Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Mẫu giáo bé Chính sách “ngoại giao nước” của trung quốc ở khu vực mê kông đầu thế kỉ xxi...

Tài liệu Chính sách “ngoại giao nước” của trung quốc ở khu vực mê kông đầu thế kỉ xxi

.PDF
69
526
57

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ********** VƢƠNG MẠNH THỌ CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI KHU VỰC MÊ KÔNG ĐẦU THẾ KỈ XXI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ BÍCH HÀ NỘI, 2017 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Cô giáo – ThS. Nguyễn Thị Bích, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, từ khâu chọn lựa đề tài đến hoàn chỉnh nội dung chi tiết. Những góp ý vô cùng quý báu của cô đã giúp tôi có những hiểu biết sâu sắc hơn về đề tài khóa luận và gợi mở cho tôi phƣơng pháp tổng hợp tài liệu và nghiên cứu hiệu quả. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô giáo trong khoa, cũng nhƣ các thầy cô giáo trong trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà Nội 2 đã luôn giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành 4 năm Đại học một cách thuận lợi nhất. Cuối cùng, tôi vô cùng biết ơn gia đình, ngƣời thân và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình viết khóa luận. Hà Nội, ngày tháng 05 năm 2017 Sinh viên Vƣơng Mạnh Thọ LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong khoá luận là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng 05 năm 2017. Sinh Viên Vƣơng Mạnh Thọ DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ADB: Ngân hành Phát triển Châu Á ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long ILC: Uỷ ban Luật quốc tế LHQ: Liên Hiệp Quốc LMCM: Cơ chế Hợp tác Lan Thƣơng- Mê Kông LMC: Cơ chế hợp tác Mê Kông – Lan Thƣơng MRC: Uỷ hội sông Mê Kông NATO: Tổ chức Hiệp ƣớc Bắc Đại Tây Dƣơng NGO: Tổ chức phi chính phủ SEA: Tổ chức đánh giá môi trƣờng chiến lƣợc WB: Ngân hàng thế giới WCD: Ủy ban thế giới về đập MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ...............................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................4 3. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ...................................................6 4. Phƣơng pháp và phƣơng pháp luận nghiên cứu ...............................................7 5. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................8 6. Bố cục của khóa luận ........................................................................................8 CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỈ XXI ........................................9 1.1. KHÁI NIỆM “NGOẠI GIAO NƢỚC” (Water diplomacy) .........................9 1.1.1. Khái niệm Ngoại giao ............................................................................9 1.1.2. Khái niệm “Ngoại giao nƣớc” (Water diplomacy) .............................11 1.1.3. Đặc điểm của “Ngoại giao nƣớc” (Warter diplomacy) ........................14 1.2. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC MÊ KÔNG ĐẦU THẾ KỈ XXI .16 1.2.1. Tình hình thế giới .................................................................................16 1.2.2. Tình hình tiểu vùng Mê Kông ..............................................................18 1.3. CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỈ XXI ...................................................................................................................................20 Tiểu kết chƣơng 1 .............................................................................................24 CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẦU THẾ KỈ XXI .....26 2.1. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC Ở KHU VỰC MÊ KÔNG ..............................................................26 2.1.1. Trong lĩnh vực chính trị - an ninh .......................................................26 2.1.2. Trong lĩnh vực kinh tế ..........................................................................32 2.1.3. Trong lĩnh vực văn hóa – Xã hội .........................................................36 2.2. PHẢN ỨNG CỦA CÁC QUỐC GIA Ở KHU VỰC TIỂU VÙNG MÊ KÔNG .......................................................................................................................39 2.3. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỈ XXI ........................................................................................44 2.3.1. Đối với Trung Quốc .............................................................................44 2.3.2 Đối với tiểu vùng Mê Kông ..................................................................47 PHẦN KẾT LUẬN ..........................................................................................53 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................55 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Bƣớc vào thế kỉ XXI, trên thế giới đang phải đối mặt với những thay đổi to lớn, nhƣ là tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra khắp trên thế giới, sự thay đổi khí hậu, sự phụ thuộc xuyên biên giới, sự thay đổi của bối cảnh chính trị xã hội trong việc đối phó với những thách thức về nƣớc. Vì vậy, nƣớc đang trở nên nhạy cảm hơn và dễ bị tổn thƣơng trƣớc những thay đổi của tình hình thế giới. Trong khi đó, tài nguyên nƣớc đƣợc lên kế hoạch và quản lý ở mức độ không chắc chắn cao hơn. Ngoài việc là một nguồn lực dễ bị tổn thƣơng, nƣớc đang trở thành một vấn đề phức tạp hơn. “Ngoại giao nước” không phải là một khái niệm lý thuyết. Đó là một hành động, một quá trình cần thiết và cấp thiết để cho phép các thế hệ hiện tại và tƣơng lai tiếp cận với điều quan trọng này. Sử dụng tài nguyên một cách bền vững là cần thiết để đối phó những thách thức này, dó đó cần phải tiến hành ngoại giao nƣớc. Các dòng sông quốc tế đang ngày càng đƣợc quan tâm để đáp ứng nhu cầu phát triển dân số và kinh tế. Quá trình phát triển tạo sức ép lên các nguồn nƣớc hiện có làm sâu sắc thêm những nhu cầu cạnh tranh giữa các quốc gia, các khu vực nông thôn và thành thị, các nhóm sử dụng khác nhau và chính bản thân các hệ sinh thái của các dòng sông. Thách thức đặt ra là cân bằng những nhu cầu cạnh tranh này theo cách công bằng và bền vững cho thế hệ hôm nay và mai sau. Dòng sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng nối liền 6 quốc gia Trung Quốc, Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Với khoảng 4.800km chiều dài, con sông quốc tế này tạo ra nhiều sinh cảnh độc đáo, các hệ sinh thái giàu có và nhiều vùng châu thổ phì nhiêu. Cho đến cuối 1 thế kỉ XX, sông Mê Kông vẫn còn giữ đƣợc nhiều nét nguyên vẹn do chƣa bị ngăn đập trên phần lớn dòng chảy. Tuy nhiên, lƣu vực sông Mê Kông trong thời gian gần đây trở nên ngày càng sôi động với nhiều diễn biến phát triển nóng gây không ít tranh cãi. Dòng sông quốc tế này đang chứng kiến xu thế cạnh tranh với tâm điểm là việc sử dụng nguồn nƣớc của mỗi quốc gia phục vụ nhu cầu phát triển của riêng mình đi đôi với những hậu quả và thách thức tiềm tàng cho các quốc gia khác. Bối cảnh phát triển lƣu vực sông Mê Kông, sự sôi động của lƣu vực sông Mê Kông bắt đầu từ những năm cuối thế kỉ XX. Nền kinh tế mới nổi trong khu vực là một Trung Quốc đang trỗi dậy đứng trƣớc cơn khát năng lƣợng phục vụ nhu cầu tăng trƣởng nóng. “Tốc độ phát triển kinh tế của Trung Quốc luôn dẫn đầu thế giới. Để duy trì được tốc độ phát triển kinh tế bền vững như hiên nay, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [6; tr.5] . Bắt buộc Trung quốc phải đƣa ra những chính sách đối ngoại của mình để có thể thực hiện đƣợc mục tiêu “giấc mộng Trung Quốc, phục hưng vĩ đại Trung Hoa” [42] . Một trong những cách thức để Trung Quốc có thể thực hiện âm mƣu của mình là thực hiện chính sách “ngoại giao láng giềng” mà trọng yếu là các quốc gia ở khu vực sông Mê Kông. Ở vị thế là các quốc gia hạ nguồn, MRC đang đứng trƣớc nguy cơ phải gánh chịu nhiều tác động to lớn chƣa thể lƣờng trƣớc từ các chƣơng trình, dự án phát triển trên dòng chính ở phía thƣợng nguồn. Với viễn cảnh các kịch bản phát triển của các quốc gia láng giềng, MRC rất cần có các giải pháp ứng phó và hạn chế tối đa nguy cơ trở thành nạn nhân của những tính toán, sắp đặt trái với tinh thần hợp tác phát triển trong lƣu vực. 2 Do vậy, khi tìm hiểu chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI là một việc làm có ý nghĩa trên cả hai phƣơng diện khoa học và thực tiễn. Về phƣơng diện khoa học, việc nghiên cứu chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI nhằm tìm hiểu những nhân tố, quá trình thực hiện và triển khai, những tác động của loại hình ngoại giao mới này. Mặc dù, hình thành sau và nằm trong các loại hình ngoại giao truyền thống nhƣ ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa nhƣng ngoại giao nƣớc đã có những bƣớc tiến mới trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc trong việc sử dụng nguồn nƣớc để tiến hành ngoại giao. Mặt khác, thông qua việc nghiên cứu này làm nổi bật đặc điểm, tính chất của chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong những năm vừa qua. Về phƣơng diện thực tiễn, việc nghiên cứu này góp phần lý giải những biến động của tình hình chính trị - kinh tế thế giới, khu vực trong những năm vừa qua, cũng nhƣ những tác động của nó đến các nƣớc láng giềng trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Đối với bản thân tác giả là một sinh viên nghiên cứu, ở vị trí là sinh viên chuyên ngành lịch sử thì việc lựa chọn đề tài này để nghiên cứu là một việc làm thiết thực và có ý nghĩa chuyên môn, giúp bạn đọc nhìn nhận một cách chính xác hơn về chính sách ngoại giao của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thể Kỉ XXI. Từ những lí do trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài: Chính sách “Ngoại giao nước” của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI làm đề tài khóa luận tốt nghiệp nhằm đƣa ra một số dẫn chứng cụ thể về âm mƣu cũng nhƣ chính sách mà Trung Quốc đang thực hiện ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI. 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu về chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc là một đề tài tƣơng đối mới mẻ và đang thu hút các giới học giả và các nhà nghiên cứu trên thế giới, nhƣng đến nay, giới khoa học chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung đến chính sách ngoại giao năng lƣợng, an ninh năng lƣợng, chính sách ngoại giao nƣớc lớn, chính sách ngoại giao của Đặng Tiểu Bình, chính sách ngoại giao Láng giềng… Mặc dù vậy, một số tác phẩm đã cung cấp nguồn tƣ liệu rất quan trọng để tác giả thực hiện đề tài. Thứ nhất, trong tác phẩm “Nghệ thuật ngoại giao của Đặng Tiểu Bình” của tác giả Phó Diệu Tổ, xuất bản năm 1999. Tác giả đã đƣa ra khá nhiều nhƣng thay đổi trong chính sách ngoại giao của Đặng Tiểu Bình, trong đó có cả chính sách ngoại giao láng giềng. Tuy nhiên, tác phẩm vẫn cƣa làm rõ chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với khu vực Mê Kông. Thứ hai, trong cuốn sách “Theo đuổi giấc mơ Trung Hoa: Những thay đổi thể chế của nền ngoại giao Trung Quốc dưới thời Tập Cận bình” của các tác giả Zhao Kejin và Gao Xin (chủ biên), đƣợc tác giả Trần Mai Nhung biên dịch, NXB trƣờng đại học Thanh Hoa, xuất bản năm 2015. Các tác giả giới thiệu các hệ thống nền ngoại giao của Trung Quốc, nền ngoại giao đƣợc lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc, những thay đổi trong hệ thống ngoại giao sau đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII và nguyên nhân của sự chuyển đổi đó. Tác phẩm chỉ khái quát qua những thay đổi trong chính sách ngoại giao ở Trung Quốc chứ chƣa đề cập sâu đến chính sách ngoại giao mà Trung Quốc thực hiện khu vực Mê Kông. Thứ ba, trong tác phẩm “Giấc mộng Trung Hoa: Tư duy nước lớn và tư thế chiến lược của Trung Quốc trong thời kì hậu Hoa Kỳ” (2017) của tác giả Lƣu Minh Phúc làm chủ biên, công ty xuất bản hữu nghị Bắc Kinh, Trung 4 Quốc xuất bản năm 2017. Đây là một trong những cuốn sách mới đƣợc xuất bản ở Trung Quốc. Tác giả đã đƣa ra những quan điểm, phản ánh khá rõ những tham vọng của các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong việc xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Mỹ sau cuộc khủng hoảng kinh tế, bằng cách điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc để đƣa đất nƣớc vƣơn lên đứng đầu thế giới. Tuy nhiên, tác phẩm mới chỉ chủ yếu đề cập đến những thay đổi trong chính sách ngoại giao nƣớc lớn và ngoại giao láng giềng của Trung Quốc, chƣa đi sâu tìm hiểu về chính sách “ngoại giao nước” ở khu vực Mê Kông trong những năm đầu thế kỉ XXI. Ngoài ra, còn một số bài tạp chí đề cập đến chính sách ngoại giao của Trung Quốc đầu thế kỉ XXI nhƣ: “Tác động của chính sách thương mại Trung Quốc đến nền kinh tế Việt Nam và một số hàm ý” của tác giả Nguyễn Thị Loan đƣợc đăng trong Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng, Kỳ II, tháng 3/2016; “Các đập nƣớc của Trung Quốc và tác động đến an ninh khu vực”, của tác giả Nhật Linh, đƣợc in trong tạp chí nghiên cứu biển Đông (4/2016); “Điều chỉnh chính sách kinh tế của Trung Quốc năm 2016 và tác động tới Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Thƣờng Lạng, đƣợc in trên Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (5/2016).... Công trình nghiên cứu “Quan hệ Việt – Trung trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, những vấn đề đặt ra và đối sách xử lý giai đoạn 2011 – 2020”,Viện Nghiên cứu Trung Quốc - Viện khoa học xã hội Việt Nam. Hay trong Luận văn thạc sỹ “Ngoại giao năng lượng của Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI”, của tác giả Nguyễn Thị Loan;…. Trên cơ sở của những cuốn tài liệu đã đƣợc tiếp cận, tác giả cảm thấy hầu hết các tài liệu này chủ yếu đề cập đến chính sách ngoại giao của Trung Quốc đầu thế kỉ XXI nhƣng còn rất chung chung, chƣa làm rõ đƣợc chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc đầu thế kỉ XXI. 5 Chính vì vậy , đề tài: Chính sánh “ngoại giao nước” của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI là một đề tài tƣơng đối mới. 3. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nhƣ tên đề tài đã xác định, đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở đã xác định đối tƣợng của khóa luận là chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI. Tác giả đã đƣa ra những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, Khóa luận tập trung phản ánh những nhân tố tác động đến chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc, cụ thể: - Khóa luận phân tích một cách có hệ thống mối quan hệ giữa ngoại giao và “ngoại giao nước”, tính bức thiết cần phải tiến hành ngoại giao nƣớc. Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra đƣợc khái niệm “ngoại giao nước” và nhữngđặc điểm của chính sách ngoại giao nƣớc. - Khóa luận khái quát về tình hình thế giới, khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI và sự trỗi dậy vƣơn lên mạnh mẽ của Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI. - Phân tích, đánh giá những nhân tố tác động thúc đẩy Trung Quốc tiến hành chính sách “ngoại giao nước” ở khu vực Mê Kông trong những năm đầu thế kỉ XXI. Thứ hai, Khóa luận phân tích đƣợc chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc thực hiện ở khu vực Mê Kông đầu thế kỉ XXI, bao gồm các lĩnh vực chính trị - an ninh; kinh tế và văn hóa - xã hội. Từ đó đƣa ra phản ứng của 6 các nƣớc ở khu vực Mê Kông trƣớc chính sách của Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI. Thứ ba, bƣớc đầu đánh giá những tác động của chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc đối Trung Quốc và đối với nền kinh tế - chính trị khu vực Mê Kông nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng trong những năm đầu thế kỉ XXI. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian nghiên cứu của khóa luận: là quá trình Trung Quốc tiến hành chính sách “ngoại giao nước” trên phạm vi khu vực Mê Kông, đặc biệt là vùng hạ lƣu của khu vực sông Mê Kông (bao gồm: Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam). Phạm vi thời gian khóa luận tập trung nghiên cứu: là những năm đầu đầu thế kỉ XXI, để thuận tiện cho việc nghiên cứu chúng tôi lấy thập niên đầu tiên (2000-2016) của thế kỉ XXI làm giới hạn về mặt thời gian. Đây là khoảng thời gian mà Trung Quốc tiến hành chính sách “ngoại giao nước” ở khu vực Mê Kông một cách khá rõ nét. 4. Phƣơng pháp và phƣơng pháp luận nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả đã dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và dựa vào những quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong vấn đề nghiên cứu lịch sử. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài khóa luận thuộc chuyên ngành lịch sử thế giới cận đại và hiện đại, nên trong quá trình nghiên cứu tác giả đã vận dụng hai phƣơng pháp chính là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lô-gíc để giải quyết các vấn đề 7 do đề tài đặt ra. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều các phƣơng pháp khác nhƣ: phƣơng pháp sƣu tầm, phƣơng pháp đối chiếu, phƣơng pháp liên ngành, phƣơng pháp tổng hợp… 5. Đóng góp của khóa luận Về mặt lí luận, việc nghiên cứu chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI nhằm: - Tìm hiểu những nhân tố thức đẩy quá trình Trung Quốc thực hiện chính sách “ngoại giao nước” ở khu vực Mê Kông, - Quá trình thực hiện và triển khai chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc và phản ứng của các nƣớc ở hạ nguồn Mê Kông khi Trung Quốc thực hiện chính sách này - Những tác động của loại hình ngoại giao mới này. Mặt khác, thông qua việc nghiên cứu này làm nổi bật đặc điểm, tính chất của chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong những năm vừa qua. Về phƣơng diện thực tiễn, việc nghiên cứu này góp phần lý giải những biến động của tình hình chính trị - kinh tế thế giới, khu vực trong những năm vừa qua, cũng nhƣ những tác động của nó đến các nƣớc láng giềng trong khu vực, trong đó có Việt Nam. 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục. Đề tài còn đƣợc cấu trúc gồm có 2 chƣơng: Chƣơng 1: Những nhân tố tác động đến chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc đầu thế kỉ XXI Chƣơng 2: Quá trình thực hiện chính sách “ngoại giao nước” của Trung Quốc và những tác động đầu thế kỉ XXI 8 CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO NƢỚC” CỦA TRUNG QUỐC ĐẦU THẾ KỈ XXI 1.1. KHÁI NIỆM “NGOẠI GIAO NƢỚC” (Water diplomacy) 1.1.1. Khái niệm Ngoại giao Từ “ngoại giao” trong tiếng Anh là “Diplomacy”. Ban đầu, từ “diplomatics” đƣợc dùng để chỉ việc bảo quản và đánh giá các tƣ liệu và công văn chính thức, chủ yếu là các điều ƣớc quốc tế. Đến thế kỷ XVIII, các tài liệu ngoại giao ngày càng có nghĩa là những tài liệu liên quan đến quan hệ quốc tế, và từ “diplomatic corps”1 bắt đầu đƣợc sử dụng. Năm 1796, nhà triết học ngƣời Anh Edmund Burke dùng cụm từ “double diplomacy”2 để lên án chính sách ngoại giao nƣớc đôi của Pháp trong chiến tranh Napoleon, và kể từ đó thuật ngữ “diplomacy” đã đƣợc sử dụng rộng rãi gắn liền với chính trị quốc tế và chính sách đối ngoại. “Ngoại giao” theo cách hiểu phổ biến nhất là việc thực hiện các mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền thông qua liên lạc, thƣơng lƣợng, gây ảnh hƣởng cũng nhƣ điều chỉnh những khác biệt. Hoạt động ngoại giao đã xuất hiện từ lâu đời ở nhiều nền văn minh trên thế giới, tiêu biểu nhƣ ở Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại. Trải qua nhiều thế kỷ, việc tiến hành công tác ngoại giao chính thức thƣờng đƣợc thực hiện qua việc cử các phái đoàn ngoại giao đến các quốc gia khác nhau. Điều này tạo nên hệ thống liên lạc rõ ràng tuân thủ theo các 1 Diplomatic corps (tức Phái đoàn Ngoại giao) là cơ quan tập thể của các nhà ngoại giao ở nƣớc ngoài đƣợc công nhận cho một quốc gia hoặc cơ quan cụ thể. 2 Double diplomacy (tức ngoại giao kép) là một biến thể của ngoại giao tiêu chuẩn với bản đồ chuẩn. Mỗi ngƣời trong số bảy ngƣời chơi điều khiển hai sức mạnh lớn thay vì một, nhƣng mỗi sức mạnh tuyệt vời cũng đƣợc kiểm soát bởi hai ngƣời chơi. 9 nguyên tắc đƣợc công nhận giữa các quốc gia hữu quan nhƣ: trao đổi đại sứ, duy trì hoạt động các đại sứ quán ở thủ đô và sự tham gia vào các cuộc họp hay đàm phán. Mặc dù vậy, hiện vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm ngoại giao. Theo nhà ngoại giao, nhà báo ngƣời Anh Harold Nicolson, “Trong ngôn ngữ nói, từ “ngoại giao” được sử dụng để ám chỉ nhiều nội dung rất khác nhau. Nó được hiểu là quan hệ đối ngoại, trong các trường hợp khác lại ngụ ý là đàm phán. Từ đó cũng được sử dụng để nói đến cơ quan ở nước ngoài của Bộ Ngoại giao. Cuối cùng từ đó còn có nghĩa là khả năng đặc biệt khôn khéo trong đàm phán quốc tế và với nghĩa xấu là xảo quyệt trong thương lượng”[5; tr.174]. Trong khi đó, từ điển của Pháp “Le Nouveau Petit Robert” định nghĩa: Ngoại giao là hoạt động chính trị liên quan đến các mối quan hệ giữa các quốc gia nhƣ đại diện quyền lợi của một chính phủ ở nƣớc ngoài, quản lý công việc quốc tế, hƣớng dẫn và tiến hành đàm phán giữa các quốc gia. Tại Việt Nam, giáo trình “Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại giao” đƣa ra định nghĩa nhƣ sau: “Ngoại giao là một khoa học mang tính tổng hợp, một nghệ thuật của những khả năng, là hoạt động của các cơ quan làm công tác đối ngoại và các đại diện có thẩm quyền làm công tác đối ngoại của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi, lợi ích, quyền hạn của quốc gia, dân tộc ở trong nước và trên thế giới, góp phần giải quyết các vấn đề quốc tế chung, bằng con đường đàm phán vá các hình thức hoà bình khác” [5; tr.175-176]. Hay trong “Từ điển Ngoại giao” của Liên Xô trƣớc đây do A. Gromyk chủ biên thì ngoại giao đƣợc hiểu là công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, là tổng thể những biện pháp phi quân sự, những phƣơng pháp, thủ thuật đƣợc sử dụng có tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu nhiệm vụ; hoạt động chính thức của ngƣời đứng đầu nhà nƣớc, 10 chính phủ, bộ trƣởng, bộ ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở nƣớc ngoài, các đoàn đại biểu tại các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, pháp nhân và công dân mình ở nƣớc ngoài. “Đồng thời ngoại giao là nghệ thuật đàm phán nhằm ngăn chặn hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm cách thoả hiệp và đưa ra những giải pháp có thể được các bên chấp nhận cũng như việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế” [4; tr.34]. 1.1.2. Khái niệm “Ngoại giao nƣớc” (Water diplomacy) Từ thuở sơ khai của xã hội loài ngƣời, nƣớc đã là nguồn cội của thách thức, đổi mới và tiến bộ. Mọi ngƣời cần có nƣớc mỗi ngày với vô số mục đích để đảm bảo sự sống, sức khỏe và sinh kế. Nhu cầu của con ngƣời ngoài việc đƣợc phản ánh qua nhu cầu của tự nhiên, nhu cầu này chịu sự điều chỉnh của chế độ thủy văn (gồm hạn hán và lũ lụt tức là khi sẽ có lúc có quá nhiều hay quá ít nƣớc) thì còn chịu tác động của chính sách ngoại giao của các quốc gia trong việc quản lí nguồn nƣớc xuyên biên giới. Lợi ích liên quan đến nƣớc và các quan điểm về sử dụng nƣớc hiệu quả nhất phục vụ cho lợi ích quốc gia rõ ràng là rất đa dạng. Giải quyết sự phức tạp và đa dạng này là một thách thức xã hội và chính trị mà nếu áp dụng phƣơng thức quản lý và quan hệ đối ngoại về nƣớc một cách áp đặt từ trên xuống, bằng “mệnh lệnh - kiểm soát” sẽ không mang đến các giải pháp lâu bền [40]. Với rất nhiều đòi hỏi khác nhau về cách thức sử dụng và quản lý nƣớc, việc lựa chọn cách thức nào có thể ảnh hƣởng đến quyền lợi và lợi ích của nhiều bên liên quan. Đối tƣợng có thể bị ảnh hƣởng bởi các lựa chọn này rất đa dạng tùy theo từng vấn đề, từng mục đích sử dụng nƣớc có liên quan và phạm vi của ảnh hƣởng ở cấp độ: cấp địa phƣơng, quốc gia, lƣu vực, khu vực hay toàn cầu. Quyết định yếu kém trong các trƣờng hợp này có thể sẽ có thể 11 tạo ra sự tức giận, lờ đi hay làm mất đi quyền dùng nƣớc của các quóc gia đang sử dụng nguồn nƣớc chung và có thể dẫn đến tranh chấp và xung đột. Để ngăn ngừa và giải quyết xung đột về nƣớc, mối quan hệ về ngoại giao nƣớc đƣợc đƣa ra tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác về nƣớc. Ngoại giao và các công cụ so sánh hiện đang đƣợc áp dụng bởi nhiều quốc gia, nhà nƣớc và phi nhà nƣớc để tạo điều kiện cho sự hợp tác đó. Ngoại giao nƣớc sẽ giúp nâng cao và cải thiện hiệu quả của quá trình ngoại giao. Đây là tầm quan trọng tối đa để xác định các yếu tố tác động đến sự hợp tác tại các cấp khác nhau. Sự sẵn có, phân bổ và việc tiếp cận tài nguyên nƣớc xác định hạnh phúc, thịnh vƣợng và ổn định xã hội trên toàn thế giới. Hiện tại, nhƣ nhu cầu nƣớc ngọt tăng, tiếp cận đến các nguồn nƣớc ngọt trở thành vấn đề ngày càng cấp thiết. Sự tiếp cận không bình đẳng kết hợp với các vấn đề khác của xã hội (thất nghiệp, phân biệt đối xử trong xã hội,…) có thể làm sâu sắc hơn phân chia giữa các quốc gia và tăng tiềm năng cho xung đột có thể xảy ra. Theo Swyngedouw: "trên thực tế, không đồng đều quản lí hay kiểm soát nước luôn là kết quả của kết hợp địa lý và điều kiện, lựa chọn kỹ thuật và chính trị sắp đặt và nước. Bất bình đẳng phải được hiểu ngày càng trở thành kết quả của sự tương tác lẫn nhau giữa ba yếu tố này " [41]. Trong trƣờng hợp xung đột tiềm ẩn các bên liên quan sẽ cần tìm cách để giải quyết các vấn đề căng thẳng, để ngăn ngừa sự leo thang. Tuy nhiên, một số bên có thể có lợi nhuận từ vấn đề đó, hoặc thậm chí thúc đẩy, xã hội bất ổn và xung đột, vì họ có thể đạt đƣợc những ảnh hƣởng chính trị, đóng cửa, và củng cố đảng cầm quyền của các quốc gia đó. Trong mối liên kết chặt chẽ giữa các quốc gia với thế giới, nƣớc phải là một phần không thể tách rời của bất kỳ thảo luận về nông nghiệp, năng lƣợng, y tế công cộng, vận chuyển, môi trƣờng và tƣơng lai. Tuy nhiên, “vấn đề về nước rất phức tạp để quản lý, vì những khớp nối phức tạp của họ với nhiều vấn đề trong tự nhiên và các 12 lĩnh vực xã hội, đến một địa điểm chia sẻ nguồn nước là cả vấn đề, cũng như tìm ra các giải pháp khả thi là khó khăn do phân chia các giá trị và lợi ích” [6; tr.92]. Gắn liền những khác biệt này đòi hỏi thoả thuận một quá trình ngoại giao thuận lợi. “Ngoại giao nước” dựa trên một cách tiếp cận lợi ích lẫn nhau, có thể đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong ngăn ngừa, giảm nhẹ và giải quyết các mâu thuẫn nƣớc đang gia tăng. Khái niệm về “ngoại giao nước” đƣợc xác định bởi các học giả khác nhau và các tổ chức theo cách khác. Tuy nhiên, họ đều chia sẻ một sự hiểu biết chung về tầm quan trọng của việc phải tiến hành “ngoại giao nước” bao gồm các quyền lợi của nhiều quốc gia và các bên liên quan trong quá trình hợp tác. Thực tiễn cho thấy xung đột liên quan đến vấn đề nƣớc ngăn chặn và giải quyết vấn đề nƣớc phần lớn là kết quả của các quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, đàm phán, hòa giải và hòa giải có nguồn gốc từ một sự hiểu biết sâu sắc về xã hội, văn hoá, kinh tế, môi trƣờng điều kiện và bối cảnh chính trị của các quóc gia. Điều này đƣợc hỗ trợ bởi một đội ngũ các học giả đánh giá và phân tích, tích hợp hệ thống nƣớc. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, tác giả đƣa ra khái niệm ngoại giao nƣớc nhƣ sau: “Ngoại giao nước” bao gồm tất cả các biện pháp của nhà nƣớc và các tổ chức phi nhà nƣớc có thể thực hiện để ngăn ngừa hoặc phòng chống, giải quyết xung đột và tạo thuận lợi hợp tác liên quan đến khả năng có nƣớc, phân bổ hoặc sử dụng bên ngoài và bên trong các quốc gia, công cộng và tƣ nhân của các bên liên quan. Do đó, “ngoại giao nước” là những nỗ lực liên quan có thể và sẽ diễn ra tại nhiều cấp tùy thuộc vào từng tình huống, đƣợc chứng minh thông qua các nghiên cứu thực hiện dựa vào khuôn khổ phát triển trong văn bản pháp lí. “Ngoại giao nước” có thể liên quan đến việc đàm phám giữa các lãnh đạo cấp cao chính thức, sự tƣơng giao ngoại giao 13 giữa các quốc gia hoặc xây dựng mối quan hệ thông qua cuộc đối thoại không chính thức. 1.1.3. Đặc điểm của “Ngoại giao nƣớc” (Warter diplomacy) “Ngoại giao nước” là một nhánh của ngoại giao, áp dụng cho các cơ chế song phƣơng và đa phƣơng để đàm phán về các vấn đề nƣớc với nhau và giữa các quốc gia. Ngoại giao nƣớc là các vấn đề đối thoại, đàm phán và hòa giải các xung đột lợi ích giữa các quốc gia cùng sử dụng chung một nguồn nƣớc. Ngoại giao nƣớc bao gồm năng lực thể chế và chính trị quyền lực của các quốc gia. Có rất nhiều kinh nghiệm ngoại giao, trong đó các phƣơng pháp kỹ thuật và chính trị đƣợc tích hợp trong cùng một quá trình đàm phán nhƣ: Đàm phán theo Công ƣớc của Liên Hợp Quốc năm 1997, về Sử dụng không liên quan đến nguồn nƣớc quốc tế. Ví dụ đã chứng minh sự tích hợp các vấn đề chính trị và kỹ thuật này mang lại những thỏa hiệp trong vấn đề phân phối nƣớc và cải thiện môi trƣờng tâm lý nhằm thiết lập cho giải quyết cuộc đấu tranh chính trị lớn hơn. “Ngoại giao nước” (song phƣơng, đa phƣơng) là một công cụ để thực hiện một số các mục tiêu liên quan đến lợi ích quốc gia của nhà nƣớc. Đó là về đối thoại, đàm phán và giải quyết xung đột lợi ích giữa các quốc gia sử dụng chung một nguồn nƣớc. Ngoại giao nƣớc có cùng đặc tính đề cập đến trƣớc đó với mục đích kết luận các thỏa thuận về nƣớc, trong chiến lƣợc và kế hoạch chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia của các nƣớc. “Ngoại giao nước” liên quan đến năng lực thể chế và chính trị quyền lực của các quốc gia. Tại các cơ quan đa phƣơng, quá trình ra quyết định là khác nhau. Điển hình là Ủy ban Luật quốc tế (ILC) làm việc trên 25 năm trở lên để đƣa ra một văn bản có thể chấp nhận đƣợc Đại hội đồng LHQ về Công ƣớc về nƣớc năm 1997. Vì vậy, các công cụ ngoại giao nƣớc và kỹ thuật khác 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan