Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam - Hồ Chí Minh, một tầm nhìn triết học
Dân tộc Việt Nam ta trong quá trình đấu tranh và xây dựng đã hình thành nên chủ
nghĩa nhân văn Việt Nam Và ngày nay đã phát triển lên đỉnh cao mới mà ở đó chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã kết tinh cả chủ nghĩa nhân văn Việt Nam, chủ
nghĩa nhân văn Đông Tây và nhân lại xưa nay- có tác dụng định hướng lớn và phát
huy cao độ nội lực trong phát triển, hiện đại hóa và hội nhập. Chủ nghĩa nhân văn
này không chỉ là giá trị về mặt văn hóa mà còn có tầm tinh hoa, tầm triết học, thực
sự là như một triết học. Nó cũng là một cơ sở và nội dung chủ yếu của chủ nghĩa
duy vật nhân văn. Do đó, khác với nhiều bài viết khác cùng chủ đề, bài viết này là
luận ở góc đội triết học là chính.
I- Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam hướng tới chủ nghĩa nhân văn mácxít cần phát
huy trong thời kỳ mới
1- Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam
Trong lịch sử tư tưởng và văn hóa Việt Nam ta, thấy rằng có một số nhà trí thức
hoặc một số lãnh tụ của dân tộc thường bàn về các triết lý Nho giáo, triết lý Phật
giáo, triết lý yêu nước và nhân ái Việt Nam hoặc sau này là một số triết lý và tư
tưởng phương Tây như là những tư tưởng triết học về giải phóng con người (cá
nhân) trần gian gắn liền với chính trị, gắn liền với đời sống nhân sinh.
Công bằng mà nói dân tộc ta ít để lại những nhà triết học và những lý thuyết triết
học thật sự. Nhưng điều đó không có nghĩa là dân tộc ta không có tư tưởng triết
học. Triết học là tinh hoa của một nền văn hóa nhất định. Nền văn hóa Việt Nam là
một nền văn hóa lâu đời nên có chiều sâu triết học của nó.
Chúng tôi nghĩ rằng việc nghiên cứu và giáo dục có hệ thống chủ nghĩa nhân văn
Việt Nam nhất là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là việc làm thật sự cần thiết.
Gần đây có một số sách đã xuất bản nói về lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử văn
hóa Việt Nam, tư tưởng triết học Việt Nam, thực chất là theo hướng đó. Tuy rằng
việc làm trên cần được tốt hơn nữa để tạo ra sự nhận thức nhất quan về bản sắc,
bản linh và sức mạnh văn hóa Việt Nam. Có thể nói rằng chủ nghĩa nhân văn (yêu
nước và nhân nghĩa) Việt Nam là kết tinh, thể hiện tập trung và nổi bật nhất bản
sắc và bản lĩnh đó. Tinh túy ấy thực chất là tư tưởng triết học Việt Nam từ truyền
thống lên hiện đại.
Để hiểu những tư tưởng triết học của nền văn hóa ấy, chúng ta phải làm nhiệm vụ
phân tích, hệ thống hóa nó, xây dựng thành một lý thuyết triết học thật sự mang sắc
thái dân tộc Việt Nam, trí tuệ và tình cảm Việt Nam. Ngày nay chúng ta có điều
kiện làm việc đó dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Hệ thống này bao gồm những tư tưởng của các nhà chính trị các nhà trí thức
và bao gồm cả những triết lý cơ bản trong dân gian. Tất cả những điều đó tổng hợp
lại thành một hệ thống giá trị thể hiện cả mặt trí tuệ, ý chí, khí phách, tình cảm và
đạo lý. Hệ thống đó có nội dung đa dạng, nhiều cấp độ nhưng nói chung có bản
chất nhân bản, nhân đạo, nhân văn. Do đó có thể khái quát bằng một tên gọi là chủ
nghĩa nhân văn Việt Nam. Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam trong suốt 4000 năm lịch
sử có tư tưởng cốt lõi của nó. Đó là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và nhân nghĩa
Việt Nam. Có thể sử dụng hai khái niệm của chủ nghĩa này để diễn đạt các phương
diện tư tưởng và văn hóa Việt Nam. Nhưng theo chúng tôi chủ nghĩa nhân văn
rộng hơn khái niệm chủ nghĩa yêu nước, bởi vì tư tưởng yêu nước là tư tưởng nhân
văn chủ đạo của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó còn có thành ohần cơ bản khác là
nhân nghĩa Việt Nam. Do đó, gần đây khái niệm về chủ nghĩa nhân văn Việt Nam
đã được giới khoa học chú ý nghiên cứu có hệ thống và sâu hơn nhưng vẫn chưa có
chiều sâu triết học.
Có thể trình bày chủ nghĩa nhân văn Việt Nam theo quá trình lịch sử tư tưởng gắn
với quá trình lao động và đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Nhưng trước hết chúng
tôi muốn trình bày về mặt lôgíchh, tổng quát mang tính lý luận triết học, làm nổi
bật những nội dung quan trọng của nó. Điều đó còn nhằm mục đích luận chứng
cho quan niệm chủ nghĩa nhân văn Việt Nam với tư cách là một triết học theo cách
nhìn hiện đại ngày nay.
Có thể nói rằng trung tâm của sự suy nghĩ, sự biện luận, sự cảm nhận và hành động
của con người Việt Nam là xoay xung quanh số phận của con người, số phận của
dân tộc trong quá trình đấu tranh và lao động. Đúng là dân tộc ít bàn về thế giới tự
nhiên mà bàn về số phận của con người và dân tộc mình. Số phận của con người và
dân tộc từng được nhìn dưới góc độ sau đây: số phận của con người trong chế độ
áp bức bóc lột, bất công, chuyên chế và trước sức mạnh tàn khốc của thiên nhiên,
số phận này thể hiện một mặt là nghèo đói, bệnh tật, một mặt là bị áp bức, đàn áp.
Một góc độ nữa của số phận con người là số phận của dân tộc trước họa xâm lăng
của ngoại bang với sự chết chóc và bị đàn áp diễn ra liên miên trong nhiều thế kỷ.
Bàn về số phận của con người, nỗi khổ đau, tủi nhục của con người trong tư tưởng
Việt Nam như vậy là khác với tư tưởng Phật giáo mặc dù có sự tương đồng, đồng
cảm nào đó. Những nhà chính trị, những hiền nhân và kể cả nhân dân lao động đi
tìm nguyên nhân của số phận con người và dân tộc Việt Nam trước thiên tai địch
họa. Cũng có thể có ý kiến cho rằng nỗi khổ nhục như vậy là do thiên mệnh.
Không, đa số các bậc trí thức và nhân dân đều nhận thấy rằng nỗi khổ chính là do
con người gây nên trước hết là giặc ngoại xâm, sau nữa là quan lại tham tàn. Đọc
Tuyên ngôn của Lý Thường Kiệt, Binh pháp của Trần Hưng Đạo, thơ Nguyễn Du,
Đại Cáo Bình Ngô của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, đọc các tác phẩm Phan Bội Châu, đọc
Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh và tục ngữ ca dao Việt Nam chúng ta đều
cảm nhận được đều đó. Sự nhận thức những vấn đề nói trên của dân tộc ta vừa
bằng lý trí vừa bằng tình cảm, vừa bằng hữu thức vừa bằng vô thức. Ở đây không
tuyệt đối duy lý hoặc, duy tình mà lý tình kết hợp, có lý có tình.
Người Việt Nam cảm nhận mình là con người, phải vươn lên sống xứng đáng là
con người trong cộng đồng dân tộc, do đó rất đề cao đạo lý làm người, đồng thời
đấu tranh chống áp bức bất công để được sống xứng đáng với con người. Khát
vọng ấy, lý tưởng ấy là một hiện thực khác quan. Dân tộc Việt Nam tự xác định là
một dân tộc, tự quyết, tự tôn và độc lập mang tính tất nhiên như trời đất,có đất đai
lãnh thổ, phong tục, văn hóa, văn hiến riêng biệt. Đó là dân tộc không chịu làm nô
lệ, không có gì quí hơn độc lập tự do. Đó cũng là khát vọng và xu hướng khách
quan của lịch sử. Tất cả đã tạo thành sức mạnh, bản lĩnh Việt Nam.
Con đường để trở thành một dân tộc độc lập, một con người tự do không phải chỉ
là con đường cầu mong, "cầu trời khấn phật", hoặc đơn giản tu thân tề gia, hoặc
thực nghiệm tâm linh để giải thoát mà chủ yếu là con đường dấn thân vào cuộc đấu
tranh trong hiện thực xã hội với mọi thế lực xâm lược và áp bức nhân dân. Nhận
thức rõ kẻ thù của dân tộc và nhân dân, tìm con đường đấu tranh bằng sức mạnh
của nhân dân dựa vào thế núi non, dựa vào lòng dân, dựa vào sức mình mà sáng
tạo và chiến thắng. Trải qua thực tiễn đoàn kết xây dựng và đấu tranh như vậy mà
đúc kết lên thành những quan niệm những tư tưởng, những phương sách để đấu
tranh và chiến thắng. Tư duy như vậy là một tư duy thấm nhuần tính chất duy vật,
thực tiễn và biện chứng, đồng thời thấm nhuần tinh thần nhân đạo và nhân văn.
Con người và dân tộc Việt Nam mang trong mình những phẩm chất yêu và thương,
lý và tình kết hợp. Yêu hòa bình, yêu tự do, yêu công bằng và lẽ phải. Yêu cái đẹp,
yêu chân lý và thương người như thể thương thân, bầu ơi thương lấy bí cùng. Tóm
lại là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân, quý trọng độc lập, tự do, thủy
chung, từ bi hỉ xả, bao dung, bác ái, lạc quan và yêu đời. Do đó trong khổ đau vẫn
vươn lên, trong thất bại vẫn hi vọng thành công. Tin ở sức mạnh đoàn kết của cộng
đồng, tin ở sức mạnh của nhân dân, dân là gốc của nước. lật thuyền mới biết dân
mạnh như nước. Dân tộc Việt Nam biến sức mạnh căm thù thành sức mạnh chiến
thắng. Nhưng khi kẻ thù chịu thua trận thì sẵng sàng dối xứ khoan dung, tử tế, "trải
chiếu hoa" và cấp lương thực cho về nước, là lầy nhân nghĩa tháng hung tàn, lấy trí
nhân thay cường bạo. Trong hành động của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam
luôn luôn thể hiện việc giải quyết đúng đắn giữa mối quan hệ giữa tình và lý, giữa
tình thương và lẽ phải, giữa thiện và ác. Do đó tư tưởng triết học của chủ nghĩa
nhân văn Việt Nam thật sự mang tính chất nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Triết học
đó đề cao con người, tin yêu vào sức mạnh của con người trần thế. Triết học đó
cũng giải quyết tốt mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng của cuộc đấu tranh và
tạo dụng, giải quyết mối quan hệ giữa gia đình với đất nước, làng xóm với tổ quốc,
giữa những con người cùng chung một cảnh ngộ cần đoàn kết để đấu tranh và phát
triển và đúng là đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công thành công, đại thành
công như sau này chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết. Triết học đó cũng giải quyết
mối quan hệ giữa thực tại và ý thức, nhu cầu và hành động. Từ đó phát huy sức
mạnh của nội lực để thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Dân tộc Việt Nam trong quá trình phát triển, xây dựng và đấu tranh luôn luôn có sự
giao lưu và tiếp nhận các luồng tư tưởng và văn hóa của các nước khác ngày càng
mở rộng. Nhưng đó là quá trình giao lưu, tiếp nhận và sáng tạo, giữ gìn bản sắc
Việt Nam, làm phong phú tư tưởng, trí tuệ, tình cảm Việt Nam trên cơ sở chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Đạo Nho, đạo Phật ở đây đã trở
thành đạo Nho đạo Phật Việt Nam khi bao hàm tư tưởng yêu nước và bị chi phối
bởi tư tưởng yêu nước Việt Nam. Đạo Phật vào đây cũng vậy Và sau này tinh hoa
văn hóa phương Tây, nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin đã tiếp thu và vận dụng ở Việt
Nam cũng vậy. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế công nhân, giải phóng con người
gắn liền với giải phóng dân tộc và xã hội, gắn văn hóa nhân văn của dân tộc với
khoa học công nghệ hiện đại càng thể hiện rõ điều đó.
Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam có nguồn gốc bản địa và tố chất của văn hóa Việt
Nam nhưng cũng được bồi bổ bằng chủ nghĩa nhân văn phương Đông và phương
Tây và cuối cùng hoà nhập với chủ nghĩa nhân văn mácxít, được nâng lên một
trình độ mới và thể hiện tập trung trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Chất
nhân văn trong con người Hồ Chí Minh được nhiều người mô tả một cách sinh
động. Theo J.Roux thì đó là "người kết hợp tới mức nhuần nhuyễn phi thường chủ
nghĩa anh hùng với đầu óc sáng suốt, lòng yêu nước tuyệt vời và tinh thần cách
mạng trong sáng, thái độ cứng rắn trước cuộc sống với lòng nhân đạo đối với con
người". Còn N. K. Sing thì "Hồ Chí Minh là một con người quần chúng… biết kết
hợp hiếm có giữa lòng khoan dung tột độ và ý chí kiên quyết nhất"; "là người gắn
kết một cách tự nhiên sự tao nhã cao quí với tác phong dễ gần gủi, rất dân chủ giữa
tự do không nghi thức, thoải mái và tự nhiên với thái độ đàng hoàng và thận
trọng". Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam thấm nhuần tinh thần trong cuộc đời của con
người Việt Nam là "đem hết sức mình để đem lại cơm ăn, nước uống cho những ai
đói khát, bênh vực cho những kẻ yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người
nghèo khổ" (Montaron, Báo Bằng chứng Thiên Chúa giáo) . Chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh là một tình yêu lớn mà "ngay cả trong đời sống hàng ngày đều dành
chỗ cho mọi người, không sót một ai… lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm,
đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa yêu thương dìu dắt" (Phạm Văn
Đồng). Theo Inđra Gandi cho rằng "Tính độ lượng, tính giản dị, tình yêu nhân loại,
sự tận tụy hi sinh và lòng dũng cảm sẽ cổ vũ cho các thế hệ mai sau" (trích theo
PGS. PTS Bùi Khánh Thế: Bản sắc văn hóa - tiếp cận từ ngôn ngữ trong Bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vai trò của nghiên cứu và giáo dục, Nxb TP
Hồ Chí Minh, 1999, tr 561) .
Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam như một dòng chảy của dân tộc suốt chiều dài lịch
sử đất nước. Từ đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, ta nhìn lại khơi
nguồn, hệ thống hóa để xây dựng thành chủ nghĩa nhân văn Việt Nam ngày nay.
Cần phải lý luận hóa tư tưởng, trí tuệ và tình cảm nhân văn ấy. Đồng thời lại thực
tiễn hóa nó trong quá trình xây dựng xã hội mới như một tư tưởng chỉ đạo cơ bản
có ý nghĩ thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận. Điều đó là nằm trong
bản chất của chủ nghĩa xã hội chân chính khoa học và nhân bản. Chủ nghĩa xã hội
là một chủ nghĩa nhân đạo hiện thực và hoàn bị như sự khẳng định của chủ nghĩa
Mác - Lênin và thể hiện rất rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam ngày nay là thời đại mới của chủ nghĩa nhân văn.
Có thể coi chủ nghĩa nhân văn từ thế kỷ XIX về trước là chủ nghĩa nhân văn Việt
Nam truyền thống. Chủ nghĩa nhân văn từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
lãnh đạo cho đến ngày nay gọi là chủ nghĩa nhân văn cách mạng mà tiêu biểu nhất
là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Quá trình xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội gọi là chủ nghĩa nhân văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa nhân văn
trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân văn có tính tự giác cao,
có tính hệ thống. Về mặt thực tiễn, chủ nghĩa nhân văn này có cơ sở kinh tế xã hội
mới, những nội dung và hình thức mới, những tính chất và trình độ mới. Chẳng
hạn chủ nghĩa nhân văn hiện nay bao hàm cả vấn đề nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho tất cả nhân dân. Chủ nghĩa nhân văn này bao hàm cả vấn đề dân chủ,
vấn đề công bằng xã hội, bao hàm cả giải phóng cá nhân và cộng đồng, xóa bỏ
nghèo đói tiến lên giàu mạnh văn minh. hướng tới tôn trọng tư do và phát triển
toàn diện con người. Nói tóm lại là những khát vọng nhân đạo và nhân văn trong
các lý tưởng tốt đẹp của mọi tôn giáo, mọi xu hướng tư tưởng tiến bộ được thực
hiện và dần dần đảm bảo đầy đủ ngày càng cao cùng với quá trình xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chúng tôi nhất trí với nhận định sau đây của PGS PTS Bùi Khánh Thế cho rằng:
chủ nghĩa nhân văn Việt Nam luôn luôn là cốt lõi, là hằng thể ẩn tàng trong những
biến thể của bản sắc văn hóa Việt Nam. Bằng vào thực tế và cách suy nghĩ biện
chứng chúng ta có thể đoán trước rằng bản sắc văn hóa Việt Nam rồi đây bước vào
thế kỷ XXI sẽ có thể có thêm những biến thể mới, nhưng chừng nào nhân tố hằng
thể ấy - chủ nghĩa nhân văn Việt Nam - còn bảo tồn thì bản sắc văn hóa Việt Nam
vẫn sẽ không bị phai nhạt "chủ nghĩa nhân văn Việt Nam cũng như cấu trúc ngữ
pháp đối với một ngôn ngữ"( PGS. PTS Bùi Khánh Thế: Bản sắc văn hóa - tiếp cận
từ ngôn ngữ trong Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vai trò của nghiên
cứu và giáo dục, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1999, tr 561) . Chủ nghĩa nhân văn Việt
Nam là nền tảng bền vững, cái bất biến trong cái vạn biến. Đó là cái sức mạnh bất
chiến bất thắng từ xưa đến nay và cả sau này của dân tộc Việt Nam. Đó là sức
mạnh tạo ra cấp số nhân trong vănhóa Việt Nam cả phương diện không gian văn
hóa, và thời gian văn hóa, là "sự hòa hợp tuyệt vời giữa quá khứ và hiện tại", "thời
gian tích tụ, như ngưng đọng lại thành một sức mạnh", "một thời gian đông đặc,
một thời gian không hề vơi đi", "không làm cho quá khứ chết thêm mà làm sống lại
quá khứ" như lời khẳng định của nữ sĩ Blaga Đimitrôva trong tác phẩm Ngày phán
xử cuối cùng (trích theo GS. TS Nguyễn Duy Quý)
Do đó, cần phát huy và vận dụng chủ nghĩa nhân văn Việt Nam - Hồ Chí Minh như
là nhân sinh quan và phương pháp luận, hệ tư tưởng và đạo lý trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và bảo vệ tổ quốc thân yêu của mình. Nhưng
làm sao đó thế hệ trẻ tiếp nhận một cách có hệ thống, sâu sắc chủ nghĩa nhân văn
ấy như một nội lực và sức mạnh thần kỳ để vượt qua mọi khó khăn thử thách trên
bước đường đi tới. Câu trả lời là tiếp tục nghiên cứu, giáo dục và thể hiện trong
mọi chủ trương của Đảng và Nhà nước để dễ dàng đi vào cuộc sống.
2- Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam- tập trung bản sắc, bản lĩnh và động lực của văn
hóa nhân văn Việt Nam
Từ xưa đến nay, chúng ta đều thừa nhận rằng ở Việt Nam có một chủ nghĩa yêu
nước - đó là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Giới nghiên cứu, các nhà khoa học
cũng đã đề cập rất nhiều, từ các góc độ khác nhau đối với chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam. Nhưng nhìn chung vẫn thiên về tình cảm, ý chí, tinh thần yêu nước, chứ chưa
đề cập nhiều về mặt tư tưởng, về mặt trí tuệ có hệ thống. Hoặc vấn đề được trình
bày nhiều về phương diện thông sử mà, chưa đề cập có hệ thống về mặt văn hóa
học. Nghĩa là vấn đề chủ nghĩa yêu nước- sự thể hiện tập trungbản sắc,bản lĩnh ,
động của văn hóa và xã hội Việt Nam chưa được nhìn đầy đủ ở cấp độ lý luận, cấp
độ phương pháp luận.
Trước yêu cầu của sự phát triển ngày nay, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò
động lực của văn hóa truyền thống, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kỳ
xây dựng mới, buộc chúng ta phải nghiên cứu sâu hơn, cơ bản hơn, có hệ thống
hơn về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Và làm được điều đó không chỉ có ý nghĩa
về mặt khoa học mà còn ý nghĩa về mặt giáo dục, và về mặt thực tiễn.
Tôi muốn có một cách nhìn nhận hơi khác hoặc nhận thức lại chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam, trên cơ sở kế thừa sự nghiên cứu và đánh giá của giới khoa học nưóc ta,
đặc biệt trong những công trình lớn có tính chất tổng kết về văn hóa và tư tưởng
Việt Nam.
Trước hết, chúng ta đều thấy rằng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là tình cảm, ý chí
của dân tộc Việt Nam, có chiều sâu trong tâm linh, trong tâm tưởng dân tộc. Tình
cảm, ý chí ấy là hết sức mãnh liệt, được kết tinh lại, trở thành những làn sóng
ngầm và được thể hiện rõ nét nhất trong những thời kỳ dân tộc gặp nguy nan, phải
cứu dân, cứu nước. Đó là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là những làn sóng
ngầm mạnh mẽ đã nhiều lần nhấn chìm các thế lực xâm lược, đưa dân tộc đến bến
bờ độc lập tự do. Đó là tinh thần không chịu làm nô lệ, không có gì quý hơn độc
lập tự do, được hun đúc nên trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Nó có sức cố kết
dân tộc trong việc chiến thắng thiên tai và địch họa.
Dân tộc nào cũng có tinh thần yêu nước, nhưng mức độ sâu đậm là khác nhau do
hoàn cảnh lịch sử tạo ra. Cái độc đáo trong hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam là phải
chống giặc ngoại xâm liên tục trong nhiều nghìn năm, trong nhiều thời đại với
nhiều đế quốc to và hùng mạnh như chúng ta đã biết. Chính vì vậy, tinh thần yêu
nước ở đây như một "tôn giáo" chính thống của dân tộc. Nó còn hơn cả một tôn
giáo vì nó có chiều sâu tâm linh, chiều cao của niềm tin, chiều rộng của cộng đồng,
có sức lôi cuốn mạnh mẽ mọi người, toàn dân đánh giặc, cứu nước, sẵn sàng "tử vì
đạo" yêu nước. Đạo yêu nước này không viễn vông cao xa, thoát tục, mà rất đời
sống, nhưng cũng hết sức linh thiêng. Khắp đất nước ta đã có nhiều đền thờ các
anh hùng dân tộc, những người có công đã xả thân hy sinh vì nước. Dân tộc ta coi
Hùng Vương, Trần Hưng Đạo ... Hồ Chí Minh như là một vị thánh. Đó là điều ít có
ở các dân tộc khác. Nói chung, người Việt Nam ai cũng có lòng yêu nước nồng
nàn, dù theo đạo hay không theo đạo nhưng đều bị thu hút bởi chủ nghĩa yêu nước.
Và chủ nghĩa yêu nước ấy đã trở thành điểm sáng và sức sống chủ yếu trong tâm
hồn họ.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không đơn giản là ý thức tinh thần, mà còn là khí
phách dân tộc, là ý chí, là trí tuệ, là hành động đoàn kết, bất khuất, kiên cường,
quật khởi trong hành động. Điều đó tạo thành chủ nghĩa anh hùng Việt Nam. Chủ
nghĩa anh hùng Việt Nam là hành động thực của chủ nghĩa yêu nước. Trong sự
nghiệp chiến thắng thiên nhiên xây dựng đất nước, nhất là sự nghiệp chiến thắng
giặc ngoại xâm, bảo vệ quyền tự quyết, quyền độc lập tự do của dân tộc, thì không
chỉ làm nảy sinh hành động anh hùng ở một số người, một số tầng lớp đặc biệt nào
đó, mà là ở tất cả mọi tầng lớp người, và ở trong tất cả các dân tộc của cộng đồng
Việt Nam trong các giai tầng, trong các giới tính. Anh hùng vô danh hoặc anh hùng
có tên tuổi hoặc hành động anh hùng đã trở thành phổ biến trong nhiều thời kỳ lịch
sử đã hun đúc nên phẩm chất anh hùng của dân tộc Việt Nam, của nhân dân Việt
Nam. Phẩm chất ấy được lưu giữ, di truyền trong gen của nhiều thế hệ. Hình tượng
Thánh Gióng là một hình tượng nhân cách hóa, thần thoại hóa, dả sử hóa của chủ
nghĩa anh hùng Việt Nam. Trong thời chiến tranh cứu nước, khi nói rằng "ra ngõ
gặp anh hùng" là hoàn toàn chính xác. Vì vậy, không chỉ yêu nước thành chủ
nghĩa, mà anh hùng cũng thành chủ nghĩa, hai mà một
Chính vì chủ nghĩa ấy mà nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết trong thời chiến tranh
chống Mỹ cứu nước : “Có lúc dân lấy hạt muối cuối cùng nuôi cán bộ, ta mất hết
còn gì đâu, còn lại cái anh hùng. Từ gốc ấy bỗng xuân về chớm nở, lại xanh chồi,
rừng lộc biếc xanh um” !
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không chỉ là tình cảm, không chỉ là hành động mà
nó còn là trí tuệ của dân tộc Việt Nam trong hoàn cảnh phải đối đầu chống giặc
ngoại xâm trong nhiều nghìn năm, trong nhiều thời đại du lúc thắng lúc thua nhưng
cuối cùng đều đánh đổ được giặc xâm lăng, giành độc lập cho dân tộc. Trong môi
trường thực tiễn đó đã tạo ra một kho tàng kinh nghiệmvà trí tuệ của dân tộc được
đúc kết, trở thành có tính lý luận, có tính khoa học, có hệ thống đủ sức soi đường
và trở thành vũ khí tinh thần của dân tộc, của toàn dân mà không có một thế lực
nào, một vũ khí nào, có thể đè bẹp được. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được nâng
lên ở trình độ tự giác, nhưng không phải được luận lý theo kiểu hàn lâm mà là theo
kiểu lý luận thực hành, và không phải chỉ bàn luận trong sách vở mà trở thành triết
lý trong dân gian trong các lời hịch cứu nước, trở thành cách suy nghĩ của cả một
dân tộc yêu nước. Chẳng hạn dân thì nói rằng "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"
hoặc tướng lĩnh đã nói rằng "Hết cỏ nước Nam mới hết người đánh Tây" hoặc "Bệ
hạ muốn đầu hàng thì hãy cắt đầu thần trước"... Đó còn là cách nói có luận lý nước
mất nhà tan, thà hy sinh tất cả, nhưng quyết không làm nô lệ, đó còn là phương
pháp lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy trí
nhân thay cường bạo, dựa vào dân với kế sâu rễ bền gốc, dựa vào thế núi non hiểm
trở, xây dựng thành trong lòng dân hơn xây dựng thành lũy bằng đất đá v.v...
Chính vì vậy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là kết tinh trí tuệ của dân tộc và luôn
luôn được bồi đắp mở rộng và có thể nói rằng đã xây dựng nên khoa học về chiến
tranh nhân dân, khoa học về cứu nước, khoa học về sự nghiệp giải phóng dân tộc
mà thể hiện cao nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh của thời đại chúng ta. Chủ nghĩa
yêu nước như vậy có giá trị như một triết học nhân sinh cơ bản của Việt Nam. Dù
rằng tư tưởng triết học trong lịch sử Việt Nam chịu ảnh hưởng và có kế thừa nhiều
dòng triết học Đông - Tây, nhưng chủ nghĩa yêu nước với tinh thần, trí tuệ như vậy
là triết học nhân sinh cơ bản của Việt Nam, trở thành cội nguồn, hạt nhân của các
giá trị truyền thống Việt Nam.
Văn hóa truyền thống Việt Nam, trong đó trước hết là chủ nghĩa yêu nước tạo
thành một hệ thống giá trị, nhưng chủ nghĩa yêu nước là giá trị lớn nhất, giá trị ấy
thể hiện tập trung ở mệnh đề mà Hồ Chí Minh đã tổng kết, trở thành chân lý của
dân tộc và thời đại là "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Như thế, là chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam là hệ tư tưởng của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch
sử. Dân tộc ta làm chiến tranh cứu nước và tự vệ luôn là những cuộc chiến tranh
chính nghĩa, vì lợi ích chính đáng của dân tộc. Chúng ta không bao giờ xâm lược ai
mà chỉ đánh quân xâm lược để khẳng định chủ quyền dân tộc.
Dân tộc ta hình thành sớm ngay từ thời dựng nước và hình thành dân tộc không
giống như các dân tộc ở phương Tây sau này. Nó được hình thành không chỉ do
những điều kiện tự nhiên, ngôn ngữ, văn hóa mà trưóc hết là trong cuộc đụng đầu
với các thế lực ngoại bang. Do đó, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phản ánh nguyện
vọng, lợi ích, lý tưởng hiện thực trong sự hình thành, bảo vệ, tự khẳng định và phát
triển dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn của Lý Thường Kiệt: Nam quốc sơn hà nam
đế cư, Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư, Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư!.
Hay tuyên ngôn của Nguyễn Trãi - Lê Lợi trong Đại cáo Bình Ngô đã khẳng định
chủ quyền dân tộc, nền văn hiến và văn hóa lâu đời, khẳng định chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng, lòng bao dung và trí tuệ của dân tộc. Hoặc Tuyên ngôn
độc lập của Hồ Chí Minh là một bản tổng kết lịch sử trong thời đại ngày nay về
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam gắn với chủ nghĩa quốc tế chân chính, không chỉ về
mặt tinh thần, khí phách mà cả trí tuệ, tư tưởng của dân tộc Việt Nam trong sự
nghiệp giữ nước và dựng nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam còn trở thành hệ quy chiếu, phương pháp nhìn nhận
xem xét đâu là bạn đâu là thù, đâu là chính đâu là tà. Đâu là đạo đức, đâu là phi
đạo đức. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là đạo lý của dân tộc Việt Nam có sức bền
vững, trở thành cội nguồn của sức sống dân tộc. Giữ và phát huy được truyền
thống ấy với việc tiếp thu của tinh hoa thời đại thì không có sự việc nào là không
thành công.
Hồ Chí Minh đã từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa của
loài người và đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, bổ sung và phát triển chủ nghĩa MácLênin và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, nâng chủ nghĩa yêu nước lên một tầng cao
mới. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở thành một trong những nội dung chủ yếu
của tư tưởng Hồ Chí Minh, và tất nhiên cũng là một trong những nguồn gốc chủ
yếu hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, dù trong lịch sử gắn liền với các chế độ xã hội khác
nhau trong lịch sử, nhưng đều như một dòng nước trong, ánh sáng tinh khiết trong
đời sống tinh thần Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước ấy ngày nay thông qua tư tưởng
Hồ Chí Minh đã trở thành một nội dung quan trọng của hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân Việt Nam và dân tộc Việt Nam trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Do đó chủ nghĩa yêu nước ấy đang mang những nội dung mới, hình thức mới,
tiếp tục đóng vai trò động lực, tiếp tục giải phóng mọi nguồn lực trong sự nghiệp
chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, chiến thắng mọi thế lực muốn diễn biến hòa
bình đối với chế độ mới ở nước ta.
Gần đây cùng với vai trò của văn hóa truyền thống được nâng cao trong quan điểm
phát triển theo lối mới, Đảng ta đã nhấn mạnh tiếp tục phát huy, phát triển chủ
nghĩa yêu nước việt Nam trong thời kỳ mới hội nhập quốc tế để chiến thắng nghèo
nàn lạc hậu, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tiến đến dân chủ, giàu mạnh và văn
minh. Chủ nghĩa ấy phải được phát huy, phát triển cả vầ mặt tình cảm ý thức, cả về
mặt ý chí và khí phách, cả về mặt trí tuệ và tư tưởng, cả về mặt nhận thức và
phương pháp luận.
Do đó, phải tiếp tục nghiên cứu nó sâu hơn, toàn diện và cơ bản hơn. Không chỉ về
mặt thông sử và lịch sử văn hóa và cả về mặt lý luận. Đáng tiếc là chưa có một
công trình lý luận nào tầm cỡ xứng đáng với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đây
không phải là đề cao mình, mà sự thật lịch sử là như vậy, chân dung của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam là như vậy. Vai trò và sứ mệnh lịch sử của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam là như vậy. Công tác tuyên truyền giáo dục về chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam và chủ nghĩa nhân văn Việt Nam mà trong đó chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi
vẫn chưa đạt đến một trình độ cơ bản, có hệ thống. Dù rằng việc này chúng ta đã
làm nhiều với những hình thức khá sinh động và thực sự ít nhiều có hiệu quả.
Nhưng làm điều đó trong chiến tranh cứu nước thường dễ hơn, nhưng trong hòa
bình xây dựng thì khó hơn nhiều.
Trước thời cuộc phát triển kinh tế thị trường mở cửa; công nghiệp hóa - hiện đại
hóa; hội nhập xu thế toàn cầu hóa thì nền văn hóa các dân tộc nói chung, ở nước ta
nói riêng đang đứng trước những thử thách to lớn. Ở đây đòi hỏi nâng cao chủ
nghĩa yêu nước lên một trình độ mới, nội dung mới để bảo vệ và phát triển dân tộc
mình trước cuộc chiến tranh không tiếng súng về tư tưởng, về thông tin, về công
nghệ, về kinh tế. Nhìn nhận một cách sâu sắc thì đây là thời điểm phải thức dậy ý
thức dân tộc. Dân tộc, yêu nước bây giờ là tiến lên giàu mạnh về kinh tế và giàu
mạnh về văn hóa, bảo vệ nền bản sắc văn hóa dân tộc, chủ quyền dân tộc, nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hóa, sức sáng tạo của trí tuệ Việt Nam.
Niềm tự hào của dân tộc bây giờ chủ yếu không phải là chiến thắng một kẻ thù
xâm lược, trực tiếp mà là ở chỗ ra sức phát triển kinh tế xã hội để nâng cao vị thế
của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Ngày xưa, kẻ thù thường khinh ta là
quân man di, mọi rợ, nhưng khi ta thắng chúng thì chúng phải khâm phục và nhất
là trong các cuộc chiến tranh cứu nước trong thế kỷ XX của dân tộc ta, thì Việt
Nam đã trở thành lương tâm của thời đại, nhiều người nước ngoài đã từng ao ước
sau một đêm ngủ dậy trở thành người Việt Nam. Chúng ta tự hào thời Bà Trưng,
Bà Triệu, thời Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, thời Lê Lợi, Nguyễn Trãi, thời
Quang Trung thì chúng ta tự hào thời dựng Đảng - tức thời đại Hồ Chí Minh,
Người đã làm rạng rỡ non sông đất nước ta. Nhưng thế giới còn khinh ta nghèo,
không biết làm ăn kinh tế. Quả thật chúng ta còn là một trong hai mươi nước nghèo
nhất thế giới, nếu xét về mặt kinh tế. Có nhiều nguyên nhân kể cả nguyên nhân chủ
quan nhưng chủ yếu là do bị chiến tranh liên miên. Ngày nay chúng ta đã có hòa
bình đang ổn định và phát triển, có nhà nước của dân, do dân và vì dân, Đảng tin
dân - dân tin Đảng, một dân tộc thông minh và quật cường nhất định sẽ làm được
sự nghiệp vì dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh. Ngày nay
đã có cơ hội cho các dân tộc chậm tiến, vượt lên nhanh chóng trở thành giàu mạnh,
văn minh. Các con rồng châu Á là một điển hình thuyết thục, chúng ta sẽ làm được
điều mà các dân tộc đi trước trong sự nghiệp xây dựng kinh tế đã làm được.
Hơn mười năm đổi mới với những thành công bước đầu đã nâng cao vị thế nước ta
trong hoàn cảnh mới; là một bằng chứng mà người nước ngoài không còn dám coi
thường, họ đã bắt đầu thất sự phục hưng của dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã
chịu nhiều đau thương và mất mát...
Tất nhiên, chúng ta phải chiến thắng, vượt qua những trở lực không phải chỉ ở bên
ngoài mà trước hết ở trong chính mình, ở trong Đảng cầm quyền, ở trong Nhà
nước của dân, ở các cấp các ngành và ở mọi người dân yêu nước. Cùng với các sức
mạnh và sự sáng suốt khác của thời đại mà ta có được, thì chủ nghĩa yêu nước là
một cái chủ yếu trong đó.
Chúng ta rất tự hào có chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chủ nghĩa nhân văn Việt
Nam, có chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đường, thu hút tinh
hoa, trí tuệ và nhân tâm nhân lọai, nhất định sẽ thực hiện được khát vọng của dân
tộc và của Hồ Chí Minh - anh hùng dân tộc và nhà văn hóa lớn của nhân loại.
II- Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh- một tầm cao mới
1- Di chúc Hồ Chí Minh và cơ sở triết học của chủ nghĩa nhân văn cách mạng
Có thể nói rằng Di chúc Hồ Chí Minh là một sự tóm tắt trí tuệ, tư tưởng, tình cảm
của Người. Đó là một tấm gương phản chiếu cô đọng tập trung nhất gợi mở chiều
sâu của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Nói cách khác phải hiểu chiều sâu của
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh mới thấm nhuần được những tư tưởng và chỉ dẫn
trong Di chúc của Người.
Nội dung của chủ nghĩa nhân văn thể hiện trong Di chúc trên khá nhiều phương
diện gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới. Ở đó Người
quan tâm đến số phận của nhân dân, số phận của tất cả các tầng lớp con người
trong xã hội, vừa là chủ thể của công cuộc giải phóng đã có nhiều cống hiến xuất
sắc, nhưng đồng thời cũng như nạn nhân chịu nhiều đau thương, mất mát do chế độ
thực dân và tay sai thống trị và đàn áp dân tộc trong nhiều thập kỷ qua. Người yêu
cầu Đảng và cách mạng phải đền đáp và phải có kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
nâng cao đời sống cho nhân dân, xây dựng đất nước và môi trường cảnh quan ngày
càng tươi đẹp; đồng thời xây dựng những thế hệ cách mạng nòng cốt, trẻ tuổi để
trở thành lực lượng chủ lực xây dựng thắng lợi xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng có
nghĩa là từng bước thực hiện cho được những mục tiêu nhân văn mà Người và cả
dân tộc theo đuổi, đó là: Toàn Đảng, toàn dân đoàn kết phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất dân chủ và giàu mạnh, và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Với Di chúc mà nội dung cụ thể đã
được nhiều bài viết đề cập, ở đây chỉ xin nói gọn lại là: Người để lại cho Đảng ta
và nhân dân ta một tư duy độc lập sáng tạo, luôn luôn đổi mới; để lại một tình cảm
thương yêu rộng lớn, nồng hậu trên tinh thần của chủ nghĩa nhân văn cách mạng;
để lại một thông điệp có tính cương lĩnh cho một thời kỳ xây dựng và phát triển
mới của đất nước; và cũng đã để lại cho nhân loại tiến bộ trên thế giới một ngọn cờ
của hoà bình và hạnh phúc, biểu tượng cho một nền văn hóa tương lai. Đó là tiếng
nói của một Con Người gửi đến Con Người vì Con Người.
Chúng ta hãy trở lại mạch nguồn của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Trước hết là
lô gích của lịch sử, ta thấy rằng người thanh niên Nguyễn Tất Thành sống trong
khung cảnh nước mất nhà tan, dân tộc và nhân dân bị nô lệ, Anh đã mang trong trái
tim mình tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc, nói rộng ra là chủ nghĩa nhân
văn Việt Nam để đi tìm đường cứu dân, cứu nước với một cách tiếp cận khác
những người đi trước. Hành trang của Hồ Chí Minh còn có chủ nghĩa nhân văn
phương Đông Nho giáo và Phật giáo và đã bắt đầu gặp chủ nghĩa nhân văn của
thời Phục hưng, và cách mạng tư sản Pháp. Người đã đến với nền văn hóa và tư
tưởng nhân văn tiến bộ ở phương Tây thông qua con đường tự học tập, lao động,
đấu tranh cho nước nhà được độc lập, dân được tự do, sau nữa là cho những người
lao động và bị áp bức trên toàn thế giới. Từ rất sớm Người đã nói rằng sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội là do những người lao động và bị áp bức thực
hiện. Đó là niềm tin vô hạn vào sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của con người.
Người nói trong bầu trời không có gì mạnh bằng sức mạnh nhân dân, không có gì
quý bằng nhân dân. Từ đó Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin tiếp thu phép biện
chứng duy vật và chủ nghĩa nhân văn thực tiễn trên cơ sở một nhận thức khoa học
và thực tiễn của thời đại. Người trở về sáng tạo ra Đảng cộng sản Việt Nam, lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, từng bước thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh và hoàn chỉnh nó lên một trình độ mới.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh như vậy là có cội nguồn trong lịch sử tư tưởng
và thực tiễn của thời đại và dân tộc. Lô gích lịch sử ấy của chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh đã mở ra một con đường độc đáo hội nhập văn hóa Đông - Tây, kết hợp
truyền thống và hiện đại, xây dựng một nền văn hóa nhân văn đầy đủ nhất, tiến bộ
nhất trong thời đại ngày nay. Đó là chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh là một đỉnh cao mới trên con đường chiếm lĩnh và
sáng tạo chủ nghĩa nhân văn ấy. Đó là chủ nghĩa nhân văn Việt Nam hiện đại năng
động và có tính chiến đấu cao.
Mặt khác, chúng ta lại thấy rằng về mặt lôgíc nội dung, lôgíc cấu trúc của chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là sự hội tụ và phát triển tất cả những tinh hoa tốt đẹp
nhất trong cuộc sống của con người, trong lịch sử của dân tộc và nhân loại được
thể hiện trong những phạm trù: hòa bình, hữu nghị, độc lập, tự do, dân chủ, công
bằng,bình đẳng, bao dung, bác ái, ấm no, hạnh phúc và tiến bộ cho mọi con người
và mọi dân tộc mọi cộng đồng xã hội trước hết cho dân tộc mình rồi sau đó là toàn
bộ nhân loại. Hồ Chí Minh đã đưa ra một triết lý nổi tiếng "Không có gì quý hơn
độc lập tự do". Tư tưởng hạt nhân đó của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã kết
dính được toàn bộ nội dung tiến bộ trong chủ nghĩa nhân văn tôn giáo, chủ nghĩa
nhân văn triết học Đông và Tây. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh như một hệ
thống tư tưởng thấm nhuần trong tất cả đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa
và môi trường sinh thái. Nền tảng của chủ nghĩa nhân văn ấy lại dựa trên chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Đó là chủ nghĩa nhân văn
Việt Nam trong thời đại ngày nay dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin có sức
lay động mọi con tim và khối óc trong lao động và đấu tranh cho cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn của con người, xứng đáng hơn với con người. Đó là cuộc đấu
tranh chống nạn áp bức dân tộc, áp bức và bất công xã hội, đấu tranh chống nghèo
đói, lạc hậu, dốt nát, đấu tranh chống cường quyền, độc đoán, quan liêu và chủ
nghĩa cá nhân để hướng tới độc lập tự do, ấm no hạnh phúc cho dân tộc và nhân
dân, tức là vươn tới một vương quốc tự do, con người làm chủ xã hội, làm chủ tự
nhiên, làm chủ bản thân mình. Đó là một sự nghiệp vô cùng vĩ đại, lâu dài, khó
khăn nhưng hết sức vinh quang mà nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
của giai cấp công nhân chắc chắn sẽ dành được. Chính vì sự nghiệp đó, với tư cách
là người suốt đời phấn đấu hy sinh và cùng nhân dân mình thực hiện từng bước mà
được thế giới công nhận Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn
hóa, của thế giới.. Nhưng chúng ta còn thấy Người là một nhà hiền triết lớn của
thời đại, một lãnh tụ cộng sản lỗi lạc.
Là một nhà nhân văn hành động, Người đã dốc toàn lực cùng với toàn Đảng, toàn
dân tìm con đường cụ thể đề ra những mục tiêu và biện pháp cụ thể hết sức thiết
thực để thực hiện công cuộc giải phóng. Tự khẳng định mang tính chất phát hiện là
chỉ có con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức, và nói rộng ra là giải phóng
được xã hội và con người, Hồ Chí Minh trở thành một kiến trúc sư của cách mạng
Việt Nam, đã thiết kế và chỉ đạo công cuộc giải phóng ấy. Mô hình và tiến trình về
đại thể là đi qua cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa; thực hiện dân chủ mới đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Toàn bộ những nội dung và chỉ đạo cụ thể phải phù hợp với quy luật tiến hóa, xu
hướng thời đại và đặc điểm của đất nước trong từng thời kỳ. Hồ Chí Minh thựcsự
là một nhà nhân văn hiện thực, một nhà cách mạng nhân văn triệt để. Người tránh
được các ảo tưởng trong các tư tưởng tôn giáo, tính không triệt để và hẹp hòi trong
các tư tưởng nhân văn trong lịch sử cổ đại và cận đại (chẳng hạn chủ nghĩa nhân
văn thời phục hưng, chủ nghĩa nhân văn Khổng giáo). Nghiên cứu toàn bộ sự
nghiệp, các trước tác và Di chúc của Người, có lẽ không cần nêu dẫn chứng ở đây,
chúng ta đều thấy rõ điều đó. Con đường của Người, sự nghiệp và tư tưởng của
Người đã và đang được thực hiện là thể hiện sinh động, lôgích của tiến trình hành
động của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh và trình bày cuối cùng là: Chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh tiếp tục đặt cơ sở, một sự gợi mở đầy sáng tạo để xây dựng một triết học
nhân văn hiện đại. Nói cách khác, đó là chủ nghĩa duy vật nhân văn trong quan hệ
thống nhất và là một sự tiếp tục nhất quán của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật nhân văn là một triết học toàn diện về con
người và sự nghiệp giải phóng con người. Bộ phận mới đó, hình thái mới đó của
triết học Mác hiện đại có vị trí khá cơ bản trong hệ thống triết học do Mác sáng
lập. Chủ nghĩa duy vật nhân văn khắc phục được thiếu sót duy tâm của chủ nghĩa
nhân bản Phơbách cũng như trong các tôn giáo và trong triết học tư sản hiện đại;
đồng thời khắc phục được quan niệm duy vật thô thiển, tầm thường, máy móc hoặc
quan niệm duy lý hoặc duy tình về vấn đề con người và sự nghiệp giải phóng con
người.
Không chỉ là một vài vấn đề triết học về con người được trình bày trong các giáo
trình triết học hiện nay mà vấn đề là phải được xây dựng và trình bày thành một hệ
thống triết học về con người với tư cách chủ nghĩa duy vật nhân văn, một triết học
tương đối độc lập. Đặt vấn đề như vậy chúng ta mới có điều kiện kế thừa tất cả
những giá trị triết học nhân văn trong lịch sử, triết học về đời sống, và khoa học
nhân dạng, đồng thời phát triển, bổ sung mới dựa trên các thành tự khoa học hiện
đại như cận sinh học, cận tâm lý học và từ thực tiễn của những cuộc đấu tranh vì
hòa bình công bằng, an toàn sinh thái và tiến bộ xã hội trên thế giới hiện nay, để
làm sáng tỏ hơn nữa tầm triết học về vấn đề con người. Tại sao không? Có thể nói
rằng những vấn đề triết học và thế giới vật chất, về xã hội loài người đã được căn
bản giải quyết thông qua triết học Mác-Lênin. Nhưng những vấn đề triết học về
con người, dù có một số công trình nghiên cứu nhưng còn là một khoảng trống khó
khăn và chưa trở thành một triết học thật sự (nhìn vào các giáo trình triết học hiện
nay chúng ta càng nhận thấy điều đó). Triết học nhân văn hiện đại dựa trên nguyên
lý Thiên - Địa - Nhân hợp nhất, con người là tiểu vũ trụ, sánh ngang với trời đất;
dựa trên quan điểm của Mác về con người thực tiễn và sự nghiệp giải phóng con
người và cũng dựa trên xu hướng chủ đạo của thời đại ngày nay là xu hướng văn
hóa và nhân văn.
Triết học nhân văn nói trên có đối tượng nghiên cứu nguồn gốc, cấu trúc, bản chất
vai trò và số phận của con người; những động lực, những điều kiện hình thành và
phát triển con người cũng như sự nghiệp giải phóng con người một cách toàn diện
và triệt để. Chủ nghĩa duy vật nhân văn với ý tưởng vừa đặt ra và nêu tóm tắt ở
trên, chúng tôi đã có dịp trình bày trên tạp chí lý luận của Đảng như là tạp chí
Cộng sản, tạp chí Sinh hoạt lý luận và ở một Hội thảo khoa học trong những năm
gần đây (Tạp chí Cộng sản, năm 1994; Tạp chí Sinh hoạt lý luận năm 1992, 1995,
1998; Hội thảo của Học viện Nguyễn Ái Quốc năm 1992) . Muốn hiểu được chủ
nghĩa nhân văn nói chung và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng một cách
có hệ thống, khoa học phải đặt nó trên một cơ sở triết học trực tiếp. Cơ sở triết học
trực tiếp đó là chủ nghĩa duy vật nhân văn. Triết học nhân văn này cần phải được
tiếp tục xây dựng, làm cơ sở thế giới quan, phương pháp luận cho các khoa học
nhân văn, các vấn đề con người và văn hóa, sự nghiệp và xây dựng phát triển chủ
nghĩa xã hội do con người và vì con người trước hết ở Việt Nam.
Trở lại Di chúc Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh mà nội dung bao trùm và
cốt lõi là chủ nghĩa nhân văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong hành động như
những giá trị bền vững, tiếp tục thúc giục, soi sáng con đường cách mạng Việt
Nam. Chủ nghĩa nhân văn ấy có giá trị nhân loại hết sức hấp dẫn mà nhiều nhà tư
tưởng và chính khách đã đánh giá. Chúng tôi nghĩ rằng cần tiếp tục nghiên cứu và
phát triển chủ nghĩa nhân văn ấy ở tầm triết học, nghĩa là tầm triệt để nhất để thấy
cả nền móng của một ngôi nhà, phần chìm của một tảng băng, gốc của một cây đại
thụ. Mô tả về chi tiết, những biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh làm
cho nó trở nên sinh động và cụ thể là hết sức cần thiết. Nhiều bài viết đã biểu đạt
khá sinh động và có cách tiếp cận khá thú vị về vấn đề này trên các công trình
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh nhất là tư tưởng về văn hóa đã được công bố
gần đây. Trân trọng và kế thừa sự nghiên cứu ấy. chúng tôi muốn nghiên cứu về lô
gích của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh; đồng thời muốn đặt ra tình huống của
sự xuất hiện triết học nhân văn hiện đại và suy nghĩ về cách xây dựng triết học ấy.
Thế giới còn đổi thay nhưng chủ nghĩa nhân văn cách mạng Hồ Chí Minh mãi mãi
soi sáng con đường cách mạng chúng ta đi.
2- Hệ thống phạm trù trong tư tưởng triết học nhân văn Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa nhân văn hành động trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ đề còn mới mẻ,
chưa được nghiên cứu theo chiều sâu ở giác độ triết học. Sau đây xin trình bày một
số suy nghĩ khái quát về mặt phương pháp luận - mặt lô gích của tư duy và tư
tưởng nên không đi vào chi tiết.
Trong các tư tưởng cấu thành học thuyết Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống
(gồm tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức, tư tưởng kinh tế...), thì nền tảng, tinh
hoa, sợi chỉ đỏ xuyên suốt, kết dính tất cả là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh và
theo tôi, đó là "chủ thuyết" triết học của Người (mặc dù Người không có ý định lập
thuyết ). Mà về mặt chính trị là thực hành một xã hội, xã hội chủ nghĩa nhân văn.
Tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh có chiều sâu là chủ nghĩa duy vật nhân văn.
Đó là một triết lý, một triết học về sự phát triển xã hội theo mục tiêu độc lập dân
tộc và hạnh phúc của nhân dân.
Chúng ta đã từng biết đến triết học duy vật, triết học biện chứng, trí tuệ và văn hóa
nhân loại, cũng như dân tộc với xu hướng cơ bản của thời đại đang làm lộ ra, hé
mở đích thực một triết học nhân văn. Có thể lúc đầu là những ý tưởng, những tư
tưỏng, lẫn vào trong chính trị, hòa nhập vào văn hóa, trong nhiều trường hợp như ở
tư tưởng Hồ Chí Minh cũng vậy.
Đã đến lúc cần xây dựng lý thuyết nhân văn, phạm trù và nguyên lý nhân văn với
tư cách đặt nền móng cho một triết học nhân văn. Đó là triết học thống nhất trong
nó ba phạm trù truyền thống chân - thiện –ích- mỹ được cụ thể hóa thành những
phạm trù nhân sinh độc đáo có tính thời đại. Và từ đó có lẽ gọi là triết học nhân
văn tổng quát hơn, rộng hơn, khái niệm nhân đạo hay nhân bản. Và tất nhiên không
phải là nhân bản duy tâm như Phơbách.
Triết học nhân văn là thực chất của triết học về bản chất con người và sự nghiệp
giải phóng con người. Đó là chủ nghĩa duy vật nhân văn, bắt nguồn từ chủ nghĩa
duy vật lịch sử, duy vật thực tiễn của Mác, nhưng dần dần sẽ trở thành một bộ
phận cơ bản cùng với chủ nghĩa duy vật lịch sử tạo thành triết học Mác hiện đại.
Theo dõi thành quả nghiên cứu hiện nay, ta càng rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh là
một bộ phận mới, một trình độ mới của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân văn Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là gạch nối, hội tụ - cộng sinh trí tuệ văn hóa Đông,
Tây, kim cổ, Việt Nam và thời đại trong đó hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa xã hội khoa học. Lấy nguyên lý giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào làm
điểm xuất phát nhưng lại gắn chặt với nguyên lý giải phóng con người, giải phóng
giai cấp trong chủ nghĩa Mác-Lênin; nguyên lý và phạm trù nhân - nghĩa, kiêm ái ở
phương đông, tư tưởng yêu nước Việt Nam; lòng từ bi của đạo Phật, lòng bác ái
của đạo Thiên Chúa của Giêsu; phạm trù bình đẳng, tự do, bác ái, trong ngọn cờ
cách mạng tư sản, tư tưởng nhân quyền và dân chủ Tây phương... trên lập trường
mới. Hồ Chí Minh không những tích hợp, lựa chọn mà còn là sáng tạo cho riêng
mình, cho Việt Nam đương đại hệ phạm trù, nguyên lý, tư tưởng triết học (dù
người không có ý định làm triết gia). Đó là chủ nghĩa nhân văn Việt Nam xã hội
chủ nghĩa mà hệ thống của nó thể hiện trong các mệnh đề rất cơ bản.
Độc lập - tự do - hòa bình - thống nhất - đoàn kết - hữu nghị - giàu mạnh - dân chủ
- công bằng - ấm no - hạnh phúc- tiến bộ -văn minh.
Môi trường thực hiện trước hết trước hết là ở Việt Nam, nhưng lại có ý nghĩa phổ
quát toàn cầu.
Đó là lý tưởng nhân văn và hiện thực cuộc đời mà Người theo đuổi. Hạt nhân của
tư tưởng nhân văn đó như ta đã biết là "Độc lập - Tự do - Ấm no - Hạnh phúc"
được ghi dưới tiền đề Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cần nghiên cứu có hệ thống
những phạm trù, nhưng tư tưởng nhân văn nói trên, sắp xếp thành hệ thống. Nhưng
dù sao cũng khẳng định được rằng yêu nước, thương dân; cứu nước, cứu dân, độc
lập dân tộc là phạm trù xuất phát cơ bản và rất mới của Người. Những phạm trù
cao nhất là hạnh phúc và tiến bộ. Có thể xếp các phạm trù trên thành từng cặp theo
hệ thống thứ bậc và mạng lưới, tức là theo lô gích của tư duy và tư tưởng:
Độc lập - Tự do; Hòa bình - Thống nhất; Dân giàu - Nước mạnh; Dân chủ - Công
bằng;
Đoàn kết - Hữu nghị; Văn minh - Tiến bộ; Ấm no - Hạnh phúc; Nói và Làm…
Đó là hệ thống phạm trù kế thừa nền văn minh và văn hóa nhân loại nhưng lại
mang nội dung dân tộc được ra đời trong một hoàn cảnh cụ thể Việt Nam mà rất
nhân loại. Những phạm trù này đã làm rõ các khía cạng phong phú trong bản chất
con người mà bao trùm là bản chất nhân văn. Mô hình và tiến trình thực hiện tư
tưởng nhân văn đó là thông qua cách mạng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội
chủ nghĩa để tiến lên cho ngoài xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là con người hành động, con người cách
mạng, không chỉ là cộng đồng, đồng bào mà là con người cá nhân mà không quên
con người xã hội, dân tộc và con người giai cấp. Không chỉ là con người chính trị,
con người văn hóa mà còn là con người đạo đức. Trong con người toàn diện ấy nổi
lên là con người nhân văn, cả trong cuộc đời và sự nghiệp của Người. Và đó cũng
là từ con người thực tiễn của Mác. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất hiện
thực - cụ thể. Con người trí tuệ, con người lý trí, con người tình cảm, con người
hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về con người nhân văn - hiện thực
và hành động - tự giải phóng. Con người đó là cá nhân, tập thể, nhân dân và nhân
loại mà Người hằng yêu mến, quí trọng (Xem thêm: PGS.TS.Thành Duy:Tư tưởng
Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện,
- Xem thêm -