cản và hàm đáp ứng
tần số thì tần số và hàm đáp ứng tần số là đo được dễ dàng nhất,
chính xác nhất. Tuy nhiên, hàm đáp ứng tần số là một đặc trưng
tổng hợp, bao hàm cả ba các đặc trưng trước (tần số, dạng riêng
và hệ số cản) và mô tả cả cấu trúc phổ của hệ. Vì vậy, sự tương
tác giữa các dạng dao động và độ nhạy cảm của chúng làm cho
độ nhạy cảm của hàm đáp ứng tần số đối với hư hỏng trở nên
rất phức tạp, khó nhận biết. Đây chính là một trở ngại của việc
sử dụng hàm đáp ứng tần số trong việc chẩn đoán hư hỏng kết
cấu. Đa số các công trình đã công bố trên thế giới về chẩn đoán
7
vết nứt bằng hàm đáp ứng xung là dựa trên phương pháp phần
tử hữu hạn, không cho phép xác định chính xác vị trí vết nứt.
Chính vì vậy, cần thiết phải phát triển các phương pháp nhắm
tận dụng sự đo đạc chính xác của tần số và hàm đáp ứng tần số
trong chẩn đoán hư hỏng là việc tìm các biểu diễn hiển của nó
qua các tham số hư hỏng. Điều đó cho phép chúng ta nghiên
cứu độ nhạy cảm của tần số và hàm đáp ứng tần số đối với hư
hỏng và do đó có thể áp dụng vào chẩn đoán hư hỏng kết cấu
công trình.
Vấn đề đặt ra trong luận án này như sau:
Nghiên cứu sự thay đổi các điểm nút dao động dọc trục
trong thanh, dao động uốn của dầm do sự xuất hiện vết nứt phục
vụ bài toán chẩn đoán vết nứt.
Nghiên cứu thực nghiệm kết cấu thanh, dầm đàn hồi chứa
nhiều vết nứt bằng việc đo đạc hàm đáp ứng tần số. Từ đó phân
tích xử lý số liệu đo đạc hàm đáp ứng tần số để tìm các tần số
riêng thực nghiệm.
Xây dựng hàm đáp ứng tần số tường minh trong kết cấu
thanh, từ đó kết hợp với số liệu đo đạc thực nghiệm và sử dụng
phương pháp CSM (Crack Scanning Method) để giải bài toán
chẩn đoán trong thanh chứa vết nứt;
Sử dụng công thức Rayleigh và phương pháp CSM thiết lập
và giải bài toán trình chẩn đoán vết nứt từ tần số riêng thực
nghiệm.
8
CHƯƠNG 2. DAO ĐỘNG CỦA KẾT CẤU THANH, DẦM
CÓ VẾT NỨT
2.1. Mô hình vết nứt trong kết cấu thanh – dầm đàn hồi
Vết nứt, nói chung được hiểu là một mặt phân cách trong
một vật thể rắn làm cho trạng thái ứng suất biến dạng tại mặt
phân cách đó bị gián đoạn. Sự xuất hiện của vết nứt trong kết
cấu làm thay đổi các đặc trưng động lực học. Thường các vết
nứt được đặc trưng bởi các tham số: vị trí và kích thước và hình
dạng.
Đối với thanh - dầm đàn hồi, vết nứt được xét như sự thay
đổi tiết diện ngang trong một đoạn có chiều dài rất nhỏ b với độ
sâu a người ta đã chính xác mô hình vết nứt mở ở dạng một vết
cưa được gọi là vết nứt hình chữ V. Ở đây, khái niệm độ sâu vết
nứt và đầu vết nứt được mô tả một cách rõ ràng. Hơn nữa,
người ta đã tính được sự suy giảm độ cứng (hoặc tăng độ mềm)
của thanh - dầm tại mặt cắt chứa vết nứt, Chính điều này đã đưa
đến ý tưởng có thể mô hình hóa vết nứt bằng một lò xo tương
đương với độ cứng K tại mặt cắt chứa vết nứt. Như vậy, người
ta hoàn toàn có thể mô tả vết nứt trong dầm đàn hồi bằng một lò
xo liên kết hai phía của vết nứt với độ cứng được xác định bằng
thực nghiệm và lý thuyết cơ học phá hủy.
Hình 2.1. Mô hình vết nứt và lò xo thay thế (uốn – kéo nén).
2.2. Dao động dọc trục của thanh đàn hồi có vết nứt
Dạng dao động riêng của thanh đàn hồi có các tham số (E,
ρ, A, L) được xác định từ phương trình:
9
( x ) 2 ( x ) 0 , x ( 0 ,1 ), L / c 0 , c 0
E /.
Giả sử trong thanh có n vết nứt tại các vị trí e1 , …, en với
độ sâu tương ứng là a1,…,an được mô tả bằng các lò xo dọc
trục độ cứng Kj là hàm của độ sâu vết nứt aj . Khi đó điều kiện
tương thích tại vết nứt là:
2.1.1. Phương pháp ma trận truyền
Do các hàm m ( x ), m 1,..., n đều là nghiệm liên tục của
phương trình dao động, chúng có thể biểu diễn ở dạng:
m ( x) A m cos x Bm sin x, m 1, ..., n
Các hằng số được xác định từ:
Am
A
H m 0 .
Bm
B0
H m Tm Tm1...T1 [ H ijm hij ( , e1 ,...,e m , 1 ,..., m ), i, j 1,2]
1 j sin e j cose j
j cos2 e j
Tj T(, e j , j )
, j 1,..., n
2
1 j sin e j cose j
j sin e j
Từ đó ta xây dựng được phương trình đặc trưng (hay còn
gọi là phương trình tần số) trong dao động dọc trục của thanh có
n vết nứt bằng phương pháp ma trận truyền.
n
Dn ( ) H 11n S 0p C1q H 12n C0p C1q H 21n S 0p S1q H 22
C0p S1q 0
p (cosx)
x p
với
q (cosx)
C1q C1q ()
xq
C0p C0p ()
p (sinx)
x 0 ;
x p
q (sinx)
q
q
;
S
S
(
)
x 1 1
1
x 1.
xq
p
p
x 0 ; S0 S0 ( )
10
2.1.2. Hàm đáp ứng tần số dao động dọc trục của thanh
Xét bài toán dao động cưỡng bức của thanh bị nứt được mô
tả bằng phương trình:
( x) 2 ( x) Q0 ()a0 ( x x0 ), a0 L / EF, 0 x0 1.
Dễ dàng nhận thấy, nghiệm tổng quát của phương trình trên
có dạng:
x
( x, ) 0 ( x, ) Q0 ( )a0 h( x s) (s x0 )ds.
0
Tích phân bên phải và áp dụng điều kiện biên cuối cùng ta
được biểu thức tổng quát hàm đáp ứng tần số:
n
h( p) (1 x0 )[ L0 (x) j K(x e j )]
j 1
.
FRF(x, x0 , ) H(x, x0 , ) a0 h(x x0 )
n
( p)
( p)
L0 (1) j K (1 e j )
j 1
Từ đó ta phân tích số về hàm đáp ứng tần số trong dao động
dọc trục của thanh có nhiều vết nứt. Xét hàm đáp ứng tần số
trong lân cận của tần số riêng thứ nhất và thứ hai, ký hiệu là
FRF1 và FRF2. Ảnh hưởng của vị trí vết nứt đến các hàm đáp
ứng tần số nêu trên được trình bày các hình 2.2, hình 2.3 cho
thanh hai đầu tự do. Đồ thị trên các hình vẽ biểu thị sự thay đổi
của mô đun các hàm đáp ứng nêu theo vị trí và độ sâu một hay
nhiều vết nứt
11
Hình 2.2. Ảnh hưởng của vị trí vết nứt đến hàm đáp ứng tần số
FRF1 của thanh hai đầu tự do (độ sâu vết nứt 30%).
Hình 2.3. Ảnh hưởng của vị trí vết nứt đến hàm đáp ứng tần số
FRF2 của thanh hai đầu tự do (độ sâu vết nứt 30%).
Sự thay đổi hàm đáp ứng tần số tương tự như sự thay
đổi của tần số cộng hưởng do vết nứt. Tuy nhiên vì hàm đáp
ứng tần số là một đặc trưng hàm phụ thuộc tần số, nên bức tranh
12
thay đổi hàm đáp ứng tần số do vết nứt cung cấp nhiều thông tin
hơn tần số cộng hưởng chỉ là một giá trị số cố định;
Một vết nứt nhỏ trong thanh khó có thể phát hiện bằng
hàm đáp ứng tần số và rất có thể bài toán chẩn đoán vết nứt sẽ
không có nghiệm duy nhất, đặc biệt là với thanh có điều kiện
biên đối xứng;
Tuy nhiên, việc xuất hiện các đỉnh mới trong biểu đồ hàm
đáp ứng tần số cũng là một gợi ý để chẩn đoán hai, ba vết nứt
hay nhiều hơn. Khoảng cách giữa các đỉnh mới cũng là những
dấu hiệu để chẩn đoán đa vết nứt trong thanh;
2.2. Dao động uốn của dầm đàn hồi có vết nứt
2.2.1. Nghiệm tổng quát tường minh
Để giải bài toán này ta chia dầm thành n 1 đoạn
(e j 1 , e j ), j 1,..., n 1, e0 0, en 1 1 và xét phương trình
trong từng đoạn
(j IV ) ( x) 4 j ( x) 0, x (e j 1 , e j ).
Dễ dàng nhận thấy nghiệm tổng quát của phương trình
(2.53) có dạng:
j ( x ) C1 L1 j ( x ) C 2 L2 j ( x ) C 3 L3 j ( x ) C 4 L4 j ( x ).
Thỏa mãn điều kiện tại vết nứt và áp dụng các điều kiện
biên cho ta được phương trình đặc trưng:
n
n
j 1
j 1
D0 ( ) 1 j D2 ( , e j ) 2 j D1 ( , e j )
n
j ,k 1
1j
2 k D12 ( ) 0.
2.2.2. Công thức Rayleigh tính tần số dao động riêng đối với
dầm đàn hồi có nhiều nhiều vết nứt.
Công thức gần đúng tính tần số của dầm có nhiều vết nứt là
biểu thức hiển của các tham số vết nứt:
13
n
n
j 1
i , j 1
4k 4k 0 j k02 (e j ) k i j ij (ei , e j ) k0 (ei ) k0 (e j ).
Kết luận chương 2
Đã xây dựng được các công thức cơ bản trong dao động
dọc trục của thanh đàn hồi có nhiều vết nứt, đặc biệt là biểu
thức hiển của hàm đáp ứng tần số. Đã phân tích chi tiết hàm đáp
ứng tần số xung quanh hai tần số riêng đầu tiên (FRF1 và
FRF2) phụ thuộc vào vị trí, độ sâu và số lượng vết nứt. Kết quả
phân tích số cho thấy: ảnh hưởng của vết nứt đến hàm đáp ứng
tần số được biểu hiện rõ nét ở lân cận của tần số riêng và sự
thay đổi về mặt định tính giống như sự thay đổi của tần số riêng
do vết nứt. Tuy nhiên, các vết nứt có độ sâu lớn có thể làm xuất
hiện các đỉnh cộng hưởng mới gần với đỉnh cộng hưởng ban
đầu (của dầm không bị nứt) và khoảng cách giữa hai đỉnh cộng
hưởng này phụ thuộc vào cả vị trí và độ sâu vết nứt;
Đã thiết lập các phương trình cơ bản để tính toán tần số và
dạng dao động riêng của dầm đàn hồi có nhiều vết nứt. Những
phương trình này là công cụ chủ yếu để nghiên cứu ảnh hưởng
của vết nứt đến các đặc trưng dao động của dầm. Đặc biệt, đã
thiết lập được công thức Rayleigh, một biểu thức hiển của tần
số riêng đối với các tham số vết nứt. Đây là công cụ chủ yếu để
chẩn đoán vết nứt bằng tần số riêng sử dụng phương pháp quét
do GS. Nguyễn Tiến Khiêm đề xuất. Điểm mới của công thức
này so với các kết quả đã công bố là ở đây đã tính thêm được
thành phần tiệm cận bậc hai của độ lớn vết nứt. Đây là yếu tố
quan trọng để giải quyết một số khó khăn trong việc bài toán
14
chẩn đoán vết nứt sử dụng xấp xỉ bậc nhất đã công bố trong các
tài liệu.
CHƯƠNG 3. ĐIỂM NÚT DAO ĐỘNG DỌC TRỤC CỦA
THANH, DAO ĐỘNG UỐN CỦA DẦM CÓ VẾT NỨT
3.1. Khái niệm điểm nút dao động thanh- dầm đàn hồi
Một trong các đặc trưng dao động rất giống với tần số cả về
tính chất lẫn phương pháp đo đạc, đó là các điểm nút dao động.
Theo định nghĩa, nút dao động là vị trí trong kết cấu tại đó dạng
dao động nào đó bị triệt tiêu (bằng 0).
3.2. Điểm nút dao động dọc trục thanh đàn hồi có vết nứt
H m S p ( ) H12mC0p ( )
tan xm 11m 0p
H 22C0 ( ) H 21m S 0p ( )
0
0,05
e3=0.8,a=10%
0,1
e3=0.85,a=25%
e1
e3=0.84,a=20%
e3=0.85,a=23,2905%
e3=0.8,a=25%
0,15
0,2
e3=0.8,a=20%
e3=0.85,a=30%
e3=0.9025222
0.25
0.3
0.35
0.4
0.45
0.5
e2
0.55
0.6
0.65
0.7
Hình 3.1. Ảnh hưởng của vết nứt thứ ba đến sự dịch chuyển của
điểm nút thứ hai (dạng dao động thứ hai). Các đường đồng mức
không dịch chuyển của điểm nút thứ hai phụ thuộc vào vị trí vết
nứt thứ nhất và thứ hai ứng với vị trí và độ sâu khác nhau của
vết nứt thứ ba.
15
3.3. Điểm nút dao động của dầm đàn hồi có vết nứt
E110
E120
E130
E140 A
0
0
0
0
0
B
E22
E23
E24
4 E21
4
4
4
0 0
1
n
1
n
1
n
1
n
E
T
E
T
E
T
E
T
1 j j1 1 j j 2 1 j j 3 1 j j 4 C 0
j 1
j 1
j 1
j 1
D 0
Fm1 ( xm ) Fm 2 ( xm ) Fm 3 ( xm ) Fm 4 ( xm )
0.01
0.005
S u t h ay d o i d ie m n u t th u n ha t
0
-0.005
-0.01
-0.015
-0.02
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
Vi tri vet nut
0.6
0.7
0.8
0.9
1
Hình 3.2. Sự thay đổi vị trí điểm nút thứ nhất (1/3) của dạng
riêng thứ ba theo vị trí vết nứt với độ sâu thay đổi từ 0% đến
50% trong dầm gối tựa đơn hai đầu.
0.015
Su thay doi diem nut, mode 2
0.01
0.005
0
-0.005
-0.01
-0.015
0
0.1
0.2
Vi tri vet nut thu nhat
0.3
0.4
0.5
0.5
0.55
0.6
0.65
0.7
0.75
0.9
0.85
0.8
Vi tri vet nut thu hai
0.95
1
Hình 3.3. Sự thay đổi vị trí điểm nút dạng riêng thứ hai theo vị
trí hai vết nứt nằm hai phía điểm nút, dầm gối tựa đơn hai đầu.
16
Kết luận Chương 3
Như vậy, các kết quả số minh họa nhận được cho trường
hợp thanh đã được mô tả rõ ràng và chi tiết hơn kết quả của
Delina và Morassi, ở đó chưa nêu rõ được các vùng “kéo-đẩy”
điểm nút.
Các bức tranh nêu trên cho phép ta xác định hướng xê dịch
của các điểm nút do tác dụng của vết nứt. Đây là các biểu đồ
cho phép ta phân vùng, thậm chí là xác định được vị trí chính
xác của vết nứt khi đo được vị trí các điểm nút.
CHƯƠNG 4. ĐO ĐẠC THỰC NGHIỆM TRÊN MÔ
HÌNH TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM
4.1. Đo đạc hàm đáp ứng tần số trên mô hình thanh đàn hồi
có vết nứt
Một mô hình thanh bê tông hai đầu tự do, có tiết diện hình
tròn đường kính 0.2m, chiều dài 1.5m (Hình 4.4) đã được chế
tạo phục vụ việc đo đạc thực nghiệm hàm đáp ứng tần số và
chẩn đoán vết nứt bằng hàm đáp ứng tần số. Hai vết nứt là các
vết cưa có độ sâu lần lượt là 12% và 5% đã được tạo ra tại các
vị trí 0.49m và 1.02m
Hình 4.1. Mô hình thí nghiệm và hệ thống thiết bị đo
17
Hình 4.2. Tín hiệu đầu vào và FRF của thanh bê tông đàn hồi.
4.2. Đo đạc hàm đáp ứng tần số trên mô hình dầ006D đàn
hồi có vết nứt
Hình 4.3. Mô hình thí nghiệm dầm đàn hồi ngàm hai đầu.
18
- Xem thêm -