Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách nhập khẩu công nghệ trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa ở việt ...

Tài liệu Chính sách nhập khẩu công nghệ trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

.PDF
85
678
68

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHÙNG CÔNG ĐỊNH CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ TRONG LĨNH VỰC CHẾ TẠO MÁY VÀ TỰ ĐỘNG HOÁ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI, 2016 VIỆN HÀN LÂM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHÙNG CÔNG ĐỊNH CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ TRONG LĨNH VỰC CHẾ TẠO MÁY VÀ TỰ ĐỘNG HOÁ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ Mã số: 60.34.04.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐỖ ĐỨC NAM HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn PHÙNG CÔNG ĐỊNH MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH VỀ NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ................................................................................................. 6 1.1. Một số vấn đề lý luận và khái niệm có liên quan ....................................... 6 1.2. Những lợi ích của việc nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam.................................................................... 17 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhập khẩu công nghệ, bài học cho Việt Nam .......................................................................................................... 19 Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY........................................................ 27 2.1. Thực trạng về nhập khẩu công nghệ ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, cụ thể trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hóa .................................... 27 2.2. Thực trạng về chính sách nhập khẩu công nghệ của Việt Nam giai đoạn hiện nay ............................................................................................................ 43 Chương 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH VỀ NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY, CỤ THỂ TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO MÁY VÀ TỰ ĐỘNG HÓA ............... 56 3.1. Mục tiêu quan điểm và định hướng về nhập khẩu công nghệ của Việt Nam giai đoạn hiện nay, cụ thể trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa .............. 56 3.2. Một số giải pháp chính sách về nhập khẩu công nghệ, cụ thể trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hoá ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh quốc tế............. 58 3.3. Cơ hội và thách thức khi nhập khẩu công nghệ trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa ................................................................................................ 70 KẾT LUẬN .................................................................................................. 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CNM Công nghệ mới CNC Công nghệ cao XNK Xuất nhập khẩu MMTB Máy móc thiết bị DN Doanh nghiệp WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc ESCAP Uỷ ban kinh tế xã hội Châu Á - Thái bình dương UNTAC Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển R&D Nghiên cứu và phát triển ODA Viện trợ phát triển chính thức FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài KH&CN Khoa học và công nghệ XHCN Xã hội chủ nghĩa TBCN Tư bản chủ nghĩa CNH Công nghiệp hoá HĐH Hiện đại hoá UBND Uỷ ban nhân dân KTXH Kinh tế - xã hội CGCN Chuyển giao công nghệ CTM Chế tạo máy TĐH Tự động hóa DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ KH&ĐT Kế hoạch và đầu tư CN Công nghệ NSNN Ngân sách nhà nước DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Giá trị và tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị giai đoạn 1986-2005 ... 28 Bảng 2.2: Giá trị và tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị giai đoạn 2006-2014 ... 29 Bảng 2.3: Số liệu nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền của các DN Nhà nước29 Bảng 2.4: Thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ .......... 30 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghệ là một yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp của mỗi quốc gia. Doanh nghiệp là nơi sử dụng công nghệ để sản xuất ra hàng hoá. Đồng thời doanh nghiệp cũng là nơi tạo ra công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Đến lượt mình công nghệ lại có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Công nghệ là một nhân tố có tính quyết định đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Công nghệ đang sử dụng trong các doanh nghiệp ở nuớc ta hiện nay nhìn chung đang ở trình độ thấp, thậm chí ở nhiều doanh nghiệp công nghệ còn lạc hậu nên chất lượng sản phẩm còn kém, chi phí sản xuất lớn, giá thành cao dẫn đến khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước còn yếu. Muốn khắc phục được tình trạng này, vấn đề mấu chốt là phải đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất với công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến; các doanh nghiệp phải nhập khẩu và làm chủ được công nghệ mới từ các nước có trình độ khoa học - kỹ thuật phát triển. Vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống chính sách liên quan đến nhập khẩu công nghệ của quốc gia. Trong những năm qua, đặc biệt là từ những năm 2005 trở lại đây, trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới với nhiều cơ hội và thách thức đặt ra, các doanh nghiệp nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Trong đó, việc đổi mới và nhập khẩu công nghệ hiện đại từ nhiều nước trên thế giới đã được thực hiện và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhiều ngành và lĩnh vực đã có sự cải thiện rõ rệt về trình độ công nghệ như ngành điện tử - viễn thông, xây dựng, giao thông và một số ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế tạo máy và tự động hóa... Các văn bản này đề cập đến những nội dung chủ yếu sau: Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của việc nhập khẩu công nghệ; quyền và nghĩa vụ của các bên mua, bán; các điều kiện chuyển giao, tiếp nhận và sử dụng công nghệ; giá cả và điều kiện 1 thanh toán; quản lý và phê duyệt của các cơ quan nhà nước đối với các hợp đồng mua bán; những vấn đề giải quyết tranh chấp v.v... Hiện nay công tác nhập khẩu công nghệ tồn tại nhiều vấn đề mà bản thân các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân chưa đủ sức giải quyết như: vấn đề tiếp cận thông tin về công nghệ, giá cả thị trường, nguồn cung ứng công nghệ… còn khó khăn, năng lực tài chính còn yếu, trình độ khoa học kỹ thuật của đội ngũ lao động còn thấp, điều kiện cơ sở vật chất hiện còn lạc hậu… Đồng thời chính sách nhập khẩu công nghệ của Nhà nước với những ưu đãi về thuế, về các biện pháp phi thuế cũng như các biện pháp hỗ trợ nhập khẩu công nghệ còn hạn chế, cơ chế tổ chức quản lý, giám định và chế tài xử lý vi phạm về nhập khẩu công nghệ còn nhiều bất cập. Do không có nhiều văn bản riêng quy định các vấn đề về nhập khẩu công nghệ, nên quan hệ nhập khẩu công nghệ chịu sự điều chỉnh của hàng loạt văn bản luật và dưới luật như: Bộ luật dân sự (phần CGCN), luật CGCN, luật KH&CN 2013, luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài, luật đấu thầu, Luật thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu, các quyết định của thủ tướng chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu. Trong đó các điều khoản quy định về nhập khẩu không đồng bộ, cụ thể và còn chồng chéo nên đã gây nhiều khó khăn trong thực tiễn đối với các cơ quan quản lý của nhà nước và các doanh nghiệp khi nhập khẩu công nghệ. Trước yêu cầu đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước cùng với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp khai thác được các cơ hội, tiếp cận, đón đầu và sử dụng công nghệ mới, công tiên tiến sẽ là mục tiêu trọng yếu của chính sách nhập khẩu công nghệ quốc gia. Hơn nữa, bất kỳ một chính sách nào dù tốt đến đâu cũng chỉ phát huy tác dụng trong những thời kỳ nhất định. Vì vậy, cần phải liên tục nghiên cứu để có những chính sách linh hoạt cho phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Chính vì vậy, đề tài: “Chính sách nhập khẩu công nghệ trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hoá ở Việt Nam giai đoạn hiện nay” được tiến hành nghiên cứu sẽ góp phần đáp ứng cả về lý luận và thực tiễn những vấn đề đặt ra cho hoạt động nhập khẩu công nghệ cụ thể nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự 2 động hóa, một trong những lĩnh vực trọng tâm thúc đẩy quá trình CNH và HĐH của Việt Nam. Đề tài sẽ tiến hành phân tích những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế cần khắc phục của tình hình nhập khẩu công nghệ ở Việt Nam, đồng thời so sánh với kinh nghiệm nhập khẩu công nghệ với các nước khác. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về chính sách nhập khẩu công nghệ cho đến giai đoạn hiện nay đã có nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài này tôi xin được tổng quan 3 công trình nghiên cứu được xem là gần với những quan tâm của đề tài và quan trọng hơn là những phát hiện trong các công trình này, có những nội dung sẽ được sử dụng làm luận cứ, có những nội dung sẽ trở thành câu hỏi nghiên cứu khi tôi xây dựng đề cương nghiên cứu này: “Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng một số chính sách và thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên cứu & triển khai trong các cơ sở sản xuất ở Việt Nam” - Trần Ngọc Ca, Báo cáo đề tài cấp bộ. Hà Nội, 6/2000; Đề tài: “Các biện pháp tăng cường năng lực nội sinh về KH&CN phục vụ phát triển bền vững ở Việt Nam” của Nguyễn Danh Sơn và các tác giả (2003); Đề tài: “Chính sách nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH của Việt Nam, thực trạng và giải pháp” Nguyễn Văn Hoàn và các tác giả (2005), Báo cáo đề tài cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại. Đề tài: “Chính sách nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH của Việt Nam, thực trạng và giải pháp” Nguyễn Văn Hoàn và các tác giả (2005), Báo cáo đề tài cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại. Đề tài nêu nổi bật được vai trò chính sách nhập khẩu công nghệ để đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH đất nước, tuy nhiên, với hiện trạng chính sách của Việt Nam thời điểm đề tài nghiên cứu vẫn chưa có quy định về nhập khẩu công nghệ mà nó được điều chỉnh bởi rất nhiều văn bản pháp quy của Chính phủ, dẫn đến không phải bất cứ đơn vị nào có nhu cầu nhập khẩu công nghệ có thể nắm bắt được tường tận các văn bản đó. Từ phân tích thực trạng, đề tài nghiên cứu đã đưa ra đề xuất liên quan đến điều chính chính sách nhập khẩu công nghệ của Việt Nam đến năm 2020. 3 Tuy nhiên, Đề tài được nghiên cứu và nghiệm thu cách đây 10 năm. Hiện tại chính sách nhập khẩu công nghệ đã có nhiều thay đổi cũng như có thêm các khó khăn và thuận lợi khác đặt ra mà đề tài không thể đáp ứng được. Các đề tài trước đó không đề cập cụ thể đến việc nhập khẩu công nghệ cho một lĩnh vực nào cụ thể đặc biệt lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa. Lĩnh vực này hiện đang có ý nghĩa quan trọng và có tác dụng tích cực nhất trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: - Làm rõ vai trò của chính sách nhập khẩu công nghệ và những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. - Phân tích thực trạng chính sách nhập khẩu công nghệ và tác động của nó đến việc nhập nghệ khẩu ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. - Phân tích các đặc thù cụ thể về chính sách nhập khẩu công nghệ trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa phục vụ công cuộc hiện nay ở Việt Nam. - Đề xuất những vấn đề điều chỉnh trong chính sách nhập khẩu công nghệ đặc biệt trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa cho phù hợp với giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Nhiệm vụ:  Nghiên cứu lý luận về chính sách về nhập khẩu công nghệ đối với nước đang phát triển.  Phân tích vai trò của nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Kinh nghiệm quốc tế.  Thực trạng về nhập khẩu công nghệ, chính sách nhập khẩu công nghệ của Việt Nam giai đoạn hiện nay cụ thể với lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hoá.  Đề xuất một số giải pháp chính sách về nhập khẩu công nghệ cụ thể trong lĩnh vực công nghệ chế tạo và tự động hoá ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách nhập khẩu công nghệ ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ nghiên cứu vấn đề của chính sách nhập khẩu công nghệ ở Việt Nam thời kỳ hiện nay và thực trạng nhập khẩu công nghệ, cụ thể trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hóa. Từ đó, đề xuất giải pháp thúc đẩy quá trình nhập khẩu công nghệ của Việt Nam giai đoạn tiếp theo thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài này được xây dựng trên cơ sở đánh giá phân tích tổng hợp các tài liệu, số liệu, thông tin lí luận và thực tế liên quan đến chính sách nhập khẩu công nghệ. Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác là: - Khảo sát điển hình đối với một lĩnh vực; - Phương pháp chuyên gia (lấy ý kiến của một số chuyên gia trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và thương mại). 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Chỉ ra các vấn đề còn tồn tại trong hoạt động nhập khẩu công nghệ, cụ thể là lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hóa - Góp phần đáp ứng cả về lý luận và thực tiễn những vấn đề đặt ra cho công tác nhập khẩu công nghệ, trong đó có nhập khẩu công nghệ cho chế tạo máy và tự động hóa phục vụ CNH, HĐH đất nước. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm ba chương chính sau đây: Chương 1: Cơ sở lý luận và khung chính sách về nhập khẩu công nghệ. Chương 2: Thực trạng của chính sách nhập khẩu công nghệ ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, cụ thể trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hoá. Chương 3: Đề xuất một số giải pháp chính sách về nhập khẩu công nghệ, cụ thể trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hoá. 5 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH VỀ NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ 1.1. Một số vấn đề lý luận và khái niệm có liên quan 1.1.1. Khái niệm về công nghệ Trên thế giới và ở Việt Nam từ trước tới nay có nhiều cách định nghĩa, tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của các tác giả và các tổ chức khác nhau và để nhằm phục vụ cho mục đích công việc của họ thì các định nghĩa cũng khác nhau. Trong đề tài này tác giả liệt kê ra ở đây một số định nghĩa đã được công bố. UNCTAC đưa ra định nghĩa vào năm 1972 như sau: Công nghệ là một đầu vào cần thiết cho sản xuất, và như vậy, nó được mua và bán trên thị trường như một hàng hoá và được thể hiện dưới một trong các dạng sau đây: Tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian; nhân lực có trình độ chuyên môn cao; thông tin về khoa học kỹ thuật và thương mại. Ngân hàng Thế giới (WB) năm 1985 đưa ra định nghĩa: Công nghệ là phương pháp chuyển hoá các nguồn lực thành sản phẩm, gồm 3 yếu tố: Thông tin, công cụ và sự hiểu biết (Kiến thức) và mục tiêu cũng là chuyển hoá các nguồn lực thành sản phẩm. Theo Các Mác “Công nghệ làm nổi bật thái độ tích cực của con người đối với tự nhiên, vạch rõ quá trình sản xuất trực tiếp ra đời sống của con người và những điều kiện của đời sống xã hội của họ, cũng như những khái niệm tinh thần bắt nguồn từ điều kiện ấy”. Quan niệm này do Các Mác trình bày trong bộ Tư bản đã chỉ ra: một là, thông qua công nghệ, bộc lộ mối quan hệ của con người với tự nhiên; hai là, thông qua công nghệ, bộc lộ mối quan hệ giữa người với người; ba là, thông qua công nghệ, hình thành nên mối quan hệ biện chứng tự nhiên – con người – xã hội… Bản thân các yếu tố của công nghệ cũng được hình thành thông qua mối quan hệ ấy. Đây cũng chính là quá trình con người nắm bắt các quy luật của tự nhiên và vận dụng chúng vào trong các hoạt động sống của mình. Cải tạo, đổi mới, phát triển để ngày càng phát triển hơn nữa. 6 Theo Luật KH&CN năm 2013 của Việt Nam thì: “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” [14, tr. 1]. Trong định nghĩa này, công nghệ bao gồm cả kiến thức và công cụ, phương tiện và mục đích là biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Qua các định nghĩa về công nghệ trên đây, định nghĩa về công nghệ của luật KH&CN của Việt Nam là đúng đắn và cụ thể hơn cả, nó phản ảnh đầy đủ những yếu tố thành phần của công nghệ, phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế Việt Nam và phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Tuy nhiên, để làm rõ các yếu tố thành phần của công nghệ, qua các tài liệu đã nghiên cứu có thể cụ thể hoá và phân loại các yếu tố thành phần của công nghệ ra 4 phần sau đây: - Phần kỹ thuật (Technicware); bao gồm các phương tiện vật chất cần thiết nhằm chuyển đổi đối tượng lao động như: thiết bị, máy móc v.v...; - Phần thông tin (Inforware) bao gồm các tư liệu công nghệ mà bản thân phần kỹ thuật không đem lại thông tin trực quan, ví dụ như bản thiết kế, các bản tính toán, công thức, phương trình, các hướng dẫn thao tác, mẫu mã; - Phần con người (Humanware) bao gồm kỹ năng và kinh nghiệm của con người làm chủ công nghệ, hay còn gọi là năng lực sáng tạo, kỹ năng, kỹ xảo; - Phần tổ chức (Organware) là sự bố trí và mối liên hệ trong sản xuất, nó bao gồm cơ cấu tổ chức cho các hoạt động, ví dụ như: sự phân nhiệm, hệ thống công tác quản lý v.v... Các thành phần này có mối liên hệ mật thiết với nhau, thành phần kỹ thuật được gọi là phần cứng của công nghệ, các thành phần còn lại gọi là phần mềm của công nghệ. 1.1.2. Phân loại công nghệ * Căn cứ theo nguồn gốc công nghệ có thể chia thành hai loại chính là công nghệ nguồn và công nghệ thứ cấp: 7 - Công nghệ nguồn: Là công nghệ được tạo ra lần đầu từ các phát minh sáng chế, giải pháp hữu ích. Công nghệ nguồn ở nước nào cũng có thể, nhưng hiện nay phần lớn công nghệ nguồn được tạo ra từ các tập đoàn đa quốc gia của các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Anh, Pháp … - Công nghệ thứ cấp: Là công nghệ đã được chuyển giao lần thứ nhất hoặc là công nghệ thứ cấp lần thứ 2, lần thứ 3… Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan đều có những công nghệ hiện đại nhưng phần lớn đều không phải là công nghệ nguồn nhưng được chuyển giao lần đầu từ Mỹ hoặc Anh, ví dụ như điện thoại SAMSUNG rất hiện đại nhưng phải sử dụng tới 40% phát minh, sáng chế của Mỹ. Như vậy tiếp nhận công nghệ từ Nhật Bản, Hàn Quốc, nhưng thực chất các công nghệ đó đi sau công nghệ nguồn ít nhất là 2 đến 3 thế hệ. Các nước đang phát triển cũng có khả năng tạo được công nghệ nguồn nhưng chưa hẳn đấy là công nghệ tiên tiến và hiện đại, ví dụ công nghệ sản xuất kẹo dừa ở Bến Tre là công nghệ nguồn, nhưng công nghệ này lại sử dụng dụng các thao tác lạc hậu. * Căn cứ vào mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ có thể chia làm 3 công nghệ chính: - Công nghệ có hàm lượng lao động cao (Labour intensive): may mặc, dệt, lắp ráp, chế tạo. - Công nghệ có hàm lượng tri thức cao (Know intensive): Phần mềm, công nghệ sinh học, tự động hóa… * Căn cứ vào trình độ. Cho đến nay mặc dù đã được nói đến nhiều tài liệu hoặc các cuộc hội thảo nhưng khái niệm và các tiêu chí để đánh giá trình độ công nghệ chưa thật rõ ràng, chính xác mà chỉ có thể tương đối, chủ yếu dựa trên các cơ sở định tính, ví dụ như: - Công nghệ hiện đại: là công nghệ có sự phối hợp sử dụng các thành tựu của công nghệ nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới vào quá trình sản xuất (thiết bị công nghệ thế hệ thứ IV- chế tạo vào những năm đầu thập kỷ 90) 8 - Công nghệ tiên tiến là công nghệ có trình độ tự động, điện tử, vi điện tử ở mức cao, tự động toàn bộ thiết bị hoặc một công đoạn sản xuất (thiết bị công nghệ thế hệ thức III và đầu thứ IV-chế tạo trong thập kỷ 80). - Công nghệ trung bình tiên tiến: là công nghệ có mức độ tự động cơ khí – điện tử cao (cơ khí và chủ yếu) với thiết bị công nghệ cuối thế hệ II đầu thế hệ III (chế tạo trong thập kỉ 70,80). - Công nghệ trung bình: là công nghệ có mức độ tự động cơ khí khá (tự động một số thao tác trên thiết bị công nghệ hoặc trong công đoạn sản xuất), với thiết bị công nghệ cuối thế hệ I đầu thế hệ II. 1.1.3. Khái niệm liên quan đến công nghệ chế tạo máy và tự động hóa a. Công nghệ chế tạo máy là một ngành công nghệ mũi nhọn trong việc chế tạo ra các loại máy móc, thiết bị sản xuất. Đây là ngành quyết định trình độ kỹ thuật và công nghệ của một đất nước. Chế tạo máy thường gắn liền với cơ khí chế tạo và không thể tách rời. b. Công nghệ tự động hóa là một ngành công nghệ liên quan đến việc ứng dụng các kỹ thuật cơ khí hiện đại, kỹ thuật điều khiển và kỹ thuật máy tính vào việc vận hành và điều khiển quá trình sản xuất. Tự động hóa là ngành thuộc nhóm ngành điện-điện tử dùng để chỉ một công việc được thực hiện mà không có sự giúp đỡ của bất kỳ sự can thiệp trưc tiếp của con người. Tự động hóa có nghĩa là thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt với sự giúp đỡ của mạch điện truyền động điện. Tự động hóa đã luôn luôn chứng tỏ là một ý tưởng có hiệu quả đối với hầu hết các ngành công nghiệp và các công ty, mà đối phó với sản xuất, vốn và hàng hoá tiêu dùng. Bất kỳ loại hình sản xuất sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi bằng cách tự động hóa. Tự động hóa đã được thực hiện bằng phương tiện khác nhau bao gồm cơ khí, thủy lực, khí nén, điện, điện tử và máy tính, thường kết hợp. Các hệ thống phức tạp, chẳng hạn như các nhà máy hiện đại, máy bay và tàu thường sử dụng tất cả những kỹ thuật kết hợp. 9 Khả năng ứng dụng của tự động hóa: Tự động hóa đang ngày nay đa được áp dụng vào hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội, từ hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho đến chăm sóc sức khỏe con người, ví dụ như: Robot, dây chuyền sản xuất, các hệ thống thông minh…, nó giảm thiểu sức lao động, gia tăng sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm, từ các dây chuyền tự động có thể sản xuất ra hàng loạt các sản phẩm với giá thành rẻ. Những hạn chế của tự động hóa Nhiều vai trò đối với con người trong quá trình công nghiệp hiện nay nằm ngoài phạm vi của tự động hóa. Nhân lực trình độ nhận dạng mẫu, hiểu ngôn ngữ và khả năng sản xuất là ngôn ngữ tốt hơn khả năng của các hệ thống cơ khí và máy tính hiện đại. Nhiệm vụ yêu cầu đánh giá chủ quan hoặc tổng hợp các dữ liệu cảm giác phức tạp, chẳng hạn như mùi hương và âm thanh, cũng như nhiệm vụ cấp cao như lập kế hoạch chiến lược, hiện đang yêu cầu chuyên môn của con người. Trong nhiều trường hợp, việc sử dụng của con người là chi phí-hiệu quả hơn so với các phương pháp cơ học ngay cả khi tự động hóa các nhiệm vụ công nghiệp là có thể. Vượt qua những trở ngại đó là một con đường để đưa ra giả thuyết sau khan hiếm kinh tế. Vai trò và ý nghĩa của tự động hóa quá trình sản xuất: Tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép giảm giá thành và nâng cao năng suất lao động. Trong mọi thời đại, các quá trình sản xuất luôn được điều khiển theo các qui luật kinh tế. Có thể nói giá thành là một trong những yếu tố quan trọng xác định nhu cầu phát triển tự động hóa. Không một sản phẩm nào có thể cạnh tranh được nếu giá thành sản phẩm cao hơn các sản phẩm cùng loại, có tính năng tương đương với các hãng khác. Trong bối cảnh nền kinh tế đang phải đối phó với các hiện tượng như lạm phát, chi phí cho vật tư, lao động, quảng cáo và bán hàng ngày càng tăng buộc công nghiệp chế tạo phải tìm kiếm các phương pháp sản xuất tối ưu để giảm giá thành sản phẩm. Mặt khác nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng mức độ phức tạp của quá trình gia công. Khối lượng các công việc đơn giản cho phép trả lương thấp sẽ giảm nhiều. Chi phí cho đào tạo công nhân và đội 10 ngũ phục vụ, giá thành thiết bị cũng tăng theo. Đây là động lực mạnh kích thích sự phát triển của tự động hóa. Tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép cải thiện điều kiện sản xuất. Các quá trình sản xuất sử dụng quá nhiều lao động sống rất dễ mất ổn định về giờ giấc, về chất lượng gia công và năng suất lao động, gây khó khăn cho việc điều hành và quản lý sản xuất. Các quá trình sản xuất tự động cho phép loại bỏ các nhược điểm trên. Đồng thời tự động hóa đã thay đổi tính chất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của công nhân, nhất là trong các khâu độc hại, nặng nhọc, có tính lặp đi lặp lại nhàm chán, khắc phục dần sự khác nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép đáp ứng cường độ lao động sản xuất hiện đại. Với các loại sản phẩm có số lượng lớn (hàng tỉ cái trong một năm) như đinh, bóng đèn điện, khóa kéo v..v.thì không thể sử dụng các quá trình sản xuất thủ công để đáp ứng sản lượng yêu cầu với giá thành nhỏ nhất. Tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép thực hiện chuyên môn hóa và hoán đổi sản xuất. Chỉ có một số ít sản phẩm phức tạp là được chế tạọ hoàn toàn bởi một nhà sản xuất. Thông thường một hãng sẽ sử dụng nhiều nhà thầu để cung cấp các bộ phận riêng lẻ cho mình, sau đó tiến hành liên kết, lắp ráp thành sản phẩm tổng thể. Các sản phẩm phức tạp như ôtô, máy bay.v…v nếu chế tạo theo phương thức trên sẽ có rất nhiều ưu điểm. Các nhà thầu sẽ chuyên sâu hơn với các sản phẩm của mình. Việc nghiên cứu, cải tiến chỉ phải thực hiện trong một vùng chuyên môn hẹp, vì thế sẽ có chất lượng cao hơn, tiến độ nhanh hơn. Sản xuất của các nhà thầu có điều kiện chuyển thành sản xuất hàng khối. Có thể nói tự động hóa giữ một vai trò quan trọng trong việc thực hiện tiêu chuẩn hóa bởi chỉ có nền sản xuất tự động hóa mới cho phép chế tạo các sản phẩm có kích cỡ và đặc tính không hoặc ít thay đổi với số lượng lớn một cách hiệu quả nhất. 1.1.4. Khái niệm chuyển giao công nghệ 11 CGCN là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ [12, tr. 2]. Trong đó: Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ: là việc chủ sở hữu công nghệ chuyển giao toàn bộ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt công nghệ cho tổ chức, cá nhân khác. Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc chuyển giao quyền sở hữu công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ: tổ chức, cá nhân cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng công nghệ của mình. Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ do các bên thỏa thuận bao gồm: + Độc quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ; + Được chuyển giao lại hoặc không được chuyển giao lại quyền sử dụng công nghệ cho bên thứ ba; + Lĩnh vực sử dụng công nghệ; + Quyền được cải tiến công nghệ, quyền được nhận thông tin cải tiến công nghệ; + Độc quyền hoặc không độc quyền phân phối, bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo ra; + Phạm vi lãnh thổ được bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo ra; + Các quyền khác liên quan đến công nghệ được chuyển giao. Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì việc chuyển giao quyền sử dụng công nghệ phải được thực hiện cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. 12 CGCN tại Việt Nam là việc CGCN giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam. CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam là việc tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam. CGCN từ Việt Nam ra nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam CGCN cho tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài. [12, tr. 2] Xét về yếu tố pháp lý CGCN là một hoạt động nhằm chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc chuyển giao quyền sử dụng một công nghệ từ chủ thể này sang chủ thể khác, trên cơ sở hợp đồng CGCN đã được thỏa thuận, phù hợp với các quy định của pháp luật. Bên chuyển giao có nhiệm vụ CGCN có kèm hoặc không kèm máy móc, thiết bị, dịch vụ... cho bên nhận chuyển giao. Bên nhận chuyển giao có nghĩa vụ thanh toán các khoản cho bên chuyển giao để tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng. Xét về yếu tố nội tại công nghệ được xem gồm hai phần: phần cứng (máy móc, thiết bị…) và phần mềm (quy trình, công thức, bí quyết…). CGCN chủ yếu thuộc phần mềm của công nghệ. Phần cứng của công nghệ được mua bán trên cơ sở các quan hệ thương mại thông thường, vì nó có hiện vật cụ thể và giá cả ấn định.Tuy nhiên, vì phần mềm của công nghệ thường được thể hiện trên những phương tiện, thiết bị cụ thể, cho nên trong quá trình CGCN luôn phải giải quyết mối quan hệ với phần cứng. Phần cứng chỉ được coi là đi kèm công nghệ được chuyển giao lần đầu, còn các lần tiếp theo chỉ đơn thuần là máy móc, thiết bị… bởi vậy, giá cả phần cứng đi kèm công nghệ được chuyển giao rất khác với giá cả phần cứng khi chuyển giao độc lập. Việc CGCN được thực hiện thông qua các hình thức sau đây: - Hợp đồng CGCN độc lập; - Phần CGCN trong dự án hoặc hợp đồng sau đây: + Dự án đầu tư; + Hợp đồng nhượng quyền thương mại; 13 + Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; + Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo CGCN; - Hình thức CGCN khác theo quy định của pháp luật. Phương thức CGCN bao gồm: + Chuyển giao tài liệu về công nghệ; + Đào tạo cho bên nhận công nghệ nắm vững và làm chủ công nghệ theo thời hạn quy định trong hợp đồng CGCN; + Cử chuyên gia tư vấn kỹ thuật cho bên nhận công nghệ đưa ra công nghệ vào sản xuất với chất lượng công nghệ và chất lượng sản phẩm đạt các chỉ tiêu và tiến độ quy định trong hợp đồng CGCN; + Phương thức chuyển giao khác do các bên thỏa thuận. 1.1.5. Một số con đường chuyển giao công nghệ hiện nay ở nước ta Trong thực tiễn hiện nay tại Việt Nam, công nghệ được nhập khẩu thông qua các con đường chủ yếu sau đây: - CGCN qua con đường đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - CGCN qua con đường cho vay vốn ODA và tài trợ nước ngoài. - CGCN qua con đường mua trực tiếp từ nước ngoài. Ngoài ra còn một số hình thức CGCN không chính thức như: Hội thảo, hội nghị, xuất bản phẩm, tham quan, thực tập, đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt do chính sách mở cửa của Việt Nam mà lực lượng Việt kiều sống ở nước ngoài cũng trở về đầu tư sản xuất kinh doanh cùng với việc đầu tư về tài chính là vốn đầu tư về khoa học, công nghệ. 1.1.6. Khái niệm nhập khẩu công nghệ Nhập khẩu công nghệ được hiểu là một quốc gia này nhập khẩu công nghệ từ một quốc gia khác (có thể nhập khẩu đầy đủ hoặc không đầy đủ 4 thành phần của công nghệ), nhằm mục đích đầu tư đổi mới hoặc thay thế công nghệ cũ để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn, an ninh và bảo vệ môi trường. Các hình thức nhập khẩu bao gồm: 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan