Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
CHUYÊN ĐỀ
CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Học Viên: NGUYỄN THÀNH KHOA
Lớp: Cao học - Ngân hàng 4 ngày 1 - K17.
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
1
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY DOANH NGHI ỆP:
1.1/ Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dụng:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử
dụng.
- Sự chuyển nhượng này có thời hạn.
- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
1.2/Phân loại tín dụng ngân hàng:
Tín dụng cho vay tồn tại dưới rất nhiều hình thức, nhiều tên gọi. Tuy nhiên,
căn cứ vào một số các tiêu thức khác nhau để phân chia tín dụng ngân hàng. Dưới
đây là một số cách phân chia mà Ngân hàng thường sử dụng khi phân tích và đánh
giá.
1.2.1). Phân loại theo thời hạn tín dụng.
Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân làm 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ
sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, nó có thể được vay cho
những sinh hoạt cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-3 năm. loại tín dụng
này thường dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và biến đổi kỹ thuật,
mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dung có thời gian từ 3 năm trở lên. Loại tín
dụng này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: Đầu tư xây dựng các xí
nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy
mô lớn
- Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một
phần bổ sung cho vốn lưu động.
1.2.2). Phân loại theo mục đích:
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
2
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
Theo tiêu thức này thì tín dụng ngân hàng được phân chia rất đa dạng và phong
phú:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
- Cho vay Nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, con giống, lao động, ...
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay Ngân hàng còn cho vay để trang trải các
khoản chi phí thông thường của đời sống thông dụng dưới tên gọi là tín dụng tiêu
dùng và phát hành thẻ tín dụng là một ví dụ.
- Thuê mua và các loại tín dụng khác.
1.2.3). Phân loại theo căn cứ đảm bảo.
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối vói những
khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có
hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không đòi hỏi nguồn thu nợ bổ xung.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được Ngân hàng cung cấp với điều
kiện phải có tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách
hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm.
Sự bảo đảm này căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ xung
cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền vay trong trường
hợp người vay không có khả năng trả nợ.
1.2.4). Phân loại theo đối tượng tín dụng
Theo tiêu thức này thì tín dụng được chia làm 2 loại
- Tín dụng lưu động: loại nào được cấp phát để hình thành vốn lưu động của
các tổ chức kinh tế như cho vay để dự trữ hàng hoá đối với xí nghiệp, thương
nghiệp, bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời.
* Loại này được chia làm 2 loại:
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
3
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
+ Cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất.
+ Cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ
phiếu, với thời hạn cho vay là ngắn hạn.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp phát để hình thành tài sản
cố định. Loại này thường được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi
mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các công trình mới. Thời hạn cho vay đối
với loại này là trung và dài hạn.
1.3/ Khái niệm về cho vay:
- Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng gioa cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả nợ gốc và lãi vay. Thời hạn nhất định ở đây
chính là thời hạn cho vay.
- Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. DỰc vào thời hạn,
cho vay có thể chia thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
+ Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
+ Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60
tháng.
+ Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn từ 60 tháng trở lên.
- Nguyên tắc vay vốn:
+ Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
+ Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng.
- Điều kiện vay:
+ Khách hàng phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và
chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
+ Có mục đích vay vốn hợp pháp.
+ Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
+ Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ
và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.4/ Các phương thức cho vay đối với doanh nghiệ p: Cho vay ngắn hạn, cho
vay trung dài hạn.
- Các phương thức cho vay ngắn hạn:
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
4
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
+ Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng thương
mại thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và k kết hợp đồng tín dụng.
+ Ưu điểm: Ngân hàng chủ động sử dụng vốn, thu lãi cao.
+ Nhược điểm: Thủ tục phức tạp, tốn chi phí, thời gian, khách hàng không
huc động được nguồn vốn, hiệu quả sử dụng vốn vay không cao do vào một thời
điểm khách hàng vừa có số nợ trên tài khoản cho vay vừa có số dư có trên tài khoản
tiền gửi.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng thương mại và khách hàng xác
định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoản thời gian nhất
định.
+ Ưu điểm: Thủ tục đơn giản, khách hàng chủ động được nguồn vốn vay,
lãi vay trả cho ngân hàng thấp.
+ Nhược điểm: Ngân hàng dễ bị động vốn kinh doanh, thu nhập lãi cho
vay thấp.
- Chiết khấu chứng từ có giá: là một hình thức cấp tín dụng theo đó các tổ
chức tín dụng nhận các chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng
mệnh giá của chứng từ nhận chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân
hàng được hưởng. Đặc điểm của chiết khấu chứng từ có giá:
+ Không cần tài sản thế chấp mà sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu
làm đảm bảo tín dụng.
+ Ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ vào mệnh
giá.
+ Quy trình xem xét cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn so với
cho vay.
- Các phương thức cho vay trung dài hạn:
+ Cho vay mua sắm máy móc thiết bị.
+ Cho vay đầu tư dự án.
1.5/ Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là trong cơ chế thị
trường hiện nay. Điều đó được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
* Tín dụng Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử
dụng trong tất cả các thành phần kinh tế để cho các doanh nghiệp và cá nhân vay
vốn góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tín
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
5
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
dụng Ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn và người
thiếu vốn. Nó đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Trong quá trình hoạt động đó, Ngân hàng thu được lợi tức cho vay để duy trì
và phát triển hoạt động của chính Ngân hàng.
* Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao
lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước
luôn phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế thế giới. Sự hợp tác hoá bình đẳng
cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển mạnh
mẽ. Trong đó, đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là
hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và phổ biến nhất giữa các nước. Vốn là
nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng trên thực tế
không phải một tổ chức kinh tế nào, một nhà kinh doanh nào cũng có đủ vốn để hoạt
động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động
tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập
khẩu hàng hoá.
* Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Tín dụng
Ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông
nghiệp - dịch vụ. Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ tái mở rộng
hoạt động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu từ tiền và kết thúc bằng tiền. Để tăng nhanh
vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp
như cải tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới. Tất cả những công việc đó đòi hỏi
phải có nhiều vốn và phải kịp thời. Tín dụng Ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho
các nhu cầu đó. Mặt khác, vốn Ngân hàng cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng
việc cho vay với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn quy định. Do đó,
các nhà doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng
nhanh vòng quay của vốn, trả nợ vay đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Thực hiện được việc
này trong nền kinh tế thị trường là cuộc vật lộn, cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, vì
thế tín dụng góp phần làm cho nền kinh tế hàng hoá phát triển ngày một cao.
Trong nền kinh tế thị trường, sự hoạt động của thị trường vốn, thị trường tiền
tệ là các mặt hoạt động liên quan đến quan hệ tín dụng Ngân hàng và nhờ có hoạt
động này mà việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu mới có
môi trường hoạt động.
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
6
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với
Ngân hàng mà còn với cả xã hôị. Tuy nhiên để tín dụng Ngân hàng phát huy được
hết vai trò của nó thì các nhà quản lý Ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng
phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện
thuận lợi cho cả người vay và người cho vay.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CHO VAY VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ CÁC
DOANH NGHIỆP NĂM 2008.
2.1/ Thực trạng cho vay doanh nghiệp năm 2008:
- Theo số liệu của Ngân hàng Nhà Nước đến ngày 30/10/2008, tổng dư nợ cho
vay DN nhỏ và vừa là 263.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đánh giá chung trong những
tháng đầu năm 2008 do mục tiêu kiềm chế lạm phát của Chính Phủ, các ngân hàng
thương mại hạn chế cho vay nên hầu hết các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Tình hình kinh tế khó khăn, nhiều DN không
chống đỡ được nên buộc phải thu hẹp sản xuất và giảm dần dư nợ. Do doanh thu
giảm trong khi chi phí sản xuất và lãi suất vay vốn tăng cao, một số DN đã không trả
được nợ đúng hạn dẫn đến phát sinh nợ quá hạn.
- Kết quả khảo sát của Phòng thương mại và công nghiệp (VCCI), với mặt
bằng lãi suất cao 21% , có 73% các DN được khảo sát gặp khó khăn trong việc tiếp
cận vốn vay cho hoạt động kinh doanh sản xuất kinh doanh.
Những tháng cuối năm 2008 lãi s uất cho vay có giảm và cuối năm 2008, lãi suất cơ
bản chỉ còn 8,5%/năm nhưng việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều
khó khăn.
* Những nguyên nhân dẫn đến việc khó tiếp cận vốn vay ngân hàng của các
doanh nghiệp có thể kể đến:
- Từ phía ngân hàng: mức lãi s uất cho vay cao, tháng 05/2008 mức lãi s uất cho
vay các doanh nghiệp là 18%/năm đến tháng 06/2008 mức lãi s uất cho vay đối với
các doanh nghiệp đạt đỉnh điểm là là 21%/năm. Với mức lãi suất này nếu vay tiền
ngân hàng các doanh nghiệp khó có thể có được lợi nhuận. Những doanh nghiệp vay
được thì thường là những doanh nghiệp đã có quan hệ trước với ngân hàng, hoặc
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
7
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
thuộc diện có kim ngạch xuất khẩu khá, thị trường ổn định và sử dụng trọn gói dịch
vụ của NHTM đó như cam kết chiết khấu bộ chứng từ, mua bán ngoại tệ, thanh toán
quốc tế qua ngân hàng...
- Mặt khác thủ tục giải quyết hồ sơ vay ở các ngân hàng vẫn còn chậm và phức
tạp, chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.
- Từ phía doanh nghiệp: hạn chế về nhân lực và quản lý, chưa minh bạch tài
chính, vốn tự có thấp, khả năng tiếp cận thông tin và thị trường hạn chế... là những
nguyên nhân chính khiến ngân hàng e ngại khi cho vay doanh nghiệp vay. DN
thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính đối phó với cơ quan thuế, việc hạch
toán kế toán nhiều khi chưa chính xác, không đúng tình hình thực tế, thêm vào đó
hoạt động kinh doanh của họ nhiều khi không có hợp đồng kinh tế, hoá đơn chứng
từ và các căn cứ khác để chứng minh mục đích sử dụng vốn vay, chứng minh tài
chính với ngân hàng.
- Mặt khác, vốn tự có tham gia vào dự án, phương án của doanh nghiệp thấp
nếu NH cho vay, rủi ro với NH cao, do đó NH yêu cầu các điều kiện về tài sản bảo
đảm nghiêm ngặt hơn, nhưng phần lớn các DN lại thiếu TSBĐ. Thủ tục về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hay tài sản gắn liền với đất cho DN gặp nhiều khó
khăn, thời gian chờ rất lâu, đặc biệt khi DN chuyển đổi hình thức. DN thường dùng
TSBĐ cho khoản vay là tài sản cá nhân, trang thiết bị của chính DN. Tài sản cá nhân
thường có giá trị thấp nên không vay được nhiều, tài s ản là trang thiết bị nên phần
lớn NH ngại vì khó kiểm soát.
2.2/ Tình hình kinh tế của các doanh nghiệp năm 2008:
- Những tháng đầu năm 2008, các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng, do chính sách thắt chặt tiền tệ của
Chính Phủ nhằm kiềm chế lạm phát. Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp bị thiếu
vốn trong sản xuất kinh doanh, dẫn đến nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản
xuất kinh doanh. Các lĩnh vực kinh doanh sắt thép, ôtô, bất động sản, xây dựng cơ
bản, chứng khoán, cao su, chăn nuôi lợn, kinh doanh thức ăn chăn nuôi, kinh doanh
một số loại vật liệu xây dựng khác… hầu như không vay được vốn do nhiều NHTM
có chủ trương rất hạn chế cho vay.
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
8
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
- Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu cán bộ kỹ thuật, thợ lành nghề
chuyên môn cao, các nhà quản lý chuyên nghiệp làm hạn chế việc tiếp cận và áp
dụng tiến bộ khoa học kỷ thuật tiên tiến vào sản xuất cũng như hoạch định chiến
lược phát triển, mở rộng thị trường. Nguyên ngân được xác định là chất lượng các
cơ sở đào tạo còn thấp, trang thiết bị thiếu. Nhiều DN coi đào tạo là chi phí rất ít DN
có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực một cách chính thức, đặc biệt nâng cao năng
lực chuyên môn cho những cán bộ chủ chốt có ảnh hưởng đến năng lực quản lý điều hành và khả năng cạnh tranh của DN.
- Sở Khoa học và công nghệ TP.HCM đã tiến hành một cuộc khảo sát về trình
độ công nghệ của các doanh nghiệp tại 429 doanh nghiệp đang hoạt động tại 11 khu
chế xuất - khu công nghiệp. Theo đó, chỉ có 1% doanh nghiệp - tương ứng ba doanh
nghiệp - đạt trình độ công nghệ ở mức tiên tiến. Ngoài ra số doanh nghiệp đạt mức
khá cũng chỉ 4%, trung bình khá 8%, trung bình 36%, còn lại đến 51% ở mức yếu.
Kết quả khảo sát cũng chỉ ra có đến 25% doanh nghiệp “có quy trình sản xuất có
khả năng gây ô nhiễm môi trường”, đồng thời một số rất lớn doanh nghiệp không xử
lý chất thải lỏng, khí nhưng vẫn thải ra môi trường. Chỉ có 30% doanh nghiệp
nghiêm túc thực hiện đánh giá tác động môi trường hàng năm.
- Hiện nay, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam khoảng 350.000
doanh nghiệp. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% tổng số doanh
nghiệp đang đứng trước nguy cơ phá sản, 60% số doanh nghiệp chịu tác động của
khó khăn kinh tế, khiến sản xuất, kinh doanh bị sút kém.
- Những tháng cuối năm 2008, tuy lãi s uất cho vay ở các ngân hàng đã giảm
nhưng các doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận được nguồn vốn vay. Vấn đề khó khăn
hiện nay của các doanh nghiệp là đầu ra cho sản phẩm. Khi không có phương án
kinh doanh khả thi, thị trường đầu ra đảm bảo thì các ngân hàng thương mại rất khó
có thể cho daonh nghiệp vay vốn, vì rủi ro tín dụng sẽ cao. Với tình hình khó khăn
chung của nền kinh tế trên toàn cầu thì việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm
đầu ra của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Bước vào quý IV/2008, khi mà
lạm phát bắt đầu có dấu hiệu chững lại, Hiệp hội DN nhỏ và vừa VN công bố số liệu
khảo sát cho thấy có tới 80% số thành viên của hiệp hội gặp khó khăn, trong đó 60%
DN làm ăn kém và khoảng 20% DN khó có thể tiếp tục hoạt động. Năm 2009, kinh
tế VN, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ phải đối mặt với những khó khăn
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
9
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
còn trầm trọng hơn năm 2008, sẽ có nhiều DN phải phá sản. Tác động của suy thoái
kinh tế thế giới và suy giảm kinh tế trong nước đối với DN còn tiêu cực hơn tác
động của lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát như thắt chặt tín dụng hay
đầu tư. Khi nền kinh tế suy giảm, sức tiêu thụ thấp thì rất nhiều DN sẽ gặp khó khăn,
không chỉ các DN nhỏ và vừa mà cả các DN lớn cũng gặp khó.
PHẦN 3: GIẢI PHÁP VÀ KI ẾN NGHỊ:
3.1/ Đối tượng hướng tới cho vay kích cầu:
- Trước tình hình khó khăn chung của nền kinh tế, Chính Phủ đã có gói kích
cầu 17.000 tỷ đồng trong năm 2009, gói kích cầu này cần hướng tới trước hết là các
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiện nay sức tiêu dùng của thị
trường đang giảm, do đó cần phải kích cầu vào các doanh nghiệp, bằng cách giảm
các chi phí cấu thành giá như giảm giá điện, giá cước viễn thông và vận tải… nhằm
tạo ra cung hàng hóa trên thị trường với giá thấp, từ đó kích thích tăng tiêu dùng
trong xã hội. Kích cầu phải tập trung vào những lĩnh vực tạo ra nhiều công ăn việc
làm, kích thích luân chuyển hàng hóa để đẩy mạnh tiêu dùng. Những lĩnh vực cần
phải ưu tiên là sửa chữa nhà cửa và sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như
thực phẩm, quần áo…
- Hiện tại nguồn vốn của các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, trong khi
việc tiếp cận với vốn vay ngân hàng còn khó khăn ở khâu thủ tục, cho dù lãi s uất
ngân hàng đã bước đầu tạo được thuận lợi.
- Mong mỏi lớn nhất của doanh nghiệp bất động sản trong thời điểm này là
giãn nợ và Ngân hàng cần có chính sách cho vay để doanh nghiệp thực hiện cá dự
án xây dựng nhà chung cư cho người có thu nhập thấp. Theo khảo sát thị trường
nhận thấy, nhu cầu về nhà ở giá thấp, có mức giá dưới 1 tỷ đồng/căn hiện là cao.
Mặt khác, giá nguyên vật liệu xây dựng hiện nay đang giảm giá, nên những dự án
xây dựng nhà cho người có thu nhập thấp là khả quan.
- Ngân hàng cần hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp có dự án, phương án kinh
doanh tốt, có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn nhanh. Để kích cầu đầu tư thì phải
hạ lãi suất nhằm hỗ trợ chi phí cho doanh nghiệp, nhưng không phải vì thế mà doanh
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
10
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
nghiệp sẽ được vay thoải mái hay quá dễ dàng. Cũng không nên khuyến khích đầu
tư theo bề rộng, tràn lan như trước, mà nên tập trung vào các dự án trọng điểm, có
hiệu quả. Các ngân hàng có thể lên kế hoạch cho vay các mảng thị trường mà lâu
nay thường bỏ trống, như nhà ở, dịch vụ cho người nước ngoài, học hành, chữa
bệnh, thậm chí cả tiêu xài s ang như mua ô tô, máy bay... Không nên cấm người dân
tiêu xài s ang, mà tốt nhất nên để họ tiêu dùng theo khả năng để đảm bảo cơ cấu tiêu
dùng trong một nền kinh tế mở.
- Một đối tượng cho vay khác mà các ngân hàng cần phải quan tâm là cá nhân
vay vốn với mục đích tiêu dùng. Muốn kích cầu thành công thì cần phải tăng sức
mua hàng hóa, sức tiêu dùng của người dân, do đó ngân hàng cần tăng cường cho
vay tiêu dùng, với phương thức cho vay tín chấp, nguồn trả nợ từ thu nhập của
khách hàng. Có vậy sẽ làm tăng mức tiêu dùng của người dân. Đối tượng cho vay
tiêu dùng là tất cả người dân mà họ có thể chứng minh nguồn thu nhập đủ khả năng
để trả nợ, những trường hợp này các ngân hàng cần mạnh dạng cho vay tín chấp
không cần tài sản đảm bảo. Bởi những người dân có nhu cầu vay tiêu dùng thường
không có tài sản đảm bảo theo yêu cầu của ngân hàng.
3.2/ Giải pháp cho năm 2009:
- Năm 2009, kinh tế VN được dự báo là còn rất nhiều khó khăn, thách thức,
phải đương đầu với suy giảm tăng trưởng kinh tế. Nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp tồn tại và phát triển thì các ngân hàng và doanh nghiệp cần bắt tay, hợp tác
với nhau chặt chẻ hơn nữa.
* Đối với ngân hàng:
- Trước hết, xem xét điều chỉnh giảm lãi s uất đối với các hợp đồng tín dụng đã
ký kết với lãi suất cao trước đây với các doanh nghiệp.
- Tiếp tục xem xét hạ lãi suất cho vay thêm nữa nhằm góp phần cùng với doanh
nghiệp hạ giá thành đầu vào sản phẩm.
- Các ngân hàng cần quan tâm hơn đến mảng cho vay tiêu dùng, mạnh dạng
cho vay tín chấp đối với các cá nhân có nguồn thu nhập ổn định, đảm bảo khả năng
trả nợ. Đưa ra các chương trình khuyến mãi hấp dẫn, lãi suất hấp dẫn nhằm thu hút
các đối tường có nhu cầu vay để tiêu dùng. Cần xem xét mức thu nhập và khả năng
trả nợ của khách hàng để quyết định mức cho vay phù hợp, không nên có những quy
định cứng nhắc về mức cho vay tối đa đối với khách hàng tiêu dùng cá nhân.
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
11
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
- Các ngân hàng cần giảm bớt những phiền hà, rắc rối trong khâu giải quyết hồ
sơ cho vay, đảm bảo nhanh chóng, kịp thời, chính xác, an toàn không rơi vào tình
trạng “hành” doanh nghiệp, người đi vay.
- Riêng đối với các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản các ngân hàng cần
xem xét giãn nợ cho các đối tượng này. Vì thị trường bất động sản sang năm 2009
vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi, nếu các ngân hàng thực hiện siết nợ đối với các
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản bằng cách phát mãi tài sản thế chấp thì sẽ
càng làm cho thị trường bất động sản có nhiều nguy cơ sụp đỗ hơn nữa.
- Các ngân hàng cần chú trọng và nâng cao hơn nữa chất lượng của dịch vụ tư
vấn tài chính, đặc biệt là tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp, nghiệp vụ thẩm định
phương án kinh doanh, dự án đầu tư. Ngân hàng có thể giúp cho các doanh nghiệp
có thể hoạch định được chính sách sử dụng vốn hiệu quả, phương án kinh doanh
tốt… từ đó đem lại kết quả kinh doanh tốt cho doanh nghiệp, cũng như đem lại lợi
nhuận tốt cho ngân hàng.
- Quá trình kiểm tra sau ở các ngân hàng cần phải được thực hiện một cách
nghiêm túc, quá trình này giúp cho ngân hàng có thể kịp thời giúp doanh nghiệp,
người vay giải quyết những khó khăn nảy sinh trong quá trình sử dụng vốn, từ đó
hạn chế thấp nhất khả năng không hoàn trả nợ vay đúng hạn của người đi vay.
- Các ngân hàng cần chủ động tìm kiếm khách hàng, không ngồi nhà chờ người
vay đến hỏi mà phải tăng cường đi tiếp thị các chương trình vay của ngân hàng, tăng
cường tìm kiếm khách hàng.
* Đối với doanh nghiệp:
- Trước dự báo về những khó khăn trong năm 2009, các doanh nghiệp cần phải
tự nổ lực để vượt qua bằnh cách tự hoàn thiện chính mình.
- Các doanh nghiệp cần phải chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Để sản phẩm được thị trường chấp nhận thì chất lượng sản phẩm phải được đặt lên
hàng đầu. Mà muốn có chất lượng sản phẩm tốt thì các doanh nghiệp phải đổi mới
công nghệ, thay đổi mẫu mã, thích ứng thị trường để đáp ứng nhu cầu người tiêu
dùng. Cần thực hiện đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, đặc biệt nâng cao năng lực
chuyên môn cho những cán bộ chủ chốt có ảnh hưởng đến năng lực quản lý - điều
hành và khả năng cạnh tranh của DN.
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
12
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
- Các doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ kế toán thống nhất, theo đúng
các chuẩn mực kế toán đã được quy định. Minh bạch, rõ ràng về mặt tài chính, các
báo cáo tài chính, phương án kinh doanh phải được thiết lập trung thực nhằm thuyết
phục được NH về hiệu quả kinh doanh một cách rõ ràng những tiêu chí như: khó
khăn và thuận lợi của dự án, chi phí ban đầu, doanh thu, kế hoạch trả nợ... , tạo điều
kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong quá trình tìm hiểu về quá trình, kết quả hoạt
động kinh doanh, phương án sử dụng vốn của doanh nghiệp. Từ đó giúp các ngân
hàng hiểu rõ hơn về doanh nghiệp và có những quyết định tài trợ đúng lúc kịp thời.
- Bên cạnh việc hạ lãi s uất của các ngân hàng nhằm góp phần làm giảm giá
thành đầu vào cho cac doanh nghiệp thì các DN cũng cần phải có hành động “đáp
trả” tương xứng bằng cách cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết trong quá
trình hoạt động của mình.
- Ngoài các giải pháp đối với ngân hàng và doanh nghiệp, thì cần phải có
những hỗ trợ từ phía Chính phủ thông qua các cơ chế, chính sách như: giảm thuế,
chậm nộp thuế, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng…
* Như vậy sang năm 2009, để giúp đở các doanh nghiệp trong hoạt động sản
xuất kinh doanh nhất thiết phải có sự phối hợp tổng thể các giải pháp từ nhiều phía
ngân hàng, doanh nghiệp và Chính Phủ, nhưng quan trọng nhất vẫn là các doanh
nghiệp phải tự đổi mới chính mình, tự nâng năng lực cạnh tranh của mình, có như
vậy thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại trong giai đoạn kinh tế khó khăn như hiện
nay và trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản
Thống Kê, Năm 2008.
2/ PGS.TS Lê Văn Tề, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống Kê,
2007.
3/ TS. Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại , Nhà xuất bản Thống kê,
2007.
Website:
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
13
Chuyên đề: Cho vay kích cầu các doanh nghiệp của các NHTM hiện nay
www.v ienkinhte.hochiminhcity.gov.vn.
www.tchdkh.org.vn.
www.vnexpress.net.
www.mofa.gov.vn.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮC:
+ DN: doanh nghiệp.
+ NH: ngân hàng.
+ VN: Việt Nam.
+ TSBĐ : tài sản bảo đảm.
Nguyễn Thành Khoa – Ngân hàng 4 – N gày 1 – K17
14
- Xem thêm -