Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính quyền kennedy và cuộc chiến tranh việt nam (1960 1963)...

Tài liệu Chính quyền kennedy và cuộc chiến tranh việt nam (1960 1963)

.PDF
99
7
92

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- ĐOÀN THANH THỦY CHÍNH QUYỀN KENNEDY VÀ CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1960 – 1963) Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 60 22 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS. Nguyễn Quốc Hùng Hà Nội – 2009 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... ………..3 1. L{ do chọn đề tài 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 12 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 12 5. Đóng góp của luận văn 13 6. Cấu trúc của luận văn 14 Chương 1. NHÌN LẠI SỰ DÍNH LÍU CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TỪ NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1959. .......................................................................................................................................... 15 1.1. Bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai 15 1.2. Sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1959 17 1.2.1. Ý đồ chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam. 17 1.2.2. Sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam từ năm 1950 đến tháng 7 - 1954 19 1.2.3. Sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam từ tháng 7- 1954 đến năm 1959. 25 Chương 2. CHÍNH QUYỀN KENNEDY VÀ CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1960 – 1963). .................. 34 2.1. Vài nét về tình hình thế giới đầu những năm 60. 34 2.2. Chính quyền Kennedy và chiến lược toàn cầu của Mỹ 37 2.2.1. Kennedy trúng cử Tổng thống và nội các chính quyền Kennedy. 38 2.2.2. Chiến lược toàn cầu của Mỹ trong giai đoạn Kennedy cầm quyền 40 2.2.3. Chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” 45 2.3. Chính quyền Kennedy và cuộc chiến tranh Việt Nam. 49 2.3.1. Tình hình Nam Việt Nam khi Kennedy lên nắm chính quyền. 2.3.2. Chính sách của chính quyền Kennedy đối với Việt Nam 49 53 2.3.3. Quá trình thực hiện đường lối và các chính sách của chính quyền Kennedy ở Việt Nam. 61 Chương 3. “Ở VIỆT NAM, CHÚNG TA ĐANG Ở TRONG MỘT ĐƯỜNG HẦM MÀ CHƯA THẤY LỐI RA…” (KENNEDY) – SỰ PHÁ SẢN NẶNG NỀ CỦA CHÍNH QUYỀN KENNEDY TRONG CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM. .............................................................................................................................. 77 3.1. Những thất bại của chính quyền Kennedy trong cuộc chiến tranh Việt Nam. 2 77 3.2. Nguyên nhân: 81 3.2.1. Cuộc kháng chiến kiên cường của nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. 81 3.2.2. Phong trào nhân dân thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. 84 3.2.3. Mâu thuẫn giữa giới cầm quyền Mỹ với Nam Việt Nam và trong nội bộ chính quyền Sài Gòn. 88 KẾT LUẬN ......................................................................................................... ……..93 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nước Mỹ từ khi thành lập tới nay mới hơn hai thế kỉ, nhưng kể từ khi trở thành siêu cường thế giới vào cuối những năm 40 của thế kỉ XX, Mỹ luôn tìm cách giữ vai trò làm bá chủ hoàn cầu. Các nhà lãnh đạo nước Mỹ kế tục nhau luôn coi mọi khu vực trên hành tinh này đều liên quan đến lợi ích và an ninh quốc gia Mỹ. Vì vậy, các tổng thống đều có những điều chỉnh trong chiến lược toàn cầu và chiến lược quân sự toàn cầu để thực hiện những mục tiêu và tham vọng của Mỹ đối với các nước và các khu vực trên thế giới. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, dựa trên ưu thế có một nền kinh tế mạnh nhất và lực lượng vượt trội về mọi mặt, “chiến lược toàn cầu” với âm mưu thống trị thế giới đã được giới cầm quyền Mỹ đề ra. Giới cầm quyền Mỹ cho rằng sau Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ là thời đại của Mỹ, thời đại mà Mỹ có thể dùng sức mạnh để buộc các dân tộc khác phải khuất phục. Trong lúc đó, sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc làm cho Mỹ 3 và các nước tư bản chủ nghĩa lo ngại. Mỹ tự gán cho mình sứ mệnh lãnh đạo “thế giới tự do”, đưa ra “chính sách thực lực”, âm mưu dựa vào “thế mạnh” để khuất phục các dân tộc khác. Mỹ thành lập các khối quân sự, xây dựng hàng ngàn căn cứ hải, lục, không quân trải khắp mọi nơi trên thế giới nhằm bao vây, chĩa mũi nhọn vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác Mỹ đã phát động hàng chục cuộc chiến tranh xâm lược để chống lại phong trào cách mạng và thực hiện mưu đồ bành trướng, thống trị thế giới, tiêu biểu là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới ở Việt Nam từ năm 1960 đến 1963. Tháng 7 - 1954, Hiệp định Geneva về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương đã được kí kết, nhưng Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã ngang nhiên phá hoại hiệp định nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Từ năm 1960, phong trào đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định Geneva, chống đàn áp, khủng bố của nhân dân miền Nam phát triển mạnh với đỉnh cao là phong trào Đồng khởi. Chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ ở miền Nam Việt Nam phá sản hoàn toàn. Sự thành lập “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” và “Quân giải phóng miền Nam” đánh dấu một sự chuyển biến mới trong phong trào cách mạng. Trong bối cảnh đó, Kennedy lên làm Tổng thống Mỹ đã đề ra chiến lược quân sự “Phản ứng linh hoạt” thay cho chiến lược “Trả đũa ào ạt” của chính quyền Eisenhower. Miền Nam Việt Nam trở thành nơi thực hiện thí điểm chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Kế hoạch Staley – Taylor được vạch ra nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng bằng việc sử dụng chủ yếu quân lực Việt Nam cộng hòa được trang bị bằng vũ khí hiện đại cùng sự chỉ đạo của các “cố vấn” quân sự Mỹ. Những chính sách mới của chính quyền Kennedy tiếp tục làm cho nước Mỹ dính líu sâu hơn vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Tìm hiểu về cuộc chiến tranh Việt Nam trong khoảng thời gian Kennedy cầm quyền, đặc biệt là tìm hiểu về phía Mỹ - Diệm có nhiều vấn đề cần quan tâm và làm rõ. Chính quyền Kennedy đã thi hành những chính sách gì mới trong cuộc chiến tranh Việt Nam? nhằm mục đích gì? Tại sao chính quyền Ngô Đình Diệm đi ngược lại với lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân miền Nam lại có thể tồn tại trong một thời gian dài (1954 – 1963)? Để hà hơi tiếp sức cho chế độ Sài Gòn, Mỹ đã phải dốc vào đây bao nhiêu tiền của, công sức trong cuộc “Chiến tranh đặc biệt” (1960 – 1963)? Tuy vậy, trong nội bộ Mỹ - Diệm tồn tại những mâu thuẫn gì không thể giải quyết mà đến cuối năm 1963, Mỹ quyết định “thay ngựa giữa dòng”, loại bỏ Diệm thay bằng một nhân vật mới? Những thất bại của Mỹ trong năm 1960 – 1963 ở Việt Nam và nguyên nhân của những thất bại đó? 4 Từ những vấn đề đó, tôi nhận thức được { nghĩa của đề tài cùng sự gợi { của thầy hướng dẫn, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Chính quyền Kennedy và cuộc chiến tranh Việt Nam (1960 - 1963)” làm luận văn thạc sĩ của mình. Nghiên cứu để làm rõ những âm mưu trong những chính sách về chính trị, quân sự, kinh tế được Mỹ thi hành ở cuộc chiến tranh Việt Nam, sự thất bại và chỉ ra nguyên nhân thất bại của Mỹ trong những năm 1960 - 1963 là một việc làm mang { nghĩa khoa học cần thiết. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Cuộc chiến tranh Việt Nam có một { nghĩa quan trọng không chỉ đối với Mỹ, Việt Nam mà còn có tác động không nhỏ đến quan hệ quốc tế và khu vực nên nhiều vấn đề xung quanh cuộc chiến tranh Việt Nam đã được các nhà lãnh đạo cũng như các học giả Mỹ, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu ngay từ khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu. 1. Về phía Mỹ, Việt Nam có một vị trí quan trọng trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đi từ dính líu đến trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến tranh Việt Nam nhằm có thể biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và “con đê ngăn làn sóng đỏ” tràn xuống khu vực Đông Nam Á. Bộ “Hồ sơ Lầu Năm Góc” – một văn kiện nghiên cứu tối mật về các quyết định của Mỹ về Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1968, phản ánh rõ nét và khá khách quan những âm mưu, tham vọng và quá trình can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Trải qua 4 đời Tổng thống từ Truman, Eisenhower, Kennedy đến Johnson, mỗi tổng thống lại có những suy nghĩ, kế hoạch và cách tiến hành chiến tranh ở Việt Nam khác nhau. Từ quá trình hình thành các chính sách, các bản tham góp { kiến của các nhân vật cấp cao của nhà nước, đến các quyết định của Tổng thống, quá trình thực hiện chiến tranh ở Việt Nam…đều được ghi lại trong “Hồ sơ Lầu Năm góc”. Vì thế đây là tài liệu gốc có { nghĩa quan trọng hàng đầu cho việc nghiên cứu về chính quyền Mỹ với cuộc chiến tranh Việt Nam. Khi Kennedy lên cầm quyền, chiến lược “Trả đũa ào ạt” của Eisenhower đã không còn phát huy được tác dụng khi tình hình thế giới thay đổi, đòi hỏi phải có một chiến lược mới. Nội dung được viết trong cuốn sách “Tiếng kèn ngập ngừng” của Maxwell D. Taylor chính là cơ sở cho chiến lược quân sự toàn cầu mới “Phản ứng linh hoạt” được xây dựng và thực hiện dưới thời tổng thống Kennedy sau đó là Johnson. Trong cuốn sách, tác giả đã nêu rõ những nguyên tắc và cơ sở tồn tại của chính sách “Trả đũa ào ạt” của Eisenhower, đồng thời phân tích và chỉ rõ những thay đổi của tình hình mới làm cho chính sách đó rơi vào bế tắc. Từ đó, tác giả trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của chiến lược “Phản ứng linh hoạt” để phù hợp với sự thay đổi mới của tình hình thế giới. Trong đó tác giả cũng nhấn mạnh về việc thực hiện 5 cuộc “chiến tranh hạn chế” là thích hợp. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ thi hành ở Việt Nam chính là một loại hình của cuộc “chiến tranh hạn chế”. Vì vậy, cuốn sách “Tiếng kèn ngập ngừng” của Taylor cung cấp những tư liệu cần thiết trong nghiên cứu về chiến lược Mỹ trong thời kì cầm quyền của tổng thống Kennedy. Trong số những nhân vật có vai trò quan trọng trong việc hoạch định các chính sách cho cuộc chiến tranh Việt Nam dưới thời Kennedy phải kể đến Bộ trưởng Bộ quốc phòng Robert S. Mc Namara. Hai mươi năm sau cuộc chiến tranh kết thúc, Mc Namara đã cho xuất bản cuốn sách “Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam”. Trong cuốn sách, Mc Namara đã trình bày cụ thể quá trình hình thành các chính sách về Việt Nam dưới thời tổng thống Kennedy và Johnson, làm rõ cả những mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Mỹ, trong Bộ Quốc phòng khi đứng trước những sự lựa chọn cho các quyết định về Việt Nam. Cũng trong cuốn sách, tác giả còn nêu ra những nguyên nhân dẫn tới thất bại, những bài học từ cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau 30 năm suy ngẫm, tác giả đã thừa nhận: “Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp” và dù “đây là cuốn sách tôi định không bao giờ viết ra” nhưng ông vẫn viết và xuất bản nó. Do đó, cuốn sách chính là những trăn trở, suy nghĩ của một nhân vật cấp cao trong chính quyền Kennedy và Johnson, người trực tiếp hoạch định và chỉ đạo cuộc chiến tranh Việt Nam, vì vậy đây là nguồn tư liệu có giá trị từ phía Mỹ để nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam trong thời kì cầm quyền của Kennedy và Johnson. Không chỉ có những nhà lãnh đạo Mỹ quan tâm mà rất nhiều học giả Mỹ đã tiến hành nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam. Về thời gian đầu và l{ do Mỹ quyết định can thiệp vào Việt Nam được Archimedes L.A. Patti đề cập khá sâu sắc trong cuốn “Tại sao Việt Nam?”. Những mối quan hệ quốc tế đầy mâu thuẫn giữa Mỹ - Liên Xô – Trung Quốc, những nhận định phân tích của chính quyền Mỹ dưới hai thời tổng thống Truman và Eisenhower để đi đến can thiệp, mở đầu cho một cuộc chiến tranh kéo dài ở Việt Nam đã được tác giả giải thích cặn kẽ, giúp cho người đọc có những hiểu biết khá chân thực về mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam trong giai đoạn này. Tác giả Joseph A.Amter, một luật gia, một nhà nghiên cứu về hòa bình, trong cuốn sách “Lời phán quyết về Việt Nam” đã có những l{ giải một cách ngắn gọn, cơ bản nhất sự dính líu của Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam, những diễn biến chính của cuộc chiến tranh trong những năm cầm quyền của Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon. Tác giả đã nghiên cứu tài liệu của chính quyền Mỹ trong những năm Mỹ dính líu vào Việt Nam, từ đó làm rõ sự thật về cuộc chiến tranh, l{ giải trách nhiệm của các nhà cầm quyền Mỹ trong cuộc chiến tranh này. Cuốn sách 6 ngoài lời mở đầu gồm có 4 phần lớn: Sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam; Cuộc chiến tranh của Johnson; Cuộc chiến tranh của Nixon; Thảm họa Việt Nam và cuối cùng là phần kết ngắn: Lời phán quyết của một công dân Mỹ. Trong cuốn sách, tác giả đã khẳng định cuộc chiến tranh của Mỹ là một thảm họa cho Việt Nam và là một thảm kịch đối với nước Mỹ. Với những thông tin, cách nhìn nhận đánh giá từ phía một công dân Mỹ, cuốn sách là một tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nghiên cứu cuộc chiến tranh Việt Nam nhìn từ phía Mỹ. Giáo sư sử học Mỹ Gabriel Kolko, người đặc biệt quan tâm đến cuộc chiến tranh Việt Nam đã dày công nghiên cứu và viết tác phẩm “Giải phẫu một cuộc chiến tranh – Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại” từ năm 1964 và xuất bản năm 1985 tại New York. Dựa vào những quan sát tại chỗ ở Washington, Paris và những chuyến thăm Việt Nam, Gabriel Kolko đã phân tích chi tiết, sâu sắc các đối tượng trong cuộc chiến tranh, đồng thời từ đó phân tích, trình bày triển vọng của những cuộc chiến tranh hạn chế của Mỹ trong thời hiện đại. Tác phẩm gồm có 6 phần: Những nguồn gốc của chiến tranh cho đến năm 1960; Cuộc khủng hoảng ở Nam Việt Nam và sự can thiệp của Mỹ, 1961 – 1965; Chiến tranh tổng lực, 1965 – 1967 và sự biến đổi của Nam Việt Nam; Cuộc tiến công Tết và các sự kiện năm 1968; Chiến tranh và ngoại giao, 1969 – 1972; Cuộc khủng hoảng của Việt Nam cộng hòa và sự kết thúc chiến tranh, 1973 – 1975; và phần kết luận. Tác phẩm được đánh giá là một “công trình phong phú về tư liệu có thể trở thành một điểm then chốt để bắt đầu tất cả các cuộc thảo luận tương lai về chiến tranh Việt Nam” (Pantheon books, New York); là “một cuốn sách rất sinh động hấp dẫn về một cuộc chiến tranh có tác động sâu sắc đến toàn thế giới. Bất cứ nhà nghiên cứu nghiêm túc nào về cuộc chiến tranh Đông Dương cũng cần phải đọc nó…” (Tạp chí cuối tuần Australia). Nghiên cứu rộng hơn về quan hệ giữa Mỹ và Đông Dương, học giả Peter A. Poole đã xuất bản cuốn sách “Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon”. Nội dung của cuốn sách đề cập, phân tích mối quan hệ giữa Mỹ và các nước Đông Dương qua 6 đời tổng thống từ Roosevelt đến Nixon, các chính sách của Mỹ đối với Lào, Campuchia, trong đó đặc biệt chú { phân tích về cuộc can thiệp chính thức bằng quân sự của Mỹ vào Đông Dương mà chủ yếu là Việt Nam từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7-1954) đến khi kí Hiệp định Paris 1973. Ngoài ra, do tầm ảnh hưởng rộng lớn của cuộc chiến tranh Việt Nam do Mỹ gây ra, có rất nhiều học giả nước Mỹ và thế giới quan tâm nghiên cứu về đề tài này, có thể kể đến cuốn sách “Nguồn gốc sự dính líu của Mỹ” của Marvin Kalb và Allive Abe, “Những bí mật về chiến tranh Việt Nam” của Daniel Ellsberg… Các cuốn sách này cũng là những tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu những đề tài liên quan. 7 2. Về phía Việt Nam, sau khi thực dân Pháp buộc phải kí Hiệp định Geneva công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, thì ngay lập tức nước ta lại phải đối phó với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam kiên trì thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mỗi chặng đường của cuộc kháng chiến đều có sự chỉ đạo kịp thời của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống văn kiện Đảng chính là tài liệu gốc quan trọng để nghiên cứu cuộc chiến đấu chống Mỹ của dân tộc. Bộ sách “Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước” gồm ba tập: Một số bài viết quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đăng ở phần đầu tập I, tiếp đó là các nghị quyết về chống Mỹ, cứu nước của Ban chấp hành trung ương và Bộ chính trị trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1975. Đây là một tập sử liệu gốc qu{ giá để nghiên cứu nhiều vấn đề về chính trị, quân sự trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Các văn kiện được tập hợp, sắp xếp theo trình tự thời gian không chỉ giúp người đọc nắm được những diễn biến của cuộc chiến tranh qua các giai đoạn phát triển mà còn thấy được việc nhận định đánh giá tình hình của Đảng để định ra những đường lối chiến lược, phương pháp cách mạng đúng đắn lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân ta đi đến thắng lợi cuối cùng. Đảng chỉ đạo chung về đường lối chiến lược, nhưng trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam đi đến thắng lợi cuối cùng là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt trận được coi là người đại diện hợp pháp của nhân dân miền Nam trên các diễn đàn quốc tế. Cuốn tài liệu “Về Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” là một tư liệu quan trọng trong nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam, cung cấp những thông tin cơ bản về sự thành lập, các hoạt động của Mặt trận trong quá trình lãnh đạo cách mạng miền Nam. Bên cạnh đó cuốn sách còn trích dẫn những tuyên ngôn, văn kiện đại hội, các chương trình, lời kêu gọi của Mặt trận và của các đoàn thể, đảng, nhóm phái trong Mặt trận. Tư liệu về Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam còn phải kể đến cuốn sách “Năm năm chiến đấu anh dũng thắng lợi vẻ vang của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”. Cuốn sách tập hợp các văn kiện: điện chúc mừng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, diễn văn của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ nhân kỉ niệm ngày thành lập Mặt trận 20-12-1965 và bản Thông cáo của Thông tấn xã giải phóng giới thiệu thành tích đoàn kết, đấu tranh anh dũng và những thắng lợi vẻ vang của trong năm năm 1960 – 1965 của nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận. Đây chính là những tư liệu lịch sử có giá trị. 8 Trong cách mạng Việt Nam, miền Nam luôn được sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người luôn chú { theo dõi từng bước chuyển biến của cách mạng miền Nam, để kịp thời động viên và chỉ đạo. Nhân kỉ niệm 10 năm thống nhất đất nước, năm 1985, Nhà xuất bản Sự thật đã tập hợp những bài nói và viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng thành cuốn sách “Miền Nam thành đồng Tổ quốc”. Những bài nói và viết của Người từ năm 1945 đến 1969 được tập hợp lại trong cuốn sách không chỉ thể hiện tình yêu thương, sự quan tâm chia sẻ với đồng bào miền Nam, những người đi trước về sau, mà còn là những chỉ đạo kịp thời, qu{ giá đối với cách mạng miền Nam. Bên cạnh những văn kiện của Đảng, của Bác, những cuốn sách, hồi kí của các vị tướng lĩnh trực tiếp tham gia lãnh đạo cách mạng miền Nam cũng chính là những tài liệu gốc qu{ giá, trong đó phải kể đến cuốn sách “Thư vào Nam” của đồng chí Lê Duẩn. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Lê Duẩn là một trong những người có vai trò quan trọng nhất trong việc hoạch định và hoàn chỉnh đường lối cách mạng miền Nam và cũng là người chịu trách nhiệm chủ yếu trước Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương Đảng về phong trào cách mạng miền Nam. “Thư vào Nam” là tập hợp thư và một số điện của đồng chí (lúc đó là Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng) gửi các đồng chí lãnh đạo ở chiến trường miền Nam. Những văn kiện này được hệ thống theo thời gian từ chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. “Thư vào Nam” được coi như “tài liệu mật” của Việt Nam được “tiết lộ” sau khi cuộc chiến tranh kết thúc 10 năm. Cuốn sách cho người đọc thấy rõ ràng, cụ thể và sinh động sự phát triển và hoàn chỉnh đường lối chiến lược, phương pháp cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam trong đường lối chống Mỹ cứu nước của Đảng, cùng sự chỉ đạo tài tình, sắc bén, táo bạo, đúng đắn của Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đường lối quân sự trong kháng chiến chống Mỹ được xây dựng một cách khoa học trong tác phẩm “Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cuốn sách tập hợp và chọn lọc một số bài nói và viết của Đại tướng về đường lối quân sự của Đảng trong Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Trong toàn bộ nội dung cuốn sách, Đại tướng đã phân tích một cách khoa học, có hệ thống, có căn cứ l{ luận và cơ sở thực tiễn tập trung vào các vấn đề về khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng và sự lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh cách mạng. 9 Bộ sách “Cuộc kháng chiến chống Mỹ” của Đại tướng Văn Tiến Dũng cũng là một tài liệu qu{ để nghiên cứu lịch sử kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Bộ sách gồm 2 tập: Tập đầu có tiêu đề: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ - Bước ngoặt lớn” viết về cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong thời kì trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tập thứ hai có tiêu đề: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ - Toàn thắng” viết về cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đến khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, miền Nam được giải phóng. Những tư liệu, sự kiện trong cuốn sách chính là nguồn tư liệu qu{ giá để nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam buộc nhân dân Việt Nam phải đứng lên chiến đấu để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, dù nhiều đau thương, mất mát nhưng thực sự là những trang hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc. Để ghi lại cuộc chiến đấu anh dũng của cả dân tộc, nhiều công trình nghiên cứu có quy mô về cuộc kháng chiến chống Mỹ đã được thực hiện. Bộ sách nhiều tập “Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của Viện Lịch sử quân sự chính là sự dày công nghiên cứu, tập hợp các tư liệu trong thời gian dài của tập thể các tác giả quân đội. Bộ sách đề cập quá trình kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, l{ giải nguyên nhân Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam, diễn biến của cuộc chiến tranh với sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, cuối cùng là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, rút ra những nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm. Các tập sách được phân chia theo các mốc thời gian hợp l{, trong mỗi giai đoạn lại có những sự kiện quan trong tương ứng với cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Trong đó tập 3 với nhan đề “Đánh thắng chiến tranh đặc biệt” chỉ rõ âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” tương ứng với giai đoạn cầm quyền của Kennedy và Johnson, trình bày cụ thể quá trình từng bước đánh bại chiến lược này trên cả hai miền Bắc, Nam. Cả bộ sách chính là nguồn tư liệu phong phú, cần thiết cho việc nghiên cứu về những chủ đề có liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Bộ sách “Miền Nam giữ vững thành đồng” của tác giả Trần Văn Giàu được bắt đầu biên soạn từ năm 1964 khi cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn đang diễn ra. Chính vì vậy những sự kiện trong cuốn sách được tác giả ghi chép mang tính chất cập nhật và sống động. Cả bộ sách trình bày một cách có hệ thống những sự kiện lịch sử quan trọng của miền Nam Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, trong đó đặc biệt chú trọng tới quá trình đấu tranh cách mạng của đồng bào miền Nam chống Mỹ - Diệm. 10 Đề tài về cuộc kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là giai đoạn chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” cũng được nhiều tác giả Việt Nam quan tâm đề cập đến trong các sách chuyên khảo. Cuốn sách “Các văn tự bán nước của Ngô Đình Diệm hay là các Hiệp nghị xâm lược bất bình đẳng của đế quốc Mỹ” của Phạm Thành Vinh. Tác giả đã trích dẫn nguyên văn hoặc một phần các hiệp nghị được kí kết giữa Mỹ và Diệm, phân tích và làm rõ những âm mưu của Mỹ trong các hiệp định này. Cuốn sách là một tài liệu chuyên khảo có giá trị trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Mỹ và chính quyền Diệm. Cuốn sách “21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam” của Đặng Phong cho chúng ta cái nhìn khái quát nhất về viện trợ Mỹ ở miền Nam Việt Nam: { đồ, quá trình xâm nhập, các giai đoạn, các hình thức viện trợ và vai trò của viện trợ đối với những biến chuyển ở miền Nam Việt Nam… Ngoài ra còn nhiều tác phẩm chuyên khảo khác về từng khía cạnh của cuộc chiến tranh xâm lược Mỹ ở Nam Việt Nam cung cấp cho người đọc những tư liệu lịch sử có giá trị. Ngoài ra, trên các báo, tạp chí như: tạp chí Cộng sản, Nghiên cứu lịch sử, Lịch sử quân sự, Nghiên cứu quốc tế, Thông tin khoa học quân sự, Kiến thức quốc phòng hiện đại, Tài liệu tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam… cũng có nhiều bài viết có liên quan. Với { nghĩa quốc tế quan trọng, cuộc chiến tranh Việt Nam ngay từ khi xảy ra đã được sự quan tâm của nhiều tác giả không chỉ người Mỹ, người Việt Nam mà còn của các tác giả nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, nguồn tư liệu để nghiên cứu về chính quyền Mỹ và cuộc chiến tranh Việt Nam rất phong phú. Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến luận văn (mà tác giả đã tập hợp, hệ thống được) có thể thấy rằng quan điểm nhận thức của các tác giả là rất khác nhau: - Các công trình nghiên cứu, tư liệu của các tác giả người Mỹ chủ yếu nói về các chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong toàn bộ cuộc chiến tranh từ 1954 đến 1973 (hoặc 1975). - Các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, tư liệu của các tác giả người Việt chủ yếu đề cập đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Mỹ. - Các bài viết ngắn của các tác giả Mỹ, Việt và các nước khác chủ yếu đề cập riêng đến từng mặt của cuộc chiến tranh Việt Nam, từng vấn đề trong chính sách của Mỹ về Việt Nam. - Một số bài viết có quan điểm thiếu khách quan khi nhìn nhận vai trò của Mỹ hoặc Việt Nam trong cuộc chiến tranh. 11 Qua hệ thống các tài liệu, người viết nhận thấy ở trong nước chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện về chính quyền Kennedy và cuộc chiến tranh Việt Nam trong giai đoạn 1960 – 1963. Vì lẽ đó, người viết đã chọn vấn đề trên làm đề tài luận văn thạc sĩ Lịch sử của mình mong góp phần khắc phục khoảng còn thiếu vắng đó. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các chính sách, quá trình thực hiện các chính sách về Việt Nam của chính quyền Kennedy, những hậu quả và những thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1960 – 1963, nguyên nhân của những thất bại đó. Phạm vi nghiên cứu: Mục đích của đề tài là tập trung nghiên cứu những chính sách về Việt Nam của chính quyền Kennedy và việc thực hiện những chính sách đó ở Việt Nam trong những năm 1960 – 1963. Để làm nổi bật vấn đề và mang tính hệ thống, luận văn giới thiệu một cách khái quát về sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1959. Từ việc nghiên cứu, đánh giá rút ra những thất bại và nguyên nhân của những thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam 1960 – 1963. 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu Nguồn tư liệu: Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng những nguồn tư liệu: 1. Các tư liệu, văn kiện: - Tài liệu mật Lầu Năm Góc, Trung tâm thông tin khoa học – kĩ thuật dịch, thư viện quân đội sao. - Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (bản dịch của Việt Nam thông tấn xã phát hành năm 1971). - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960. - Văn kiện Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ nhất. - Những văn kiện của Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tập 1 (1954-1969), Lưu trữ Viện Lịch sử quân sự. - Hồ Chí Minh (1985), Miền Nam thành đồng Tổ quốc, NXB Sự thật. - Lê Duẩn (1986), Thư vào Nam, NXB Sự thật. - Văn Tiến Dũng (1989), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Bước ngoặt lớn, NXB Sự thật. 12 - Võ Nguyên Giáp (1974), Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, NXB Quân đội nhân dân. - Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước Thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia. 2. Các sách chuyên khảo Tác giả sử dụng nhiều sách chuyên khảo của các tác giả trong và ngoài nước, có thể kể đến một vài cuốn sách tiêu biểu: Sách của các tác giả ngoài nước: Gabrien Kolko (1976), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, NXB Quân đội nhân dân; Joseph A.Amter (1985), Lời phán quyết về Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân,; Patti L.A (1995), Tại sao Việt Nam? NXB Đà Nẵng; Peter A. Poole (1978), Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon, Thư viện quân đội sao lục; Robert S. Mc Namara (1995), Nhìn lại quá khứ tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia; Anatôli Đôbrưnhin (2001), Đặc biệt tin cậy, NXB Chính trị quốc gia… (Sử dụng qua bản dịch). Sách của các tác giả trong nước: Phạm Thành Vinh (1963), Các văn tự bán nước của Ngô Đình Diệm hay là các Hiệp nghị xâm lược và bất bình đẳng của đế quốc Mỹ, NXB Sự thật; Trần Văn Giàu (1996), Miền Nam giữ vững thành đồng, Tập II, NXB Khoa học xã hội; Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Tập I. II, NXB Sự thật; Cao Văn Lượng (1991), Lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam (1954-1965), NXB Khoa học xã hội; … 3. Các tạp chí: Nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử quân sự, Tạp chí Cộng sản, Tài liệu tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam, Nghiên cứu quốc tế, Châu Mỹ ngày nay, Các vấn đề quốc tế, Khoa học quân sự nước ngoài… 4. Các luận án tiến sĩ, các luận văn thạc sĩ về các vấn đề có liên quan. Phương pháp nghiên cứu cơ bản của luận văn này là: phương pháp lịch sử, phương pháp logic. Đồng thời tác giả có cố gắng tiếp cận phương pháp liên ngành trong nghiên cứu để phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh các nguồn tư liệu để rút ra được những thông tin, sự kiện cơ bản và chính xác nhất. 5. Đóng góp của luận văn - Tập hợp và xử l{ một cách có hệ thống các tài liệu, tư liệu liên quan tới chính quyền Kennedy và cuộc chiến tranh Việt Nam 1960 – 1963. 13 - Tìm hiểu các chính sách về Việt Nam của chính quyền Kennedy và quá trình thực hiện các chính sách, những hậu quả, thất bại và nguyên nhân thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1960 – 1963. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề về chính sách của Mỹ và cuộc chiến tranh Việt Nam… 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Nhìn lại sự dính líu của Mỹ đối với Việt Nam từ năm 1950 đến 1959. Chương 2. Chính quyền Kennedy và cuộc chiến tranh Việt Nam (1960 – 1963). Chương 3. “Ở Việt Nam, chúng ta đang ở trong một đường hầm mà chưa thấy lối ra” (Kennedy) – Sự phá sản nặng nề của chính quyền Kennedy trong cuộc chiến tranh Việt Nam. 14 Chương1. NHÌN LẠI SỰ DÍNH LÍU CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TỪ NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1959. 1.1. Bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cục diện quốc tế chuyển sang một bước ngoặt lớn. Trật tự thế giới hai cực được hình thành trên cơ sở so sánh lực lượng giữa các bên tham chiến chủ chốt vào cuối chiến tranh. Từ ngày 4 đến 11-2-1945, Hội nghị tam cường – Liên Xô, Mỹ, Anh đã họp ở Yalta (Liên Xô) nhằm giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ phe Đồng minh chống phát xít. Hội nghị đã diễn ra gay go, quyết liệt, cuối cùng đã đi tới những quyết định quan trọng về việc nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở châu Âu, châu Á – Thái Bình Dương, tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít, quyết định thành lập tổ chức Liên hợp quốc dựa trên nền tảng và nguyên tắc cơ bản sự nhất trí giữa năm cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc để giữ gìn hoà bình và an ninh thế giới sau chiến tranh. Bên cạnh đó, hội nghị cũng đi tới thỏa thuận việc đóng quân ở các nước bại trận và phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa các cường quốc ở châu Âu, châu Á. Để tránh tổn thất lớn khi đổ bộ đánh Nhật, phía Mỹ và Anh đã đáp ứng các điều kiện để Liên Xô tham chiến chống quân phiệt Nhật. Đó là: duy trì nguyên trạng Mông Cổ, trả lại Liên Xô những quyền lợi của đế quốc Nga ở Viễn Đông. Những quyết định của hội nghị đã trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới, từng bước được thiết lập trong những năm 1945 – 1947, thường được gọi là “trật tự hai cực Yalta”. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ phạm vi một nước đã mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, hình thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa. Liên Xô ngày càng phát triển, trở thành cường quốc mạnh nhất châu Âu, giữ vị trí quan trọng trên vũ đài chính trị thế giới. Với uy tín và ảnh hưởng mạnh mẽ, Liên Xô trở thành trung tâm của phong trào cộng sản quốc tế, là lực lượng chủ yếu chống lại âm mưu bá chủ thế giới của Mỹ. Hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa bị chấn động: ba đế quốc Đức, Italia, Nhật Bản đã bị lực lượng Đồng minh đánh bại; Anh, Pháp suy yếu. Chỉ có Mỹ vượt lên mạnh mẽ sau chiến 15 tranh, đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa với thực lực kinh tế hùng hậu, ưu thế hạt nhân áp đảo. Mỹ ra sức lôi kéo, tập hợp lực lượng chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới. Tháng 3 - 1947, trong diễn văn đọc trước Quốc hội Mỹ, Tổng thống Truman chính thức phát động cuộc “chiến tranh lạnh” chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Truman cho rằng các nước Đông Âu “vừa mới bị cộng sản thôn tính”, “Chủ nghĩa cộng sản đang đe dọa thế giới tự do”… Vì vậy, Mỹ phải đứng ra “đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo thế giới tự do”, “giúp đỡ” các dân tộc trên thế giới chống lại “sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản”. Với sự ra đời của “chủ nghĩa Truman”, mối quan hệ đồng minh giữa Liên Xô với Mỹ và các nước phương Tây trong thời kì chiến tranh chống phát xít tan vỡ, thay vào đó là cuộc “chiến tranh lạnh”. Để lôi kéo các nước Đồng minh vào cuộc “chiến tranh lạnh”, tháng 6 - 1947, Quốc hội Mỹ thông qua kế hoạch Marshall – một kế hoạch viện trợ cho các nước Tây Âu. Tháng 4 - 1948, Quốc hội Mỹ thông qua “Đạo luật viện trợ nước ngoài” với những quy định như: các nước nhận viện trợ phải kí với Mỹ những hiệp định tay đôi có lợi cho Mỹ, phải thi hành các chính sách kinh tế, tài chính mà Mỹ yêu cầu, phải bảo đảm quyền lợi cho tư nhân Mỹ đầu tư kinh doanh, phải thiết lập tài khoản đặc biệt mà muốn sử dụng tài khoản này phải được Mỹ đồng {… Ngoài ra đạo luật còn buộc các nước nhận viện trợ chấm dứt việc buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa, hủy bỏ kế hoạch “quốc hữu hóa” và gạt lực lượng tiến bộ ra khỏi chính phủ. Trong thời gian thực hiện kế hoạch Marshall từ 4-1958 đến 12-1951, Mỹ đã chi 12,5 tỉ đôla. Kế hoạch này đã giúp các nước tư bản Tây Âu phục hồi nền kinh tế sau chiến tranh và phát triển nhanh chóng trong những năm 50, 60. Nhưng mặt khác, kế hoạch Marshall đã giúp Mỹ xâm nhập về kinh tế, tiến tới can thiệp về chính trị, quân sự đối với các nước Tây Âu. Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, từ tháng 7 - 1947, Liên Xô tiến hành kí kết các hiệp ước liên minh kinh tế với các nước Đông Âu, chuẩn bị cho việc thành lập một tổ chức kinh tế chung. Ngày 8-1-1949, hội nghị kinh tế gồm đại diện các nước Liên Xô, Anbani, Ba Lan, Bungari, Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc quyết định thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), một tổ chức liên minh kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trên thế giới đã hình thành hai khối kinh tế đối lập nhau và đi kèm theo đó là hai khu vực thị trường riêng rẽ. 16 Thêm vào đó, tháng 4 - 1949, tại Washington, 12 nước Tây Âu và Bắc Mĩ quyết định thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Mặc dù nội dung bản Hiệp ước nói về mục đích “bảo vệ hoà bình” nhưng thực chất đây là một khối quân sự phục vụ cho lợi ích của chủ nghĩa đế quốc, chĩa mũi nhọn vào Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới. Năm 1955, Mĩ đưa Tây Đức vào khối NATO, làm cho tình hình thế giới thêm căng thẳng, nền hòa bình của các nước châu Âu bị đe dọa. Trong bối cảnh đó, tháng 5 – 1955, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vacsava nhằm bảo vệ an ninh của các nước thành viên, duy trì hoà bình ở châu Âu, trở thành một đối trọng với NATO. Như vậy, sau khi chiến tranh kết thúc chưa đầy một thập niên, ở châu Âu hình thành hai khối quân sự đối đầu ráo riết chạy đua vũ trang. Cuộc “chiến tranh lạnh” giữa hai cực Xô - Mĩ, sự đối đầu giữa hai khối Đông - Tây ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh việc tranh giành phạm vi ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo thế giới của các nước lớn, sự đối đầu giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa còn có cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa đế quốc xâm lược, hiếu chiến với nhân dân các nước, các dân tộc bị áp bức. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc ở Á, Phi, Mỹ Latinh trở thành trào lưu cách mạng rộng lớn, sôi sục, làm cho hệ thống thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc bị tan vỡ từng mảng. Thắng lợi của Liên Xô và các lực lượng Đồng minh trong các cuộc chiến tranh chống phát xít đã cổ vũ và tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Á, Phi, Mỹ Latinh bước vào một thời kì phát triển mới. Nhiều nước đã giành được thắng lợi và tuyên bố nền độc lập của mình. Đặc biệt, ngày 1-10-1949, cách mạng dân tộc dân chủ Trung Hoa thắng lợi, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố thành lập. Với diện tích bằng ¼ châu Á và chiếm ¼ dân số toàn thế giới, thắng lợi của cách mạng Trung Quốc đã phá vỡ một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc… Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mĩ Latinh dẫn đến sự hình thành các quốc gia độc lập từng bước làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, làm rạn nứt những quy định của “trật tự hai cực Yalta” và đưa các nước Á, Phi, Mĩ Latinh bước lên vũ đài quốc tế, góp phần giải quyết những công việc trọng đại của cục diện thế giới. 1.2. Sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1959 1.2.1. Ý đồ chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam. 17 Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, là nước có vị trí chiến lược quan trọng, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Chính vì vậy, khi chủ nghĩa tư bản phát triển khao khát tìm kiếm thị trường thì Việt Nam nhanh chóng được chú { đến. Mặc dù cách xa nửa vòng trái đất, bị ngăn trở bởi Thái Bình Dương song Mỹ đã chú { đến Việt Nam từ rất lâu. “Năm 1819, nhiều chiến thuyền Mỹ đã đến Việt Nam, dò dẫm luồng lạch trên sông Đồng Nai và tìm đường đến Sài Gòn. Năm 1832, Mỹ lại cho thuyền vào vùng biển Việt Nam, thả neo ngoài khơi Phú Yên, Vũng Tàu. Năm 1836, chiến thuyền Mỹ lại có mặt ở Sơn Trà (Đà Nẵng)” [49, tr.26]. Tuy nhiên, thời gian này Mỹ chưa có điều kiện để tiến hành những hoạt động xâm lược Việt Nam vì vẫn chỉ là một đế quốc khu vực trong khi Việt Nam lại ở xa. Đến cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, Mỹ trở thành một trong những cường quốc tư bản thế giới. Bằng cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha năm 1898, Mỹ chiếm được Philippin – một thuộc địa lớn của Tây Ban Nha, từ đây Mỹ chú { hơn đến Việt Nam, nhưng nơi này thuộc sự cai trị của thực dân Pháp. Cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ chưa có điều kiện để đặt chân vào Việt Nam, nhưng Mỹ đã có nhiều hành động thể hiện sự quan tâm “đặc biệt”: như khi Pháp thua Nhật và Nhật sắp đầu hàng, chính quyền Mỹ đã dự định đặt Đông Dương dưới chế độ “ủy trị quốc tế” trực thuộc Mỹ và Tưởng để thay thế cho chế độ bảo hộ của thực dân Pháp, nhưng không thực hiện được. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đưa ra nhiều đề nghị có lợi cho Mỹ để lấn sâu vào Đông Nam Á, trong đó đặc biệt chú { đến Việt Nam. Mỹ nhận thấy cần đạt được hai mục tiêu: chống phá phong trào cách mạng đang lên trong vùng và gạt chân các đế quốc Tây Âu để nhảy vào thay thế. Thực tế lịch sử đã không cho phép Mỹ đạt được điều đó khi phong trào cách mạng lên cao buộc Mỹ phải chấp nhận cho các nước Tây Âu kiểm soát Đông Nam Á. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, các phái đoàn Đồng minh lúc đó do tướng Mỹ Gallagher đứng đầu đã tỏ rõ thái độ muốn “giúp đỡ” Việt Nam về mặt kinh tế mà cụ thể là yêu cầu chính phủ để cho tư bản Mỹ đầu tư vào Việt Nam nhưng không được sự hưởng ứng. Vì vậy âm mưu đầu tiên của Mỹ nhằm hất cẳng và thay thế thực dân Pháp, đầu tư xâm lược kinh tế Việt Nam đã không thành. Việt Nam ở Đông Nam Á có vị trí là giao điểm của các đường giao thông quốc tế, là đầu cầu thuận lợi để tiến vào hai tiểu lục địa ở châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ, là nơi xuất phát thuận lợi để tiến ra châu Đại Dương và hai đại dương. Với tầm quan trọng chiến lược đó, Việt Nam có 18 vị trí quan trọng trong con mắt các nhà chiến lược Mỹ và ngày càng thu hút được sự quan tâm của giới cầm quyền Mỹ. 1.2.2. Sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam từ năm 1950 đến tháng 7 - 1954 1.2.2.1. Về chính trị - ngoại giao Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa giành được những thắng lợi to lớn về chính trị, ngoại giao, quân sự. Sức mạnh và uy tín của Việt Nam được tăng cường rõ rệt. Lực lượng xã hội chủ nghĩa trên thế giới được củng cố và tăng cường. Cách mạng Trung Quốc thành công, ngày 1-10-1949, nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời. Liên Xô hoàn thành việc khôi phục kinh tế sau chiến tranh và phát triển vững mạnh. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng giành được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước. Ngày 18-1-1950, Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và ngày 30-1-1950, Chính phủ Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết công nhận Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau đó các nước khác ở Đông Âu lần lượt công nhận chính phủ Việt Nam. Ngay sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, các nước xã hội chủ nghĩa đã tích cực ủng hộ Việt Nam về tinh thần và vật chất. Nhờ đó, vị thế của Việt Nam dân chủ cộng hòa mạnh hẳn lên. Trong khi đó, Pháp ngày càng trở nên lúng túng khi cuộc chiến tranh kéo dài, Pháp từng bước đánh mất quyền chủ động chiến lược trên chiến trường, còn lực lượng cách mạng Việt Nam ngày càng trưởng thành. Tháng 5 – 1950, Tổng thống Mỹ Truman chính thức quyết định viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, ủng hộ chính phủ Bảo Đại. Thông cáo chung của Pháp – Mỹ tháng 6 – 1950 thừa nhận cuộc chiến tranh Đông Dương là một bộ phận của cuộc chiến đấu chung của Pháp – Mỹ chống chủ nghĩa cộng sản. Do chiến tranh kéo dài và ngày càng trở thành gánh quá nặng, Pháp buộc phải chấp nhận cho Mỹ can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương vì cần viện trợ của Mỹ để tiếp tục cuộc chiến. Còn Mỹ nhận thấy Đông Dương là một vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế trong lợi ích quốc gia Mỹ, cùng với Triều Tiên, Đông Dương là một trong hai gọng kìm then chốt để “ngăn chặn cộng sản” ở Đông Á. Mỹ muốn can thiệp và từng bước hất cẳng Pháp để độc chiếm khu vực này. 19 Trước tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam lên cao, Pháp và Mỹ đi tới thống nhất dùng “con bài Bảo Đại” nhưng mục đích của Mỹ và Pháp là hoàn toàn khác nhau. Pháp chỉ muốn dùng Bảo Đại như một tên bù nhìn và nuôi hi vọng dùng sức mạnh quân sự đánh thắng nhân dân Việt Nam. Còn Mỹ lại muốn dùng Bảo Đại gây nên một phong trào độc lập dân tộc giả hiệu vừa chống phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam, vừa để chống lại và từng bước thay chân thực dân Pháp ở Đông Dương. Tháng 9 – 1951, Mỹ trực tiếp kí với Bảo Đại hiệp ước tay đôi, gọi là “Hiệp ước kinh tế Việt – Mỹ”, nhằm chuyển thẳng một phần viện trợ Mỹ cho chính phủ Bảo Đại, trực tiếp ràng buộc chính phủ đó vào Mỹ. Tháng 12 – 1951, Mỹ lại kí với Bảo Đại một bản “Hiệp nghị an ninh chung”. Năm 1952, Mỹ đề ra một bản kế hoạch mới mang tên: “Chính sách của Hội đồng an ninh quốc gia về các mục tiêu và đường lối hành động của Mỹ ở Đông Nam Á”. Mục tiêu của chính sách này được nêu rõ là: “Ngăn ngừa các nước Đông Nam Á chuyển vào quỹ đạo cộng sản”. Bản kế hoạch dự tính những việc Mỹ phải xúc tiến như: tiếp tục viện trợ quân sự cho Pháp; tăng cường hợp tác với Pháp, củng cố chính phủ thân Pháp ở Đông Dương nhằm hướng tình hình theo mục tiêu mà Mỹ mong muốn; giảm bớt mức độ tham gia của Pháp vào công việc quân sự, kinh tế, chính trị của “các quốc gia liên kết”. Kế hoạch trên nhằm dần thay thế Pháp để thực hiện chính sách thực dân mới của Mỹ ở Đông Dương. Pháp biết âm mưu hất cẳng của Mỹ nhưng vẫn phải dựa vào viện trợ Mỹ để tiếp tục cuộc chiến tranh. Với yêu cầu của Mỹ, đầu tháng 5 - 1953, chính phủ Pháp cử tướng Navarre sang Đông Dương. Sau một tháng, Navarre nhanh chóng có một bản chiến lược nhằm kết thúc chiến tranh thắng lợi trong vòng 18 tháng với sự hài lòng từ phía Mỹ. Căn cứ vào kế hoạch Navarre, ngày 30-9-1953, tại Washington và Paris đồng thời công bố Hiệp ước Pháp – Mỹ về việc Mỹ viện trợ tài chính bổ sung cho Pháp 385 triệu đôla để đẩy mạnh hoạt động quân sự tại Đông Dương. Từ sau khi các bản Hiệp định viện trợ quân sự, kinh tế, an ninh được kí kết, viện trợ Mỹ chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong ngân sách của Pháp ở Đông Dương. Năm 1951, viện trợ Mỹ chiếm 19% ngân sách chiến tranh, năm 1952 – chiếm 35%, năm 1953 – chiếm 43%, năm 1954 – chiếm 73% [22, tr.85] Tháng 3 - 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm kiên cố này nhanh chóng bị san bằng trước sự tấn công của quân đội Việt Nam. Chủ tịch Hội 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan