Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra từ thực tiễn tỉnh quảng nam...

Tài liệu Chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra từ thực tiễn tỉnh quảng nam

.PDF
86
365
110

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN QUANG TRUNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH THANH TRA TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành Mã số : Chính sách công : 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Số liệu trong luận văn hoàn toàn dựa theo số liệu thu thập và điều tra thực tế tại địa phương. Các thông tin trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn tài liệu tham khảo. Tác giả luận văn Trần Quang Trung MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH THANH TRA .............................................. 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của nhân lực ngành thanh tra ...................... 8 1.2. Khái niệm, mục tiêu, chủ thể, giải pháp và công cụ của chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra ......................................................................... 16 1.3. Những yếu tố xã hội tác động đến chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra ........................................................................................................... 26 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH THANH TRA Ở TỈNH QUẢNG NAM ............................. 31 2.1. Hiện trạng chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam ................................................................................................................. 31 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam .................................................................................... 35 CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH THANH TRA TẠI TỈNH QUẢNG NAM ................................... 58 3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam ......................................................... 58 3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam ......................................................................................... 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CB, CC : Cán bộ, công chức HĐND : Hội đồng nhân dân NXB : Nhà xuất bản TW : Trung ương TCCB : Tổ chức cán bộ TTCP : Thanh tra chính phủ TTV : Thanh tra viên TTVC : Thanh tra viên chính TTVCC : Thanh tra viên cao cấp UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu 2.1 2.2 Tên bảng Số lượng nhân lực và công chức được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra của ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam Chất lượng (trình độ) nhân lực ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam, năm 2013 và năm 2016 Trang 36 38 Số liệu kết quả thanh tra hành chính của các cơ quan 2.3 thanh tra nhà nước tại tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 39 – 2016 2.4 2.5 2.6 2.7 Tổng hợp số liệu về tỷ lệ giải quyết khiếu nại giai đoạn 2013 - 2016 Thống kê số liệu kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo giai đoạn 2013 – 2016 Số liệu công tác phòng, chống tham nhũng Kết quả đánh giá nhân lực ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2013 - 2016 40 40 41 48 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bác Hồ từng nói “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Công việc thanh tra là công việc khó khăn vất vả nhưng “Đối với cán bộ, được làm công tác thanh tra là một vinh dự. Vì sao? Vì công tác thanh tra là một công tác quan trọng, Đảng và Chính phủ có tin cậy mới giao cho nhiệm vụ ấy. Có thể nói cán bộ thanh tra là tai mắt của Đảng và Chính phủ, tai mắt có sáng suốt thì người mới sáng suốt”. Do đó, ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý tới việc sử dụng, phát huy vai trò công tác thanh tra. Để “giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của UBND và các cơ quan của Chính phủ…”, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt – một tổ chức tiền thân của hệ thống Thanh tra Chính phủ hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”, đây là quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất sâu sắc, Người đã chỉ rõ vị trí và vai trò đặc biệt của thanh tra trong hoạt động của nhà nước và đời sống xã hội. Người đã ví thanh tra quan trọng như tai mắt của con người - như bộ phận cấu thành cơ thể con người, là phương tiện cực kỳ trọng yếu giúp cho con người nhận thức và phát triển trí tuệ. Cùng với vai trò là “tai mắt của trên”, thanh tra còn là “bạn của dưới”. Điều đó có nghĩa là đối với những người là lãnh đạo quản lý cấp dưới thì thanh tra chính là người bạn giúp mình nhìn thấy, biết được, phát hiện và chỉ cho mình thấy được những việc mình làm đúng, làm tốt để tiếp tục phát huy, những việc làm sai, làm không đầy đủ, làm thiếu trách nhiệm để khắc phục sửa chữa nâng cao năng lực và trách nhiệm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công chức làm công tác thanh tra, Bác dạy rằng: Công chức thanh tra phải có năng lực, kinh nghiệm, uy tín và giàu bản lĩnh. Đồng thời phải cố gắng học tập, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, nghiệp vụ, chuyên môn. Để làm gương cho người ta soi thì công chức thanh tra phải thực sự có tài năng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng. Công tác củng cố tổ chức, đáp ứng đủ số lượng cán bộ 1 làm công tác thanh tra là một yêu cầu quan trọng, tuy nhiên điều quan trọng hơn là phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra. Lựa chọn, bố trí người làm công tác thanh tra đáp ứng được các yêu cầu về phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm là yêu cầu tiên quyết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra. Cùng với quá trình thay đổi cơ cấu tổ chức cũng như tên gọi từ ngày thành lập đến nay thì công tác xây dựng đội ngũ nhân lực ngành thanh tra đã có những chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan điểm tư tưởng, được thể hiện trong cơ chế, chính sách, pháp luật từ khâu tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo và quản lý đã từng bước đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay. Về chất lượng, phần lớn đội ngũ nhân lực hiện đang công tác đã được rèn luyện, thử thách qua quá trình đổi mới, xây dựng đất nước có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Còn đa phần những cán bộ trẻ được đào tạo bài bản về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và có một khoảng thời gian hoạt động thực tiễn nên năng lực của đội ngũ nhân lực từng bước được nâng cao về mọi mặt, góp phần tích cực vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cũng như đổi mới của đất nước trong giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, đội ngũ nhân lực thanh tra còn những tồn tại, hạn chế: Chất lượng đội ngũ nhân lực thanh tra chưa đồng đều, trình độ năng lực thực tế chưa tương xứng với văn bằng. Số nhân lực đào tạo mới có đủ trình độ chuyên môn nhưng lại thiếu kinh nghiệm và ứng xử trong lĩnh vực thanh tra. Trình độ và năng lực của đội ngũ nhân lực thanh tra chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, còn bất cập về nhiều mặt như tri thức và năng lực thực thi nhiệm vụ cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện đại trong công tác còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận nhân lực còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới; tinh thần phục vụ nhân dân chưa cao, số lượng, cơ cấu đội ngũ nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài; tình trạng hẫng hụt giữa các thế hệ công chức còn phổ biến; thiếu đội ngũ nhân lực nòng cốt kế cận có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao; đội ngũ 2 nhân lực thường xuyên có sự thay đổi đặc biệt là thanh tra ở cấp huyện. Chính bởi những lý do đó, mà nhu cầu xây dựng, chỉnh đốn và nâng cao chất lượng và trình độ của đội ngũ nhân lực ngành thanh tra trong thời đại mới là cần thiết, đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng đội ngũ, nhân lực ngành thanh tra vững mạnh, chuyên nghiệp và đó cũng là lý do tôi chọn đề tài “Chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về vấn đề chính sách phát triển nhân lực nói chung và chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra nói riêng là một trong những nội dung có ý nghĩa chiến lược trong công cuộc xây dựng XHCN ở Việt Nam. Đây là những vấn đề thực tiễn lớn đòi hỏi phải giải quyết một cách khoa học, đúng đắn và thận trọng. Trong quá trình nghiên cứu, viết luận văn, Tác giả có tham khảo một số luận văn, sách và công trình nghiên cứu của một số tác giả có nội dung liên quan đến hoạt động, mô hình tổ chức và lịch sử phát triển ngành thanh tra, cụ thể: - Đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm về lịch sử và truyền thống ngành thanh tra Việt Nam (năm 2005) của Viện Khoa học thanh tra thuộc TTCP do TS. Vũ Phạm Quyết Thắng làm chủ nhiệm. Đề tài đã nêu một số vấn đề lý luận chung về lịch sử và truyền thống, những định hướng và quá trình phát triển mang tính truyền thống của ngành thanh tra Việt Nam; qua đó đã đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng ngành thanh tra trong giai đoạn mới. - Lịch sử thanh tra Việt Nam (1945 - 2005): Trần Đức Cường, Nguyễn Văn Nhật, Võ Kim Cương – NXB. Chính trị Quốc gia, 2005. Sách giới thiệu quá trình ra đời, phát triển về tổ chức và những hoạt động, đóng góp chủ yếu của ngành thanh tra qua các giai đoạn từ 1945 đến 2005. - Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại hành chính: Đào tạo đại học Hành chính: Lê Thị Hương (ch.b), Nguyễn Thị Anh Thư, Phan Thị Thanh Thuỷ – NXB. Khoa học và Kỹ thuật, 2011. Sách trình bày hệ thống các quy định pháp luật Việt Nam về thanh tra, hệ thống thanh tra, hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu 3 nại hành chính, đồng thời kết hợp với việc khảo sát, tổng kết thực tiễn hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu nại hành chính. - Một số văn bản pháp luật về công tác thanh tra do Lê Đạo chịu trách nhiệm xuất bảng theo giấy phép xuất bảng số 42/GP-STTTT do Sở Thông tin truyền thông tỉnh Quảng Nam cấp ngày 25/5/2009. Sách gồm các văn bản pháp luật về thanh tra; khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng; công tác tổ chức cán bộ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan thanh tra; tài chính, trang phục cho nhân lực ngành thanh tra. - Nghiệp vụ công tác thanh tra: Chương trình cơ bản: Trần Đức Lượng, Nguyễn Văn Liêm, Ngô Đăng Quynh...; Trần Hậu Khiêm (ch.b). NXB. Giao thông Vận tải, 2007. Sách trình bày những vấn đề chung về thanh tra và khiếu nại, tố cáo cùng một số kiến thức bổ trợ như vận dụng tâm lí học vào hoạt động thanh tra và các vấn đề cơ bản về điều tra hình sự. - Luận Văn Thạc sỹ Quản lý công “Chất lượng Thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam” của Đặng Thị Xuân Lệnh đã nêu những vấn đề lý luận chung và phân tích thực trạng chất lượng Thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam; từ đó đề ra các mục tiêu, quan điểm, đồng thời đưa ra các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng Thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam như nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể trong tỉnh Quảng Nam đối với công tác thanh tra và việc nâng cao chất lượng thanh tra viên; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện các quy chế, quy định về tiêu chuẩn thanh tra viên, các ngạch thanh tra viên; quy tắc về ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ thanh tra, quy trình công tác; thực hiện tốt các nội dung của công tác quản lý nhà nước về cán bộ công chức đối với thanh tra viên. Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công “Hoàn thiện công tác đánh giá công chức” của Đỗ Thu Hương năm 2011 đã hệ thống hóa những vấn đề chung về đánh giá công chức và phân tích thực trạng đánh giá công chức hành chính trong cơ quan nhà nước, từ đó đề xuất 5 giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đánh giá công chức hành chính (hoàn thiện thể chế về đánh giá công chức; xây dựng đội ngũ công 4 chức làm nhiệm vụ đánh giá; nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu; xây dựng công cụ đánh giá; xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá). Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu khác đề cập vấn đề thanh tra, công chức, công vụ như: “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức” do TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên (năm 2005), NXB. Chính trị quốc gia; “Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công”, Luận văn thạc sĩ luật của ThS. Nguyễn Thanh Hải;… Những công trình khoa học trên là nguồn tư liệu tham khảo giúp tác giả hình thành nền tảng lý luận và thực tiễn để tiếp tục nghiên cứu đề tài, luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những vấn đề lý luận về chính sách phát triển nhân lực, thực trạng chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra như: khái niệm, đặc điểm và vai trò của nhân lực ngành thanh tra; mục tiêu, chủ thể, giải pháp và công cụ, những yếu tố xã hội tác động đến chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam. - Khảo sát, đánh giá thực trạng chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam. - Đề xuất quan điểm, mục tiêu, định hướng và các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là Chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra ở tỉnh Quảng Nam. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Nam. - Về thời gian: Khảo sát thực trạng chính sách phát triển nhân lực ngành Thanh tra giai đoạn 2013 - 2016 tại tỉnh Quảng Nam. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn lấy phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, về Nhà nước và pháp luật về thanh tra làm phương pháp luận nghiên cứu. Luận văn còn vận dụng phương pháp luận khoa học chính sách công về đánh giá chính sách phát triển nhân lực, phân tích đánh giá chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra, đánh giá tác động và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập thông tin; Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết về chính sách công. Đánh giá chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp chính sách phát triển nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách phát triển nhân lực đã ban hành. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đặt nền móng bước đầu cho việc đánh giá chính sách phát triển nhân lực của cơ quan Thanh tra tỉnh Quảng Nam giúp cho quá trình hoạch định và thực thi chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra được nhìn nhận một cách khách quan, nhằm đưa ra các biện pháp chính sách hiệu quả trong công cuộc phát triển nhân lực ngành thanh tra trong giai đoạn hội nhập quốc tế. 6 Luận văn cung cấp những tư liệu, kết quả khảo sát thực tế về việc thực thi chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam, qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận khoa học chính sách công. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có cơ cấu gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra. Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Quan điểm, mục tiêu, định hướng và các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam. 7 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH THANH TRA 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của nhân lực ngành thanh tra 1.1.1. Khái niệm nhân lực Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động – con người có sức lao động [9,tr.12]. Nhân lực được hiểu là toàn bộ các khả năng về thể lực và trí lực của con người được vận dụng ra trong quá trình lao động sản xuất. Nó cũng được xem là sức lao động của con người – một nguồn lực quý giá nhất trong các yếu tố của hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Nhân lực của cơ quan, đơn vị bao gồm tất cả những người lao động làm việc trong cơ quan, đơn vị. 1.1.2. Khái niệm ngành thanh tra Ở Việt Nam, từ khi Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, đánh dấu sự ra đời của ngành thanh tra. Tuy nhiên, khi đề cập đến khái niệm ngành thanh tra Việt Nam, có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Có quan điểm cho rằng, thanh tra là một ngành với đầy đủ những đặc trưng cơ bản của nó với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tôn chỉ, mục đích rõ ràng và ngành thanh tra có tính độc lập tương đối trong hoạt động của mình; nhưng có quan điểm cho rằng thanh tra không phải là một ngành, mà thanh tra chỉ là một hoạt động phục vụ công tác quản lý nhà nước và công tác thanh tra gắn liền với công tác quản lý nhà nước, vì vậy thanh tra không có tính độc lập tương đối và không được coi là một ngành. Dù có những quan điểm khác nhau về tính độc lập của công tác thanh tra, có những quan điểm khác nhau về hoạt động thanh tra, nhưng thực tiễn chỉ ra rằng, dù hoạt động thanh tra có những lúc thăng - trầm cùng sự thăng - trầm của cách mạng 8 Việt Nam, nhưng thanh tra luôn được tổ chức chặt chẽ, theo cấp hành chính (chiều dọc), theo ngành, lĩnh vực (chiều ngang) và thanh tra được tổ chức thành hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương, hoạt động theo quy định của pháp luật, có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Thanh tra nhà nước có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có biên chế xác định với đội ngũ cán bộ, công chức được sắp xếp theo ngạch bậc. Do đó, có thể thấy rằng thanh tra được tổ chức có tính hệ thống, giữa các cơ quan thanh tra có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại lẫn nhau và được sắp xếp theo thứ tự quy củ trong quá trình tổ chức hoạt động. Từ những cơ sở trên, rõ ràng dù muốn dù không, chúng ta không thể phủ nhận được sự hiện hữu của hệ thống các tổ chức thanh tra và hoạt động của nó và trong tổng thể các thiết chế của bộ máy nhà nước, thanh tra được xác định là một thiết chế riêng và thanh tra thực sự là một ngành với đầy đủ các đặc trưng của nó với mục đích, tôn chỉ; nguyên tắc tổ chức, hoạt động; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. 1.1.3. Khái niệm nhân lực ngành thanh tra Để hiểu nghĩa chung nhất về khái niệm nhân lực ngành thanh tra, trước tiên cần hiểu rõ khái niệm “thanh tra”. Theo Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010 quy định “Thanh tra nhà nước” là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân [30, tr.2]. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Trong thanh tra nhà nước có “Thanh tra hành chính” là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và “Thanh tra chuyên ngành” là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó [30, tr.2] Nhân lực Thanh tra xác định rõ vị trí, chức danh các ngạch công chức. Luật Thanh tra năm 2010, tại Điều 33 quy định ngạch Thanh tra viên có các ngạch như 9 sau: Thanh tra viên, Thanh tra viên chính, Thanh tra viên cao cấp. Theo Điều 32, Luật Thanh tra 2010 quy định tiêu chuẩn chung của Thanh tra viên: Thanh tra viên là công chức chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan thanh tra nhà nước, thực hiện quyết định thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ quan thanh tra nhà nước. Thanh tra viên được giao chủ trì thanh tra các vụ việc có quy mô và tính chất phức tạp trung bình; khi tiến hành thanh tra phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp về nhiệm vụ được giao. Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, công minh, khách quan; tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và am hiểu pháp luật; đối với Thanh tra viên chuyên ngành còn phải có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành đó; có văn bằng hoặc chứng chỉ về nghiệp vụ thanh tra; có ít nhất 02 năm làm công tác thanh tra (không kể thời gian tập sự), trừ trường hợp là công chức, công chức, viên chức, sĩ quan Quân đội nhân dân, sĩ quan Công an nhân dân công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác từ 05 năm trở lên chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước [30, tr.20]. Thanh tra viên chính là công chức chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan thanh tra nhà nước, thực hiện quyết định thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ quan thanh tra nhà nước. Thanh tra viên chính được giao chủ trì hoặc tham gia thanh tra các vụ việc có quy mô rộng, tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực; khi tiến hành thanh tra phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp về nhiệm vụ được giao. Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ được giao, thanh tra viên chính phải có kiến thức hiểu biết và nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước và quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, đề xuất và tổ chức thực hiện có hiệu quả các cuộc thanh tra được giao; nắm vững nguyên tắc, chế độ, chính sách, quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; am hiểu sâu tình hình kinh tế - xã hội; có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành theo lĩnh vực được phân công; có khả năng đảm nhận trách 10 nhiệm là trưởng đoàn, phó trưởng đoàn thanh tra; tổ chức điều hành hướng dẫn thanh tra viên, cộng tác viên thanh tra thực hiện nhiệm vụ thanh tra được giao; có năng lực phân tích, đánh giá những vấn đề thuộc phạm vi quản lý của ngành, lĩnh vực, địa phương; có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với chuyên môn thuộc ngành, lĩnh vực đang công tác; có văn bằng hoặc chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch thanh tra viên chính; có văn bằng hoặc chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính; có văn bằng hoặc chứng chỉ ngoại ngữ trình độ B trở lên thuộc 01 trong 05 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức. Đối với công chức công tác tại các địa phương ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo có sử dụng tiếng dân tộc thiểu số phục vụ trực tiếp cho công tác thì được thay thế chứng chỉ ngoại ngữ bằng chứng chỉ tiếng dân tộc thiểu số do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc thủ trưởng cơ quan thanh tra nơi công chức đó công tác xác nhận; có thời gian công tác ở ngạch thanh tra viên và tương đương tối thiểu là 09 năm, trừ trường hợp là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan Quân đội nhân dân, sử dụng thành thạo tin học văn phòng hoặc có chứng chỉ tin học văn phòng; sỹ quan Công an nhân dân công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác và đang giữ ngạch công chức, viên chức, cấp hàm tương đương ngạch thanh tra viên chính chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước. Thanh tra viên cao cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thực hiện quyết định thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ quan thanh tra nhà nước. Thanh tra viên cao cấp được giao trực tiếp chủ trì thanh tra các vụ việc có quy mô lớn, tình tiết rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực; khi tiến hành thanh tra phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp về nhiệm vụ được giao [30, tr.23]. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thanh tra được giao, Thanh tra viên cao cấp còn phải nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng thời kỳ, từng ngành, từng lĩnh vực; Am hiểu sâu tình hình kinh tế - xã hội trong 11 nước và trên thế giới; nắm vững các nguyên tắc, chế độ, chính sách, quy định của Nhà nước trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; có kiến thức sâu, rộng về chuyên môn nhiều ngành, lĩnh vực; có khả năng đảm nhận trách nhiệm trưởng đoàn, phó trưởng đoàn thanh tra các vụ việc có quy mô lớn, tình tiết rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực; có khả năng tổ chức, điều hành thanh tra viên chính thực hiện nhiệm vụ thanh tra được giao; chủ trì việc tổng kết, nghiên cứu lý luận về công tác thanh tra; tham gia xây dựng các văn bản pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tham gia xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu chuyên môn nghiệp vụ để đào tạo, bồi dưỡng cho thanh tra viên, thanh tra viên chính, cán bộ quản lý của các tổ chức thanh tra; có năng lực phân tích, khái quát, tổng hợp những vấn đề thuộc phạm vi quản lý của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực; có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với chuyên môn thuộc ngành, lĩnh vực đang công tác; có văn bằng hoặc chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch thanh tra viên cao cấp; có văn bằng hoặc chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp; có trình độ cao cấp lý luận chính trị; có văn bằng hoặc chứng chỉ ngoại ngữ trình độ C trở lên thuộc 01 trong 05 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức; Sử dụng thành thạo tin học văn phòng hoặc có chứng chỉ tin học văn phòng; Có thời gian công tác ở ngạch thanh tra viên chính và tương đương tối thiểu là 06 năm, trừ trường hợp là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan Quân đội nhân dân, sỹ quan Công an nhân dân công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác và đang giữ ngạch công chức, viên chức, cấp hàm tương đương ngạch thanh tra viên cao cấp chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 9, Điều 12, Điều 15, Điều 18 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và thi hành một số điều của Luật Thanh tra năm 2010 thì ngoài các ngạch Thanh tra viên theo quy định tại Điều 33 Luật Thanh tra 2010 nêu trên, cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện còn phải có các công chức khác. Đó là những chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp hay những ngạch khác được điều chuyển từ các cơ quan, đơn vị khác qua ngành thanh tra hay mới được 12 tuyển dụng vào công chức ngành thanh tra mà chưa được bổ nhiệm vào các ngạch Thanh tra viên. Như vậy, nhân lực ngành thanh tra là những công chức ở các ngạch nói trên làm việc trong cơ quan thanh tra nhà nước theo chức danh, công việc phù hợp với những tiêu chuẩn cụ thể mà pháp luật quy định. * Đặc điểm của nhân lực ngành thanh tra Xuất phát từ khái niệm về nhân lực ngành thanh tra, chúng ta có thể nhận thấy so với công chức nói chung, nhân lực ngành thanh tra có những điểm riêng nhất định như nhân lực ngành thanh tra, mà cụ thể là thanh tra viên chỉ có trong các cơ quan thanh tra nhà nước, có những quyền hạn nhất định và phải đáp ứng một số tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Thứ nhất, thanh tra viên là công chức, sỹ quan Quân đội nhân dân, sỹ quan Công an nhân dân có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật mới được bổ nhiệm thanh tra viên. Thứ hai, thanh tra viên chỉ có trong các cơ quan thanh tra nhà nước các cấp (các cơ quan tổ chức khác không có thanh tra viên); làm nhiệm vụ thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ quan thanh tra do thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước phân công (tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng…) Thứ ba, thanh tra viên được pháp luật trao cho một số thẩm quyền nhất định khi tham gia đoàn thanh tra, tổ công tác hay thanh tra độc lập (thanh tra chuyên ngành). Thứ tư, thanh tra viên là người phải gương mẫu, khách quan, công tâm, trung thực. Đặc điểm này xuất phát từ mục đích thanh tra nhằm xem xét, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật trong công tác quản lý, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai lệch trong quản lý và xuất phát từ chính bản thân thanh tra viên được pháp luật trao cho những quyền hạn nhất định như đã nêu ở phần trên. Khi xem xét, đánh giá người khác và nhất là hướng dẫn cho họ thực hiện chính sách, pháp luật, các quy định của tổ chức mà bản thân người thanh tra lại là người 13 vi phạm hoặc có vấn đề về tư cách đạo đức thì tính thuyết phục không cao, công tác quản lý không thể đạt được hiệu lực, hiệu quả. Thứ năm, thanh tra viên vừa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về cán bộ, công chức vừa được điều chỉnh bởi pháp luật về thanh tra; được hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề, phụ cấp thâm niên, chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và có trang phục riêng. Ngoài lực lượng thanh tra viên có các đặc điểm trên, nhân lực ngành thanh tra còn có những công chức ở ngạch chuyên viên, khi tham gia các đoàn thanh tra hay được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thì lực lượng này cũng được pháp luật trao cho một số thẩm quyền nhất định, tùy theo vị trí trong đoàn thanh tra. * Vai trò của nhân lực ngành thanh tra Nhân lực ngành thanh tra là lực lượng quan trọng, chủ yếu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra, đó là thực hiện và giúp các cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Vai trò của nhân lực ngành thanh tra được thể hiện cụ thể như: - Trong công tác thanh tra, khi tham gia đoàn thanh tra, trưởng đoàn, thành viên đoàn (có thể là thanh tra viên hay chuyên viên), công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành có nhiệm vụ là xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có đúng chính sách, pháp luật hay không. Nếu họ làm sai hoặc làm chậm thì giúp họ sửa chữa và làm cho đúng với mục đích của thanh tra là phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý những vi phạm, bảo đảm để các cơ quan, tổ chức và cá nhân hiểu đúng, tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước góp phần tăng cường pháp chế. - Trong công tác tiếp công dân: Để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân đối với Đảng và Nhà nước cần phải làm tốt một lĩnh vực công tác quan trọng có liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đó là công tác tiếp dân. 14 Trong tiếp công dân, đội ngũ thanh tra viên hoặc chuyên viên là người trực tiếp lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật. Họ được ví như là chiếc cầu nối giữa Đảng, nhà nước với nhân dân; thông qua công tác tiếp công dân, giúp cho cơ quan hành chính nhà nước nắm được những tâm tư, nguyện vọng, những thông tin phản hồi, các kiến nghị, góp ý của nhân dân từ thực tiễn trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, từ đó kịp thời chấn chỉnh, bổ sung hoặc hủy bỏ các nội dung không phù hợp. Thông qua tiếp công dân, việc giải quyết hoạt động khiếu nại, tố cáo của công dân liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính được tiến hành nhanh chóng, rõ ràng hơn khi có sự tiếp xúc trực tiếp, tìm hiểu thông tin hai chiều giữa người dân và cán bộ tiếp dân, từ đó, sẽ hạn chế việc khiếu nại, tố cáo tràn lan, vượt cấp, kéo dài cũng như nhiều bất cập khác trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. - Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: thanh tra viên hay chuyên viên là lực lượng nòng cốt, chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; trực tiếp tham mưu thụ lý đơn (nếu đơn thuộc thẩm quyền giải quyết), tổ chức xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ, báo cáo kết quả xác minh, xây dựng dự thảo kết luận nội dung tố cáo và quyết định giải quyết khiếu nại khi được giao. - Trong công tác phòng, chống tham nhũng: Thông qua những nhiệm vụ và quyền hạn do pháp luật quy định, các cơ quan thanh tra nhà nước nói chung, lực lượng thanh tra viên và chuyên viên nói riêng là công cụ quan trọng và hữu hiệu trong hoạt động phòng, chống tham nhũng. Bởi vì họ là người trực tiếp thụ lý hồ sơ vụ việc; bằng năng lực, kỹ năng kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ thanh tra, họ có vai trò rất lớn trong khâu phát hiện các hành vi tham nhũng, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); các biện pháp xử lý theo thẩm quyền 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan