LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Chính quyền Xô Viết ở Nghệ An” chúng
tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ quý báu.
Trước tiên chúng tôi muốn được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ
Trần Văn Thức đã tận tình hướng dẫn, có nhiều gợi mở mới mẻ, độc đáo giúp
chúng tôi phát huy khả năng sáng tạo trong công trình nghiên cứu này.
Đây cũng là công trình khoa học quan trọng nhất trong toàn bộ khoá học
của mình, là kết quả bước đầu của bản thân. Qua đây cho phép tôi được nói lời
cảm ơn tới tập thể các thầy cô giáo khoa Lịch Sử - những người đã luôn quan
tâm, giúp đỡ, dạy bảo ân cần thế hệ chúng tôi cho đến hôm nay và cả ngày mai.
Chúng tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các cơ quan, đơn vị đã giúp
tôi về mặt tư liệu: Thư viện khoa Lịch sử, Thư viện trường Đại học Vinh, Thư
viện tỉnh Nghệ An, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Được sự động viên, khích lệ của gia đình, bạn bè. Chúng tôi trân trọng
cám ơn những tình cảm tốt đẹp ấy.
Cuối cùng chúng tôi chờ đợi những ý kiến đóng góp của thầy cô và các
bạn để khoá luận hoàn thiện hơn nữa.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
1
MỤC LỤC
Trang
A. Mở đầu
1. Lý do chon đè tài
2. Lịch sử vấn đề
3
4
3. Đối tượng nghiên cứu
5
4. Phương pháp nghiên cứu
5
5. Bố cục khoá luận
5
B. Nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng chính quyền cách
mạng
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề chính quyền trong
cách mạng vô sản
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vấn đề chính
quyền công nông
1.2. Sơ lược về một số chính quyền Xô Viết trên thế giới
Chương 2. Sự ra đời và hoạt động của chính quyền Xô Viết ở Nghệ An
2.1. Chính quyền Xô Viết ra đời
2.1.1. Bối cảnh trong nước
2.1.2. Đặc điểm của Nghệ An
2.1.3. Sự ra đời của các Xô Viết trên đất Nghệ An
2.2. Hoạt động của chính quyền Xô Viết
2.2.1. Thời gian tồn tại và địa bàn hoạt động của chính quyền Xô Viết
2.2.2. Chính quyền Xô Viết Nghệ An - Những hoạt động chủ yếu
Chương 3. Đặc điểm, ý nghĩa, nguyên nhân thất bại và bài học kinh
nghiệm của chính quyền Xô Viết Nghệ An
3.1. Đặc điểm của chính quyền Xô Viết Nghệ An
3.2. Ý nghĩa lịch sử
3.3. Nguyên nhân thất bại và bài học kinh nghiệm
C. Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
A. MỞ ĐẦU
6
6
1. Lý do chọn đề tài
2
6
6
11
14
25
25
25
28
38
47
47
55
62
62
64
70
88
90
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời liền gương cao
ngọn cờ cách mạng đoàn kết và lãnh đạo toàn dân tộc ta tiến lên đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp làm nên cao trào cách mạng đầu tiên của
quần chúng công nông. Cao trào cách mạng 1930 – 1931 đỉnh cao là Xô Viết
Nghệ Tĩnh đã thể hiện một nghị lực và sức mạnh phi thường của công nông làm
lung lay, tê liệt, tan rã bộ máy chính quyền địch. Và từ trong cao trào cách mạng
này chính quyền Xô Viết đã ra đời ở nhiều nơi thuộc hai tỉnh Nghệ An – Hà
Tĩnh. Sự ra đời của chính quyền Xô Viết trên mảnh đất Nghệ An là kết quả tuyệt
diệu của quần chúng cách mạng qua nhiều năm trời phấn đấu hi sinh. Mặc dù
thất bại nhưng chính quyền Xô Viết đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu
cho cách mạng, những năm tháng tồn tại của chính quyền Xô Viết là dấu son
chói lọi trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Là người con đất Bắc, đồng thời là sinh viên chuyên ngành Lịch sử được
học tập trên vùng đất Nghệ An anh hùng, nơi cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh diễn
ra, tôi nhận thấy việc đi sâu vào tìm hiểu về sự ra đời và hoạt động của chính
quyền Xô Viết ở Nghệ An là một việc làm thiết thực, đồng thời còn là sự tri ân
với mảnh đất đã gắn bó, nuôi dưỡng mình trong suốt quãng đời sinh viên.
Thực hiện đề tài này tôi chỉ muốn góp một phần hiểu biết còn ít ỏi của
mình vào công trình nghiên cứu để cung cấp cho chúng ta một cách nhìn toàn
diện hơn về chính quyền Xô Viết ở Nghệ An những năm 1930-1931.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Chính quyền Xô
Viết ở Nghệ An” làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh là một sự kiện
lịch sử có ý nghĩa trọng đại, bởi vậy nó đã thu hút được không ít người quan tâm
3
nghiên cứu. Vấn đề này đã được trình bày ở các góc độ khác nhau như trong
sách:
- “Xô Viết Nghệ An” do Hoàng Trung Thông chủ biên xuất bản năm 1950
- “Xô Viết Nghệ Tĩnh” do Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất
bản năm 1962.
- “Mấy vấn đề bài học Xô Viết Nghệ Tĩnh” của Nguyễn Khánh Toàn, xuất
bản năm 1988.
- “Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 – 2000)” do Phạm Xanh làm chủ biên, xuất
bản năm 2000.
- “ Xô Viết Nghệ Tĩnh” do tiểu ban nghiên cứu lịch sử Đảng Nghệ An xuất
bản năm 2000.
Các tác phẩm này phấn lớn chỉ đề cập đến nguyên nhân, diễn biến, thoái
trào, kết quả và ý nghĩa của cao trào Xô Viết ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong đó
có nói đến sự ra đời của chính quyền Xô Viết nhưng còn khái quát.
- Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An” tập I (1930 – 1945), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 1998 trình bày Đảng bộ Nghệ An lãnh đạo
nhân dân đấu tranh trong cao trào cách mạng 1930 – 1931. Trong đó có điểm
qua về sự ra đời và hoạt động của các Xô Viết trên đất Nghệ An.
Đồng thời đã có rất nhiều cuộc Hội nghị, Hội thảo khoa học về Xô Viết
Nghệ Tĩnh mà gần đấy nhất là Hội thảo “65 năm Xô Viết Nghệ Tĩnh” năm 1995,
Hội thảo “70 năm Xô Viết Nghệ Tĩnh” năm 2000,….Các Hội thảo đã thu hút
được sự tham gia của nhiều nhà khoa học. Hội thảo đã đóng góp nhiều ý kiến
quý báu, cung cấp thêm nhiều tư liệu mới, nhận thức mới về cao trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh. Bản thân tôi nhận thấy các công trình đều chỉ đề cập một cách khái
quát về chính quyền Xô Viết ở Nghệ An. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu
của người đi trước, chúng tôi đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống
và khái quát hơn để hoàn thành công trình nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp của
mình.
4
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính quyền Xô Viết ở Nghệ An. Cụ
thể hơn là tập trung làm rõ hoàn cảnh dẫn đến sự ra đời của chính quyền Xô Viết
trên mảnh đất Nghệ An, hoạt động chủ yếu cũng như đặc điểm,ý nghĩa, nguyên
nhân thất bại và bài học kinh nghiệm của chính quyền Xô Viết Nghệ An. Do đó
chúng tôi chủ yếu đi sâu tìm hiểu, phân tích các vấn đề có liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp đến đối tượng đã xác định trên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đặc trưng của đề tài, từ nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu,
chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử để tái hiện
quá khứ như nó đã tồn tại. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp liên
ngành như: so sánh, tổng hợp, khái quát hoá… đặc biệt là trong công tác sưu
tầm, chọn lọc, xác minh, phê phán tư liệu để giải quyết nhiệm vụ mà đề tài đặt
ra.
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của khoá
luận được trình bày ở 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng chính quyền cách
mạng
Chương 2: Sự ra đời và hoạt động của chính quyền Xô Viết ở Nghệ An
Chương 3: Đặc điểm, ý nghĩa, nguyên nhân thất bại và bài học kinh
nghiệm của chính quyền Xô Viết Nghệ An.
5
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG
CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
1.1. Cở sở lý luận
1.1.1 Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề chính quyền trong cách
mạng vô sản
Những nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác đã chỉ rằng vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Mục đích của cách mạng vô sản cũng là
nhằm lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản (gcts).
Cách mạng chính trị giành chính quyền được C.Mác và Ph.Ăngghen gọi
là giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng công nhân tức là cách mạng xã hộicách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Chính
quyền chỉ là mục tiêu trực tiếp, là điều kiện là tiền đề để đi tới mục tiêu lâu dài
là xây dựng thành công chế độ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ
nghĩa.
Vấn đề chính quyền còn được đặt ra trong các thời kỳ tiếp theo của cách
mạng đó là xây dựng chính quyền mới, sử dụng nó để xây dựng kinh tế, phát
triển văn hóa. Giành chính quyền đi liền với xây dựng, củng cố, hoàn thiện và
thực thi quyền lực. Giành, giữ và thực thi quyền lực nhằm giải phóng loài người
và phát triển xã hội, thực hiện mục tiêu lý tưởng cách mạng đã vạch ra.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu và tổng kết thực tiễn đấu tranh giai
cấp của giai cấp công nhân ở các nước Châu Âu từ nửa sau thế kỷ XIX, đặc biệt
là đấu tranh giai cấp ở Pháp, trong đó có công xã Pari 1871. Từ đó, các ông khái
quát về lý luận và kinh nghiệm lịch sử trong cách mạng chính trị của giai cấp
6
công nhân. Các ông đã bàn đến tính tất yếu của cách mạng vô sản, sự chín muồi
của tình thế cách mạng và những phương thức giành chính quyền về tay giai cấp
công nhân.
Sau này, V.I.Lênin đã có những phát triển mới về lý luận cách mạng giành
chính quyền, về khởi nghĩa vũ trang từ thực tiễn cách mạng Nga và cách mạng
thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành
chủ nghĩa đế quốc
Về phương thức giành chính quyền trong cách mạng, Chủ nghĩa MácLênin cho rằng muốn giành lấy chính quyền tất yếu phải bằng con đường bạo
lực cách mạng.
Bạo lực là một tất yếu phổ biến vì, muốn đánh đổ một sức mạnh vật chất
thì phải sử dụng một sức mạnh vật chất. Giai cấp thống trị cũ không bao giờ tự
nguyện rời bỏ quyền lực. Ngay cả khi bị đánh đổ, kẻ thù của cách mạng vẫn
mưu toan phục hồi lại. Bạo lực, dĩ nhiên có bao hàm sức mạnh quân sự nhưng
bạo lực không đồng nhất với chiến tranh, với vũ khí, với giết chóc, đổ máu. Đó
là sự tổng hợp sức mạnh, cả vật chất lẫn tinh thần. Bạo lực tuy là tất yếu và phổ
biến nhưng không phải là phương thức duy nhất còn có một phương thức khác,
không bạo lực, đó là con đường hòa bình, thông qua đấu tranh công khai, hợp
pháp, bầu cử, phía cách mạng giành lấy ưu thế và thay đổi quyền lực. Đây là
một khả năng rất quý vì không đổ máu và cũng rất hiếm vì ít khi xảy ra. Người
cách mạng phải tận dụng phương thức ấy khi xuất hiện. Cách mạng giành chính
quyền có thể bằng bạo lực hoặc không bạo lực – điều đó là khách quan, không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan và do tương quan lực lượng quy định.
Vấn đề là ở chỗ, dù bạo lực hay không bạo lực thì về nguyên tắc phải là
cách mạng và triệt để, chứ không rơi vào cải lương, nửa vời. Chỉ có cách mạng
mới chuyển được xã hội cũ sang một hình thái kinh tế - xã hội mới, khác về
7
chất.
Cách mạng vô sản khác hẳn các cuộc cách mạng khác của giai cấp bóc
lột về bản chất và mục đích cách mạng. Các cuộc cách mạng của giai cấp bóc lột
trước đây chủ yếu nhằm xây dựng một chế độ áp bức bóc lột ngày càng hoàn
thiện, tinh vi hơn. Do vậy, kết quả của cuộc cách mạng đó chỉ là sự thay đổi
chính quyền từ tay giai cấp bóc lột này sang giai cấp bóc lột khác. Và về thực
chất, bản chất của bộ máy bạo lực đó cơ bản không thay đổi. C.Mác chỉ ra rằng:
Tất cả các cuộc chính biến đáng nhẽ đập tan bộ máy đó thì lại chỉ làm cho nó
thêm hoàn bị mà thôi.
Từ thực tiễn của công xã Pari, C.Mác đã chỉ ra rằng: Mục tiêu của cách
mạng vô sản không chỉ là lật đổ sự thống trị của giai cấp bóc lột giành lấy chính
quyền nhà nước về tay mình mà còn là xây dựng một kiểu nhà nước hoàn toàn
mới. Vì vậy giai cấp vô sản, sau khi dành được chính quyền không thể sử dụng
bộ máy nhà nước cũ mà phải kiên quyết đập tan triệt để bộ máy bạo lực đó.
Cần thiết phải thủ tiêu ngay bộ máy quân sự quan liêu bao gồm những
công cụ bạo lực của nhà nước cũ như: quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù, trại
giam và toàn bộ hệ thống bộ máy nhà nước từ trung ương xuống địa phương,
bên cạnh đó cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cấm đoán sự hoạt động của
các tổ chức chính trị phản động khác mà trước đây là chỗ dựa và là công cụ thực
hiện chuyên chính của giai cấp bóc lột.
Tuy nhiên, trong tiến trình cách mạng cần chú ý phân biệt bộ máy hành
chính quan liêu với những tổ chức và các cơ sở khác, vốn rất cần thiết cho đời
sống kinh tế và văn hóa xã hội như các cơ quan thống kê, bưu điện, nhà băng…
Giai cấp vô sản cần thiết phải giữ các cơ sở, tổ chức này để cải tạo, tổ chức lại
cho phù hợp với mục tiêu xây dựng một chế độ kinh tế xã hội mới.
Song song với việc đập tan bộ máy quan liêu và bạo lực của chế độ cũ,
8
giai cấp vô sản còn khẩn trương xây dựng bộ máy nhà nước mới của mình- bộ
máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước là tổ chức quyền lực, thực thi và bảo vệ quyền lực của nhân dân
lao động. Một chính quyền nhà nước trong sạch và vững mạnh là nhân tố đảm
bảo chắc chắn nhất để quyền lực nhân dân được thực hiện. Đó chính là nhà nước
mang bản chất giai cấp công nhân, nhà nước chuyên chính vô sản.
Nhà nước chuyên chính vô sản có chức năng thực hiện dân chủ và bảo
đảm dân chủ rộng rãi cho số đông, quyền làm chủ. Tham gia quản lý nhà nước
của nhân dân lao động, đồng thời chấn áp kẻ thù của nhân dân.
Xây dựng nhà nước kiểu mới gắn liền với xây dựng chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước là xây dựng
pháp luật, tăng cường pháp chế, nề nếp kỷ luật và kỷ cương xã hội. Phải đảm
bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh bằng cách giáo dục ý thức và sự
hiểu biết những kiến thức pháp luật cho quần chúng, nghiêm trị những hành vi
vi phạm pháp luật, thực hiện nguyên tắc công bằng, nghiêm minh trong xét xử,
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Nhà nước phải tỏ rõ năng lực và hiệu lực trong quản lý kinh tế - xã hội.
Cùng với việc xây dựng nhà nước mới sau khi đã giành được chính quyền thì
xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền cũng là vấn đề hết sức quan trọng. Nó có ý
nghĩa quyết định đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng cộng sản trở thành lực lượng lãnh
đạo nhà nước và toàn xã hội. Đảng ở vào vị thế nắm quyền lãnh đạo.
V.I.Lê nin đã nhấn mạnh tới những nội dung và những yêu cầu mới đặt ra trong
công tác xây dựng Đảng:
9
- Đảng phải xứng đáng là đội tiền phong, đủ năng lực dẫn dắt giai cấp,
dân tộc, xã hội lên chủ nghĩa xã hội
- Phải xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, có kỷ luật và tuân thủ
nghiêm ngặt chế độ tập trung dân chủ để Đảng có sức mạnh hành động muôn
người như một.
- Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận, tổ chức, làm cho Đảng nâng cao
được năng lực, trí tuệ và năng lực hành động để đảm bảo cho Đảng vững mạnh.
- Khi Đảng trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền, Đảng
là người chịu trách nhiệm cao nhất trước cuộc sống của nhân dân, phải ra sức
củng cố mức quan hệ máu thịt với quần chúng.
Ngoài xây dựng Đảng và Nhà nước, phải chú trọng xây dựng khối liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức vững
chắc. Đó là cơ sở xã hội quan trọng của chế độ chính trị. Khối liên minh này
được củng cố vững chắc trên cơ sở giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích.
Tri thức là lực lượng nòng cốt để nâng cao trình độ học vấn của xã hội và tiến
hành cách mạng tư tưởng văn hóa.
Các tổ chức chính trị- xã hội của quần chúng hợp thành hệ thống chuyên
chính vô sản, hệ thống chính trị. Đó là môi trường xã hội, là trường học giáo dục
ý thức dân chủ của quần chúng. Công đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản và các
đoàn thể khác tham gia tích cực vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà
nước, xây dựng chế độ.
Đây chính là vấn đề chủ yếu về việc giành chính quyền và sau khi đã
giành được chính quyền mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac- Lênin đã chỉ
ra. Nó có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng xã hội chủ nghĩa của các dân tộc trên thế giới trong đó có Việt
10
Nam.
1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vấn đề chính
quyền công nông
Đến cuối thế kỷ XIX , khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn tột
cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc, thì thị trường trong nước không thể thỏa mãn
được khát vọng bóc lột lợi nhuận không giới hạn của nó nữa: “ Những cuộc xâm
chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển phi thường và các cuộc đấu tranh để phân
chia lãnh thổ trên thế giới trở lên vô cùng gay gắt”[ 10, 255].
Ở thời thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, diện tích thuộc địa đã gấp đôi
diện tích của chính nước Pháp( gần 1 triệu km2 so với nửa triệu km2)
Sau khi xâm lược Việt Nam, chúng đã chia nước ta thành 3 kỳ.
- Nam Kỳ với chế độ trực trị, là một thuộc địa của Pháp
- Trung Kỳ là xứ nửa bảo hộ đồng thời còn giữ ngôi vua bù nhìn
- Bắc Kỳ là xứ bảo hộ
Nước Việt Nam bị đặt dưới quyền thống trị của đế quốc Pháp trong gần
một thế kỷ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào giành lại chính quyền thoát khỏi vòng
nô lệ của đế quốc.
Thấm nhuần tư tưởng “ giai cấp vô sản phải bằng con đường cách mạng
mà trở thành giai cấp thống trị”, tư tưởng phải “đập tan” bộ máy thống trị cũ chứ
không cải biến nó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi nhân dân ta đứng lên làm
cách mạng, “lấy sức ta để giải phóng cho ta, đánh đổ chính quyền thực dân và
phong kiến, lập lên chính quyền của mình, không còn con đường nào khác” [22,
14]
“ Đánh đổ chính quyền của thực dân và phong kiến giành chính quyền về
11
tay nhân dân” trở thành khẩu hiệu và phong trào đấu tranh, với ý thức tự giác
ngày càng cao. Để đạt được điều đó nhân dân ta chỉ có một con đường bằng bạo
lực cách mạng, tư tưởng này đã được quán triệt suốt từ đầu đến cuối.
Dưới sự hướng dẫn của Đại hội lần thứ VI (7/1928) của Quốc tế cộng sản
(qua bản đề cương phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa)
, Tuyên ngôn 6/1929 của Đảng cộng sản Đông Dương đã vạch rõ “mục đích
cuối cùng của giai cấp công nhân là tiêu diệt chế độ bóc lột, xây dựng xã hội
cộng sản không bóc lột người. Muốn tiến tới mục đích cao cả ấy, trước hết giai
cấp vô sản phải giành lấy chính quyền, mà muốn giành được chính quyền,giai
cấp công nhân phải liên hiệp với giai cấp nông dân và tiểu tư sản làm cách mạng
tư sản dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, lập nên nền chuyên chính
công- nông, rồi sau đó lại cùng nông dân làm cách mạng vô sản, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản ” [ 2, ]
Theo Nguyễn Ái Quốc viết “ trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và dân tộc, cần phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” [ 21, 302]
Như vậy vấn đề chính quyền được đặt ra và là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của cách mạng Việt Nam
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã khẳng định nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam là: - Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, chuẩn bị
cách mạng ruộng đất để tiến lên lật đổ địa chủ, phong kiến, làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập,thiết lập chính phủ công- nông- binh, tổ chức quân
đội công nông.
-Thủ tiêu các thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn( như công nghiệp, vận
tải, ngân hàng…) của tư bản đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công- nôngbinh quản lý.Thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho
12
dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông
nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
-Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông
giáo dục theo công- nông hóa [ 8, 24]
Trong Luận cương chính trị của Đảng cộng sản Đông Dương cũng khẳng
định sự cần thiết phải giành chính quyền và xây dựng chính quyền Xô viết.
“ Sự cốt yếu của Tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải đấu tranh để
đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các ách bóc lột theo lối tiến tư bản và để
thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để,một mặt nữa là đấu tranh đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt đấu
tranh có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc mới phá được các giai
cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan chế độ
phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa.Muốn thực hành được điều
cốt tử ấy thì phải dựng lên chính quyền Xô Viết công – nông mới là cái khí cụ
rất mạnh mà đánh đổ đế quốc chủ nghĩa phong kiến, địa chủ, làm cho dân cày có
đất mà cày, làm cho vô sản có pháp luật bảo hộ quyền lợi cho mình ” [ 8, 90].
Như vậy Đảng ta và Nguyễn Ái Quốc trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa MácLênin đã có quan điểm đúng đắn về vấn đề chính quyền trong cách mạng, cũng
như thiết lập chính quyền mới sau khi cách mạng thành công.
Những lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin và những tư tưởng của Nguyễn
Ái Quốc, quan điểm của Đảng ta về vấn đề chính quyền là những chỉ dẫn quan
trọng có tác dụng soi đường cho cuộc đấu tranh vì độc lập, vì tự do của dân tộc
ta.
13
1.2 Sơ lược về một số chính quyền Xô Viết trên thế giới
Cho đến nay, trong lịch sử phong trào công nhân và cộng sản thế giới đã
biết đến sự ra đời của rất nhiều các Xô Viết song tiêu biểu phải kể đến: Công xã
Pari, Xô Viết Nga, công xã Quảng Châu…
- Công xã Pari:
Cách mạng công nghiệp ở Pháp hoàn thành vào những năm 60 của thế
kỷ XIX tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản Pháp phát triển nhanh chóng, đồng
thời làm gay gắt thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản. Đến năm
1870, nền Đế chế II do Na-Pô-lê-Ông III làm hoàng đế bước vào thời kỳ khủng
hoảng sâu sắc. Phong trào công nhân lớn mạnh và đang tiến tới một cuộc cách
mạng xã hội.
Trước tình hình đó, chính phủ đế chế II quyết định mở một cuộc chiến
tranh với Phổ để phô trương uy thế của mình, hằng khắc phục nguy cơ khủng
hoảng trong nước. Vì vậy cuộc chiến tranh Pháp-Phổ đã bùng nổ 19/7/1870.
Đầu 9/1870, quân Na-Pô-Lê-Ông III thua lớn ở Xơ-Đăng (bắc Pháp).
Ngày 4/9/1870, nhân dân Pari khởi nghĩa lật đổ đế chế II, nhằm thiết lập nền
cộng hòa và tổ chức kháng chiến chống quân Phổ đang tiến sâu vào đất Pháp.
Một chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản được thành lập để lo việc chống
ngoại xâm. Nhưng khi quân Phổ tiến đánh vào Pari, thì chính phủ tư sản quyết
định đầu hàng, đồng thời quay lại đàn áp công nhân Pari đang cầm vũ khí kháng
chiến. Chúng mưu toan tước vũ khí của công nhân Pari.
Tất cả tình hình trên đã làm cho ngọn lửa cách mạng vô sản bùng lên.
Ngày 18/3/1871, công nhân Pari đã vũ trang nổi dậy, lật đổ chính quyền tư sản.
Cơ quan cao nhất của nhà nước mới là Hội đồng công xã do phổ thông đầu
phiếu bầu ra, tập trung trong tay cả quyền lập pháp và hành pháp. Công xã thành
14
lập các ủy ban: Ủy ban quân sự, ủy ban an ninh, xã hội, quan hệ đối ngoại, tư
pháp, tài chính, thương nghiệp, lương thực, giáo dục , dịch vụ xã hội…
Đến ngày 1/5/1871 thành lập ủy ban cứu quốc
Các ủy ban này đều chịu trách nhiệm trước Hội đồng công xã, mỗi ủy ban
do một ủy viên của Hội đồng công xã làm chủ tịch. Công xã quy định những ủy
viên nào không được nhân dân tín nhiệm nữa thì có thể bị bãi miễn, cán bộ nhân
viên nhà nước được lĩnh ngang với mức lương trung bình của công nhân.
Công xã ra lệnh giải tán quân đội thường trực và hệ thống quan lại cũ.
Công xã quyết định tách nhà thờ ra khỏi những hoạt động của nhà nước, nhà
trường không được dậy kinh thánh. Những tài sản của các thánh hội tôn giáo,
bất động sản hay động sản đều coi là tài sản quốc gia.
Nhà nước vô sản có ý thức quan tâm đến các lực lượng xã hội, nhất là giai
cấp công nhân và cố gắng thiết lập liên minh công- nông.
-Về kinh tế - xã hội: Công xã quyết định giao cho công nhân quản lý tất cả
các xí nghiệp và công xưởng mà bọn chủ đã bỏ chốn khỏi Pari.
Đối với những xưởng mà bọn chủ còn ở lại thì công xã quyết định quản lý
nhà máy thông qua việc kiểm soát tiền lương.
Hội đồng công xã ra sắc lệnh cấm đánh đập, cúp phạt đối với công nhân.
Công xã đề ra chế độ ngày làm 8 giờ, đồng thời ra sắc lệnh tăng lương cho công
nhân. Lương bổng được sắp xếp theo năng lực chuyên môn.
Công xã ra lệnh bảo đảm quyền công dân của phụ nữ, vạch kế hoạch xây
dựng các nhà trẻ, và vườn trẻ cho con em công nhân.
- Về văn hóa, giáo dục:
Công xã quyết định thành lập hệ thống giáo dục, đồng thời lựa chọn giáo
15
viên mới thay thế cho lớp cũ mà đa số là cha cố, quyết định tăng lương cho giáo
viên lên gấp 2, 3 lần trước đó.
Công xã ra lệnh thi hành chế độ giáo dục bắt buộc và không mất tiền, cấp
phát đồ dùng học tập cho các trường.
Công xã quyết định thủ tiêu kinh doanh nghệ thuật tư nhân, và giao rạp
hát cho hội nghệ sĩ sân khấu quản lý. Các rạp hát giảm giá vé. Những viện bảo
tàng của Pari được khôi phục…
Thế nhưng Công xã mải lo sự nghiệp xây dựng một xã hội mới vì con
người, hân hoan trong niềm sáng tạo, hình như quên rằng bọn Vecsai đang điên
cuồng lồng lộn, mong muốn bằng mọi cách bóp chết công xã.
Sau khi trốn thoát về Vecsai, Chie tập hợp lực lượng để chuẩn bị lực
lượng chiến tranh đánh lại Pari.
Ngày 2/4, chúng tấn công Pari. Các chiến sĩ công xã, nam nữ công nhân
thủ đô chiến đấu rất anh dũng nhưng không tránh khỏi thất bại do lực lượng quá
chênh lệch.
Ngày 25/5 sau một thời gian chiến đấu anh dũng, kiên quyết, những chiến
sĩ cuối cùng đã ngã xuống. Công xã Pari thất bại.
Từ sự thất bại của công xã Pari đã để lại cho giai cấp vô sản, và các nhân
tộc bị áp bức những bài học xương máu, nhất là bài học về vấn đề chính quyền
của giai cấp vô sản.
Công xã Pari đã chỉ cho chúng ta thấy rằng giai cấp vô sản đã nắm chính
quyền thì không thể không đập tan bộ máy nhà nước tư sản và thay vào đó là
một bộ máy nhà nước mới, tức là phải thay chuyên chính tư sản bằng chuyên
chính vô sản. Công xã cũng đã chỉ ra rằng: Giành chính quyền là việc khó,
16
nhưng giữ chính quyền lại là việc khó hơn. Muốn củng cố chính quyền, một mặt
phải hết sức mở rộng dân chủ, mặt khác không được lơ là cảnh giác, không thể
không kiên quyết với bọn phản cách mạng, không thể không quan tâm đến việc
củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Muốn giành chính quyền và
củng cố chính quyền cách mạng phải không ngừng tăng cường khối đoàn kết,
liên minh công- nông. Công xã Pari chỉ rõ rằng chính quyền đã về tay giai cấp
vô sản song vì không thực hiện được liên minh công – nông vững chắc lên cuối
cùng cũng thất bại.
- Xô Viết Đức ( 1919)
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Đức bại trận hoàn toàn bị suy sụp
về kinh tế, chính trị, quân sự. Tai hoạ của chiến tranh càng làm mâu thuẫn giai
cấp gay gắt đến tột đỉnh. Tình thế của cách mạng nhằm lật đổ chế độ cũ, xây
dựng chế độ mới nhanh chóng chín muồi.
Cuộc cách mạng bắt đầu bùng nổ ngày 3/ 11/ 1918 bằng cuộc khởi nghĩa
của thuỷ thủ ở Kien. Công nhân Kien đã ủng hộ những người khởi nghĩa, họ
tuyên bố tổng bãi công. Ngay sau đó ở Kien đã lập ra các Xô Viếtđại biểu công
nhân và thuỷ thủ, Xô Viết này bắt đầu vũ trang cho quần chúng.
Chỉ trong vòng một tuần lễ sau đó, ở Liubếch, Hămbuốc, Brêmen,
Laixích, Muyních và nhiều thành phố khác lần lươt nổ ra các cuộc khởi nghĩa.
Quần chúng đã lật đổ các chính phủ phản động, thành lập chính quyền Xô Viết
đại biểu công nhân và binh lính. Giai cấp nông dân và tầng lớp tiểu tư sản cũng
tham gia cách mạng ngày càng đông đảo hơn. Làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của
nông dân lan rộng.
Ngày 9/11/1918, công nhân và binh lính Béclin đã tổng bãi công và khởi
nghĩa vũ trang. Quần chúng khởi nghĩa đã đập tan sự kháng cự của bọn sĩ quan
quân đội trung thành với chính phủ chiếm dược thành phố. Vua Đức Vinhem II
17
buộc phải thoái vị và rời đất nước. Nền quân chủ bị sụp đổ. Đảng Xã hội- dân
chủ đứng ra lập chính phủ mới thay thế chính phủ cũ. Ngày 10/11/1918, Hội
nghị đã phê chuẩn chính phủ Xã hội-dân chủ ( do Êbe cầm đầu) và gọi chính
phủ ấy là “ Xô viết đại biểu toàn quyền của nhân dân”. Chính phủ đã đề ra một
số cải cách tiến bộ: Tuyên bố tự do hội họp, tuyên bố quyền đầu phiếu phổ
thông, ngày làm 8 giờ, khôi phục và mở rộng đạo luật bảo hộ lao động, tuyên bố
ân xá tù chính trị…
Những biện pháp như vậy không đụng chạm đến cơ sở của chế độ tư bản.
Vì vậy, những người công nhân và binh lính cách mạng, dưới sự chỉ đạo của liên
đoàn “ Xpactacut ”, đã kiên quyết đáu tranh đòi lật đổ chủ nghĩa tư bản, thành
lập chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng chính đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
chưa thành lập, các phong trào vô sản bị phân hóa và không có một trung tâm
thống nhất, trong khi đó đa số công nhân chịu ảnh hưởng của các lãnh tụ củ
Đảng Xã hội dân chủ.
Ngày 16/2/1919, Đại biểu Xô Viết toan Đức đã khai mạc tại Béclin. Đại
hội, trong đó đa số là đại biểu Xã hội dân chủ phái hữu và phái trung đã thông
qua Nghị quyết trao quyền cho chính phủ, đến đây về thực chất Xô Viết ở Đức
đã bị thủ tiêu.
Sự thất bại của chính quyền Xô Viết Đức năm 1919 đã cho giai cấp vô sản
nhiều bài học quan trọng : Bài học về sự cần thiết phải xây dựng chính Đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản, sự cần thiết phải xây dựng liên minh công nông trí
thức. Và quan trọng hơn cả là việc thiết lập bộ máy chính quyền mới – chính
quyền mang bản chất giai cấp công nhân.
-Công xã Quảng Châu( 1927 )
Trung Quốc sau chiến tranh thuốc phiện 1840 đã bị các thế lực đế quốc
xâu xé nô dịch. Các cuộc đấu tranh của nhân dân, dân tộc như Bình An Đoàn
18
(1840); Thái Bình Thiên Quốc (1851 – 1864); Nghĩa Hoà Đoàn (1900); Phong
trào Duy Tân (1898); Phong trào cách mạng Tân Hợi (1911)… tất cả đều không
bảo vệ được Trung Quốc, không cởi trói được Trung Quốc. Trăn trở tìm một con
đường mới, Tôn trung Sơn giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ, đề ra học thuyết
Tam dân và lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh mong thực hiện học thuyết
của mình. Nhưng cuối cùng,Tôn Trung Sơn vẫn không thành công. Giữa lúc bế
tắc, cuộc cách mạng tháng Mười Nga đã giành thắng lợi lớn lao, lần đầu tiên
giai cấp công nhân và nông dân nắm quyền cai quản quốc gia nhằm thực hiện
cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc. Điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến các phong
trào cách mạng ở Trung Quốc.
Năm 1921, Đảng cộng sản Trung Quôc ra đời và Tôn Trung Sơn cũng
nhận ra con đường “Liên Nga, liên cộng, phù trợ công nông”. Như vậy, khuynh
hướng tư tưởng của Tôn trung Sơn đã tìm thấy ở chính quyền Xô Viết một mẫu
hình Nhà nước có thể tin cậy.
Những người cộng sản Trung Quốc trong tình thế cách mạng bị phản bội,
đẩy vào thoái trào đã vùng đứng dậy cùng quân binh và quần chúng vũ trang
tiến hành cuộc khởi nghĩa và tuyên bố lập chính quyền Xô Viết.
Công xã Quảng Châu ra đời trong tình hình đó. Ngày 11 tháng 12 năm
1927 dưới sự lãnh đạo của Trương Thái Lôi, Diệp Đĩnh, Diệp Kiến Anh, Chu
Văn Ung, Nhiếp Vinh Trăn, “đệ tứ quân giáo đạo đoàn” gồm 1300 người với
“Xích vệ đội” chừng 3000 người khởi nghĩa chiếm Quảng Châu. Chỉ trong hai
tiếng đồng hồ, quân khởi nghĩa đã chiếm được hầu hết các khu vực trong thành
phố và lập chính quyền Xô Viết. Xô Viết Quảng Châu đã công bố chính sách
cương lĩnh về một chính quyền của dân nghèo và chính sách xây dựng xã hội
công bằng. Xô Viết Quảng Châu ra đời làm cho kẻ thù khiếp sợ buộc phải tạm
dừng nội chiến, tập trung 5 vạn quân tấn công tiêu diệt Xô Viết Quảng Châu.
Quân đội thuộc các nước đế quốc đóng ở Quảng Châu cũng nhận rõ Xô Viết
Quảng Châu có sức hấp dẫn mạnh, sẽ thành mối nguy cơ lớn khi nó trở thành
19
mô hình khát vọng chung của toàn Trung Quốc. Họ đã cùng tham gia tấn công
chính quyền cách mạng công nông binh này. Cuộc chiến đẫm máu kéo dài 3
ngày đêm, cuối cùng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân đã thất
bại. Nhiều nhà lãnh đạo và chiến sĩ công xã bị giết.
Mặc dù thất bại nhưng ý nghĩa của công xã Quảng Châu rất to lớn. Công
xã Quảng Châu chính là khát vọng của nhân dân lao động Trung Quốc về một xã
hội tốt đẹp, công bằng, mọi người đều tham gia quản lý xã hội. Trong đó đặc
biệt khẳng định vai trò làm chủ của giai cấp công nhân, nông dân, dân nghèo
cùng binh sĩ cách mạng. “Công xã Quảng Châu” cũng chính là Nhà nước Xô
Viết đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Nó trở thành một trong ba hiện tượng
xuất hiện chính quyền Xô Viết thử nghiệm ban đầu, đó chính là thử nghiệm
nhằm hoàn bị cấu trúc quản lý xã hội. Nó chính là phôi thai của chính quyền
nhân dân cách mạng sau này.
- Chính quyền Xô Viết Inđônêxia (1926 – 1927)
Ở Inđônêxia vào năm 1926 – 1927 cũng đã bùng nổ khởi nghĩa Java và
Sumata. Kết quả đưa đến chính là sự ra đời của chính quyền Xô Viết ở hai hòn
đảo này.
Nguyên nhân sâu xa của phong trào là do sự áp bức nặng nề của Hà Lan
đối với nông dân. Nông dân hầu hết bị tước đoạt ruộng đất, biến thành tá điền và
bị bóc lột tô thuế nặng nề. Tỷ lệ thu hoạch tô thuế lên tới 50%, thậm chí 70% thu
hoạch. Chính vì vậy kể từ sau năm 1917 các cuộc khởi nghĩa của nông dân và
quần chúng nhân dân lao động đã nổ ra ở khắp nơi: Cuộc đấu tranh Kelambít ở
Djambi (1917), khởi nghĩa nông dân ở Tjimaremeh (1917)… Từ đầu thế kỉ XX,
đặc biệt vào những năm 1920 phong trào đấu tranh của công nhân cùng phát
triển mạnh mẽ và dần nhuốm màu đấu tranh vì quyền lợi chính trị. Các cuộc bãi
công lớn của công nhân ở Semarang, Surabaya… có những cuộc bãi công có
hàng vạn người tham gia.
20
- Xem thêm -