Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chiến tranh ả rập-israel năm 1948...

Tài liệu Chiến tranh ả rập-israel năm 1948

.PDF
38
121
74

Mô tả:

Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH KHOA LỊCH SỬ ---------- Đề tài: CHIẾN TRANH Ả RẬP-ISRAEL NĂM 1948 SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang MSSV: K37.602.104 Lớp: K37_Sử B Môn: Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 TP Hồ Chí Minh tháng 5 năm 2013 Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 1 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................... 4 I. Nguồn gốc của cuộc chiến tranh................................................. 5 1. Cuộc nổi dậy của người Ả Rập (1936–1939) và hệ quả ............ 6 2. Bộ máy chính quyền Anh và việc huấn luyện quân sự cho người Do Thái và Ả Rập............................................................... 8 3. Kế hoạch phân chia lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc .................. 10 4. Nội chiến 1947–1948 trong vùng đất ủy trị ............................ 11 II. Lực lượng tham chiến ban đầu ............................................... 15 1. Đánh giá lực lượng ................................................................. 15 2. Lực lượng Yishuv ................................................................... 16 3. Lực lượng Ả Rập .................................................................... 18 III. Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 ..................................... 22 1. Giai đoạn 1 (14/5 tới 11/6/1948) ............................................ 22 2. Cuộc ngưng bắn thứ nhất (11/6 tới 8/7/1948) ........................ 25 3. Giai đoạn 2 (8/7 tới 18/7/1948) .............................................. 26 Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 2 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 a) Chiến dịch Dani................................................................. 26 b) Chiến dịch Dekel............................................................... 27 c) Chiến dịch Kedem ............................................................. 27 4. Cuộc ngưng bắn thứ hai (18/7 tới 15/10/1948) ...................... 28 5. Giai đoạn ba (15/10/1948 tới 20/7/1949) ............................... 28 IV. Kết quả .................................................................................... 27 PHỤ LỤC ....................................................................................... 30 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 38 Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 3 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 MỞ ĐẦU Cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, được người Do Thái gọi là Chiến tranh giành độc lập và Chiến tranh giải phóng, còn người Palestine gọi là Al Nakba (tiếng Ả Rập: ‫ال ن ك بة‬, "cuộc Thảm họa") là cuộc chiến đầu tiên trong một loạt cuộc chiến giữa Israel và các nước Ả Rập láng giềng. Cuộc chiến nổ ra ngay khi Chế độ ủy trị Anh tại Palestine kết thúc ngày 15/5/1948, tiếp tục giai đoạn nội chiến 1947-1948, khi người Ả Rập bác bỏ Nghị quyết 181 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhằm lập ra một quốc gia Ả Rập và một quốc gia Do Thái trên mảnh đất này. Cuộc chiến diễn ra phần lớn trên lãnh thổ Ủy trị Palestine thuộc Anh và trong một thời gian ngắn tại bán đảo Sinai. Cuộc chiến kết thúc với Hiệp định ngưng bắn 1949, nhưng cuộc Xung đột Ả Rập-Israel vẫn tiếp diễn. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 4 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 I. Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Nguồn gốc của cuộc chiến tranh Sau khi Đế chế Ottoman bị đánh bại trong Đệ nhất thế chiến, phía Đồng minh nhóm họp tại San Remo, Ý ngày 18–26/4 để bàn bạc các điều khoản cho hiệp ước với Thổ Nhĩ Kỳ. Kết luận của cuộc họp chủ yếu xác nhận các điều khoản của cuộc đàm phán London lần thứ nhất và thỏa thuận Sykes-Picot ngày 16/5/1916 và Tuyên cáo Balfour ngày 12/11/1917. Theo thỏa thuận, Pháp được ủy nhiệm quản lý Syria còn Anh được ủy nhiệm quản lý vùng Lưỡng Hà và Palestine, đường biên giới sẽ được các cường quốc tham gia đàm phán xác lập. Trong cuộc họp ở Cairo và Jerusalem giữa Winston Churchill và hoàng tử Abdullah (sau là vua Abdullah đệ nhất của Jordan) tháng 3/1921, họ đồng ý Abdullah sẽ cai quản lãnh thổ Transjordan (trong vòng 6 tháng) để đại diện cho phía Palestine. Tới mùa hè năm 1921, vùng Transjordan vẫn còn nằm trong Lãnh thổ ủy trị, nhưng không nằm trong các điều khoản về Quê hương cho người Do Thái. Ngày 24/7/1922, Hội quốc liên chấp thuận các điều khoản về việc ủy nhiệm cho Anh các vùng đất Palestine và Transjordan. Ngày 16/9, Hội quốc liên chính thức phê chuẩn bản ghi nhớ của Huân tước Balfour, xác nhận ngoại trừ Transjordan trong các điều khoản về việc thành lập một quốc gia cho người Do Thái. Tới năm 1922, dân cư Palestine bao gồm khoảng 589.200 người Hồi giáo, 83.800 người Do Thái, 71.500 người Thiên chúa giáo và 7.600 người khác (thống kê năm 1922). Tuy nhiên, tại vùng này diễn ra một cuộc di cư lớn của người Do Thái (đa phần chạy tị nạn khỏi sự truy bức tại châu Âu). Cuộc chạy tị nạn và lời kêu gọi thành lập quốc gia Do Thái gây nên phản ứng quyết liệt từ phía dân cư Ả Rập bản địa, vì người Ả Rập đồn là người Do Thái âm mưu nô dịch người Ả Rập và trục xuất dân cư bản địa không phải là Do Thái. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 5 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Dưới sự lãnh đạo của Amin al-Husayni, đại Giáo trưởng Hồi giáo ở Jerusalem, người Ả Rập nổi lên chống lại người Anh và liên tục tấn công dân cư Do Thái. Các cuộc tấn công lẻ tẻ bắt đầu từ cuộc nổi loạn của người Ả Rập năm 1920 và cuộc nổi dậy ở Jaffa năm 1921. Trong cuộc nổi dậy năm 1929, 67 người Do Thái bị giết tại Hebron, những người sống sót được nhà chức trách Anh di tản. 1. Cuộc nổi dậy của người Ả Rập (1936–1939) và hệ quả Cuối những năm 1920, đầu 1930, một số đảng phái của người Palestine trở nên mất kiên nhẫn với tình trạng bè phái, mất đoàn kết trong cộng đồng, cũng như sự bất lực của tầng lớp lãnh đạo người Palestine, nên bắt đầu một phong trào bài Anh và bài Do Thái của giới bình dân, lãnh đạo bởi những đảng như Hội Thanh niên Hồi giáo. Họ cũng tổ chức tẩy chay và bất hợp tác theo hình mẫu Ấn Độ. Hầu hết những phong trào mới khởi phát này đều bị dập tắt bởi giới nhân sỹ địa phương hoạt động cho bộ máy chính quyền Anh, đặc biệt là "giáo trưởng Hồi giáo" và người bà con của ông là Jamal al-Husayni. Cái chết của nhà truyền giáo Izz ad-Din al-Qassam bởi tay của cảnh sát Anh tại Jenin tháng 11/1935 làm cho người Hồi giáo đặc biệt tức giận. Một đám đông lớn đưa tiễn thi thể ông đi mai táng tại Haifa. Vài tháng sau, một cuộc tổng bãi công do người Ả Rập khởi xướng đồng loạt diễn ra và kéo dài cho đến tháng 10/1936. Trong mùa hè năm đó, hàng ngàn mẫu ruộng và vườn cây của người Do Thái bị chặt phá, người Do Thái bị tấn công và bị giết hại, khiến cho một số cộng đồng Do Thái, như ở Beisan và Acre, phải bỏ chạy lánh nạn. Tiếp theo cuộc tổng bãi công, cùng với khuyến nghị của phái đoàn Peel chia vùng này thành một tiểu quốc Do Thái và một quốc gia Ả Rập thống nhất với Jordan, một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra trên toàn lãnh thổ. Trong vòng 18 tháng tiếp theo, người Anh mất quyền kiểm soát Jerusalem, Nablus, và Hebron. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 6 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Trong khoảng thời gian từ 1936–1939, quân Anh, được hỗ trợ bởi 6.000 cảnh sát Do Thái vũ trang, đàn áp cuộc nổi dậy của người Ả Rập. Kết quả là có 5.000 người Ả Rập bị chết và 10.000 người bị thương. Tổng cộng, 10 phần trăm số đàn ông Ả Rập trưởng thành bị chết, bị thương, bị bắt giữ hay phải bỏ trốn. Cộng đồng Do Thái có 400 người chết, còn chính quyền Anh mất 200 người. Một diễn biến quan trọng trong thời kỳ này, là việc viên sỹ quan cao cấp của Anh Charles Orde Wingate, (người ủng hộ chủ trương tái lập quốc gia cho người Do Thái), thành lập Đội đặc nhiệm đêm gồm thành viên của Haganah, chỉ huy bởi sỹ quan Anh, và đã giành được nhưng "thắng lợi quan trọng chống lại quân nổi loạn Ả Rập tại vùng hạ Galilee và thung lũng Jezreel", bằng cách đột kích vào các làng Ả Rập. Haganah huy động đến 20.000 cảnh sát, quân dã chiến và các đội tuần tra đêm. Cũng phải kể đến việc từ năm 1936 đến năm 1945, đồng thời với việc hợp tác với Tổng bộ Do Thái, chính quyền Anh tịch thu 13.200 súng từ người Ả Rập, và 521 súng từ người Do Thái. Cuộc tấn công của người Ả Rập vào cộng đồng dân cư Do Thái có 3 hệ quả lâu dài: thứ nhất, người Do Thái phát triển rộng thêm lực lượng dân quân bí mật, chủ yếu là Haganah ("Lực lượng phòng vệ"), mà sau này là nhân tố quyết định chiến thắng năm 1948. Thứ nhì là các cuộc tấn công làm người ta càng tin tưởng là hai cộng đồng này không thể chung sống hòa bình, nên ý tưởng phân chia lãnh thổ nảy sinh. Thứ ba là người Anh đối phó với sự chống đối của người Ả Rập bằng cách phát hành sách trắng (trong đó công bố chính sách của chính quyền Anh) hạn chế ngặt nghèo người Do Thái di cư. Tuy nhiên, với Đệ nhị thế chiến hiển hiện trước mắt, ngay cả số quota di cư hạn chế này cũng không thể nào đạt được. Sách trắng khiến cho một bộ phận người Do Thái trở nên cực đoan, quyết không hợp tác với người Anh, sau khi Đại chiến thế giới kết thúc. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 7 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 2. Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Bộ máy chính quyền Anh và việc huấn luyện quân sự cho người Do Thái và Ả Rập Từ năm 1936 trở đi, chính quyền Anh tạo điều kiện huấn luyện, trang bị và tuyển mộ một loạt lực lượng an ninh và cơ sở tình báo hợp tác với Tổng bộ Do Thái (tức chính quyền Do Thái thời kỳ tiền lập quốc). Trong số đó phải kể đến lực lượng "Vệ binh", bao gồm từ 6.000 đến 14.000 Cảnh sát trù bị Do Thái, 6.000 đến 8.000 Cảnh sát Định cư tinh nhuệ và Đội đặc nhiệm ban đêm, tiền thân của đơn vị Đặc nhiệm đường không của Anh. Ngoài ra còn có lực lượng xung kích tinh nhuệ FOSH, tức Đại đội dã chiến, với khoảng 1.500 thành viên để thay thế lực lượng HISH (tức "Lực lượng dã chiến") đông đảo hơn vào năm 1939. Cơ quan SHAI, tức cục tình báo và chống phản gián của Haganah, là tiền thân của Mossad (cơ quan tình báo Israel sau này). Chính quyền Anh cũng tuyển mộ chừng 6.000 người Ả Rập Palestine trong thời kỳ Đệ nhị thế chiến và 1.700 người khác được tuyển vào lực lượng cảnh sát biên giới Liên-Jordan, hay T.J.F.F. Thêm vào đó, người Anh cung cấp sỹ quan cho đạo quân Lê Dương Ả Rập của Jordan, và cấp cho quân đội Ai Cập xe tải, súng trường và phi cơ. Người Anh như vậy rất nghịch lý là đã trang bị cho cả hai phe trong cuộc xung đột sắp nổ ra.  Đệ nhị thế chiến Ngày 6/8/1940, Anthony Eden, Bộ trưởng Chiến tranh của Anh, thông báo cho Quốc hội Anh là Chính phủ đã quyết định tuyển mộ người Ả Rập và Do Thái vào các tiểu đoàn Royal East Kent Regiment (còn gọi là the "Buffs"). Trong buổi ăn trưa với tiến sỹ Chaim Weizmann (lãnh tụ người Do Thái) ngày 3/9, Winston Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 8 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Churchill chấp thuận việc tuyển mộ trên qui mô lớn người Do Thái sống trong vùng lãnh thổ Ủy nhiệm của Anh tại Palestine và huấn luyện sỹ quan Do Thái. Hơn 10 ngàn người khác (trong đó không quá 3 ngàn người từ Palestine) sẽ được tuyển mộ và huấn luyện tại Anh. Đối mặt với đà tiến công của Nguyên soái Đức Rommel ở Ai Cập, người Anh quyết định cho 10.000 binh lính Do Thái "Buffs" vốn phân thành từng đại đội thống nhất thành các đơn vị ở mức tiểu đoàn, đồng thời động viên thêm 10.000 binh lính nữa, cùng với 6.000 Cảnh sát trù bị và từ 40.000 cho đến 50.000 vệ binh. Kế hoạch được phê chuẩn bởi Nguyên soái John Dill. Lực lượng tác chiến đặc biệt (SOE) ở Cairo chấp nhận đề nghị của Haganah tiến hành các hoạt động du kích ở miền bắc Palestine do bộ phận Palmach của Haganah thực hiện, để bảo vệ lãnh thổ, đồng thời từ đó đột kích các tuyến liên lạc và tiếp tế của Đức quốc xã, nếu cần. Tình báo Anh cũng huấn luyện một mạng lưới thông tin viên sử dụng radio dưới quyền Moshe Dayan để chuẩn bị hoạt động gián điệp chống quân chiếm đóng Đức. Sau nhiều lần do dự, ngày 3/7/1944, chính phủ Anh đồng ý thành lập Lữ đoàn Do Thái, với các sỹ quan gồm cả Do Thái và không phải Do Thái được tuyển chọn kỹ càng. Ngày 20/9/1944, một sỹ quan thông tin thuộc Văn phòng chiến tranh thông báo việc thành lập Cụm Lữ đoàn Do Thái trong Quân đội Anh. Lá cờ Zion của người Do Thái được chính thức chấp nhận làm chiến kỳ của Lữ đoàn. Lực lượng này bao gồm hơn 5.000 quân tình nguyện Do Thái từ Palestine, chia làm ba tiểu đoàn bộ binh và một số đơn vị hỗ trợ. Ngay khi chiến tranh kết thúc, người Anh quay ngoắt lại với chính sách thực hiện trước chiến tranh. Họ tịch thu vũ khí, và một số thành viên của Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 9 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Haganah bị bắt và bị đưa ra tòa, trong đó phải kể đến trường hợp Eliahu Sacharoff, bị kết án 7 năm tù chỉ vì sở hữu 2 viên đạn nhiều hơn so với giấy phép. 3. Kế hoạch phân chia lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc Ngày 29/11/1947, Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp thuận nghị quyết số 181, giải quyết cuộc xung đột Ả Rập-Do Thái bằng cách phân chia Palestine thành hai quốc gia, Do Thái và Ả Rập. Mỗi quốc gia sẽ bao gồm 3 vùng lãnh thổ chính, liên kết bởi các dải lãnh thổ đặc quyền hẹp; người Ả Rập cũng sẽ được vùng đất Jaffa nằm lọt trong lãnh thổ của người Do Thái. Với chừng 32% dân số, người Do Thái sẽ được 56% lãnh thổ, trong đó có 499.000 người Do Thái và 438.000 người Palestine cư ngụ, mặc dù phần lãnh thổ này tính cả hoang mạc Negev ở phía nam. Người Palestine được 42% lãnh thổ, với dân cư gồm 818.000 người Palestine và 10.000 người Do Thái. Vì tính chất tôn giáo thiêng liêng của Jerusalem, nên vùng này, bao gồm cả Bethlehem, với 100.000 dân Do Thái và cũng khoảng chừng ấy dân Ả Rập sẽ được quản trị bởi Liên hiệp quốc. Mặc dù một số người Do Thái chỉ trích kế hoạch này, bản nghị quyết được đông đảo nhân dân Do Thái ủng hộ. Ban lãnh đạo Zion chấp nhận nghị quyết như là "sự cần thiết tối thiểu", vui mừng là họ nhận được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế, dù rằng họ vẫn lấy làm tiếc là họ không được chia nhiều lãnh thổ hơn. Cho rằng kế hoạch phân chia không công bằng với người Ả Rập, khi tính đến tỷ trọng dân cư, đại diện của người Ả Rập Palestine và Liên đoàn Ả Rập chống đối quyết liệt kế hoạch của Liên hiệp quốc, thậm chí bác bỏ quyền của Liên hiệp quốc can thiệp vào cuộc xung đột. Họ nhất định cho rằng "quyền cai quản Palestine phải thuộc về cư dân của nó, theo các điều khoản Hiến chương Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 10 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Liên hiệp quốc". Theo Điều 73b của Hiến chương, Liên hiệp quốc phải dựng lên chính quyền tự quản của chính dân cư sống trong lãnh thổ. 4. Nội chiến 1947–1948 trong vùng đất ủy trị Ngay sau khi Liên hợp quốc chấp thuận kế hoạch phân chia, cộng đồng Do Thái như vỡ tung lên vì hoan hỉ, trong khi cộng đồng Ả Rập tỏ ra hết sức bất mãn. Chẳng bao lâu sau, xung đột nổ ra và ngày càng lan rộng, chém giết, báo thù và phản báo trả thù nối tiếp nhau, khiến cho hàng chục người ở cả hai phe thiệt mạng. Trong khoảng thời gian từ tháng 12/1947 cho tới hết tháng 1/1948, ước tính có khoảng 1000 người bị giết và 2000 người bị thương. Tới cuối tháng 3, thương vong đã lên tới 2000 người chết và 4000 người bị thương, tương đương với khoảng 100 người chết và 200 người bị thương mỗi tuần, với dân số chỉ vỏn vẹn 2 triệu người. Từ tháng 1 trở đi, các hoạt động ngày càng mang tính quân sự, với hàng trung đoàn Quân giải phóng Ả Rập can thiệp vào phía người Palestine, bố trí quanh một số thị trấn ven biển cũng như củng cố các vùng Galilee và Samaria. Abd al-Qadir al-Husayni cũng đến từ Ai Cập tham chiến với vài trăm thành viên của Quân đội thánh chiến. Sau khi tuyển mộ được vài ngàn quân tình nguyện, al-Husayni tổ chức phong tỏa 100.000 cư dân Do Thái ở Jerusalem. Để đáp lại, ban lãnh đạo Yishuv tìm cách tiếp tế cho thành phố với đoàn xe tiếp viện lên tới 100 xe bọc thép, nhưng chiến dịch tiếp viện ngày càng trở nên thiếu thực tế, vì càng ngày càng có nhiều người bị giết trong chiến dịch tiếp tế. Tới tháng 3, chiến thuật của AlNguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 11 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Hussayni mang lại thành công, hầu hết đoàn xe tiếp tế bị phá hủy, cuộc phong tỏa trở nên toàn diện, và hàng trăm thành viên Haganah tham gia cứu viện thành phố bị giết. Tình hình những người bị kẹt lại trong các khu Do Thái ở vùng hoang mạc Negev và miền bắc trở nên khốn quẫn. Vì những người Do Thái được chỉ thị phải bám trụ bằng mọi giá, tình hình bất ổn trên toàn quốc ảnh hưởng đến người Ả Rập còn nặng nề hơn, chừng 100.000 Palestine, chủ yếu là những người ở tầng lớp trung lưu khá giá, chạy ra nước ngoài hoặc chuyển đến Samaria để tránh chiến tranh. Tình hình này buộc nước Mỹ phải xem xét lại sự ủng hộ mà họ dành cho kế hoạch Phân chia, làm cho Liên đoàn Ả Rập tin rằng, người Palestine, với sự hỗ trợ của Quân giải phóng Ẩ rập, có thể phá hỏng kế hoạch Phân chia. Mặc khác, người Anh lại ra quyết định ngày 17/2/1948 ủng hộ việc sát nhập các lãnh thổ Ả Rập vào Jordan. Thủ lĩnh người Do Thái Ben-Gurion tái tổ chức Haganah, ban hành nghĩa vụ quân sự bắt buộc, tất cả phụ nữ và đàn ông đều phải tham gia huấn luyện quân sự. Nhờ vào nguồn tài chính do Golda Meir quyên góp được từ những cảm tình viên ở Mỹ, và sự hỗ trợ của Stalin cho phong trào Zion, đại diện Do Thái ký được những hợp đồng mua vũ khí quan trọng. Các nhân viên Haganah thu mua vũ khí tồn kho từ thời Đệ nhị thế chiến để góp phần trang bị cho quân đội. Cuối tháng ba, lần đầu tiên họ tiến hành chiến dịch Balak để chuyển vũ khí và trang thiết bị về Palestine. Ben-Gurion cũng giao nhiệm vụ cho Yigal Yadin lên kế hoạch đối phó trong trường hợp các quốc gia Ả Rập can thiệp vũ trang. Kết quả là kế hoạch Dalet ra đời và được đưa vào thực hiện kể từ tháng 4, mà với kế hoạch đó, kể từ Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 12 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 giai đoạn thứ hai của cuộc chiến, Haganah chuyển từ thế phòng ngự sang phản công. Chiến dịch đầu tiên, mật danh Nachshon, bao gồm việc phá vỡ cuộc phong tỏa Jerusalem. Một ngàn năm trăm chiến sỹ lữ đoàn Guivati thuộc Haganah và lữ đoàn Harel thuộc Palmach tham gia chiến dịch mở đường từ ngày 5/4 tới ngày 20/4. Chiến dịch thành công với khoảng hai tháng lương thực được chuyển tới Jerusalem để phân phát cho dân chúng. Thành công của chiến dịch càng lớn bởi Al-Hassayni bị chết trận. Cùng thời gian, binh sỹ thuộc Irgun và Lehi (ngoài vòng kiểm soát của Haganah) tiến hành thảm sát hơn một trăm người Ả Rập, đa phần là dân thường tại Deir Yassin, gây chấn động cộng đồng Ả Rập, khiến cho các thủ lĩnh Do Thái phải lo ngại và lên tiếng chỉ trích. Cũng trong thời gian đó, chiến dịch lớn đầu tiên của Quân giải phóng Ả Rập bị "thất bại thảm hại", vì bị đánh tơi tả tại Mishmar Ha'emek, và còn bị đồng minh là bộ tộc người Druze đào ngũ bỏ sang phe Do Thái. Theo kế hoạch Dalet, các lực lượng Haganah, Palmach và Irgun tiến chiếm các khu vực dân cư hỗn hợp Ả Rập-Do Thái. Các thành phố Tiberias, Haifa, Safed, Beisan, Jaffa và Acre lần lượt thất thủ, khiến cho hơn 250.000 người Palestine phải chạy tị nạn. Cùng thời gian, người Anh về cơ bản đã rút quân, tình hình khiến cho lãnh đạo các quốc gia Ẩ rập phải can thiệp, nhưng họ chưa hoàn toàn sẵn sàng, và không thể tập trung kịp lực lược cần thiết để đảo ngược tình hình chiến sự. Đa phần người Palestine kỳ vọng vào đạo quân Lê Dương Ả Rập của vua Jordan là Abdullah I, nhưng ông không muốn tạo ra một quốc gia của người Palestine, mà Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 13 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 chỉ muốn sát nhập lãnh thổ ủy nhiệm Palestine vào Jordan, nên tiến hành bắt cá hai tay, giữ liên lạc với cả ban lãnh đạo người Do Thái và Liên đoàn Ả Rập. Để chuẩn bị phản công, Haganah mở chiến dịch Yiftah và Ben-Ami để củng cố các khu định cư Do Thái tại Galilee, và chiến dịch Kilshon, thiết lập một mặt trận liên tục quanh Jerusalem. Bà Golda Meir và vua Abdullah I gặp mặt ngày 10/5 để thảo luận, nhưng cuộc họp không mang lại kết quả cụ thể gì, mà cả những thỏa thuận trước đó cũng không được xác lập lại. Ngày 13/5, quân Lê Dương Ả Rập, được dân quân hỗ trợ, tấn công và đánh chiếm Kfar Etzion. Trong tổng số 131 người Do Thái tham gia phòng thủ có 127 người tử trận, quân Ả Rập tàn sát hết số người sống sót bị bắt làm tù binh. Ngày 14/5/1948, David Ben-Gurion tuyên bố quốc gia độc lập Israel ra đời, ngày hôm sau quân đội các quốc gia Ả Rập can thiệp, cuộc chiến tranh 1948 bước vào giai đoạn mới. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 14 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 II. Lực lượng tham chiến ban đầu 1. Đánh giá lực lượng Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Benny Morris cho rằng, dù người Ả Rập "e ngại một cách có lý" khả năng quân sự của người Do Thái, họ vẫn tin rằng trong vòng vài thập niên, hoặc vài thế kỷ, "người Do Thái, cũng như các vương quốc Thập tự chinh, cuối cùng cũng sẽ bị thế giới Ả Rập đè bẹp". Vào thời điểm trước khi chiến tranh bùng nổ, khối Ả Rập dường như sẽ huy động khoảng 23.000 binh lính (10.000 quân Ai Cập, 4.500 quân Jordan, 3.000 quân Iraq, 3.000 quân Syria, 2.000 quân tình nguyện Quân giải phóng Ả Rập ALA, 1.000 quân Liban và một số quân Ả Rập Saudi, cộng với lực lượng dân quân Palestine tại chỗ. Lực lượng Yishuv Do Thái bao gồm 35.000 quân thuộc Haganah, 3.000 người của Stern và Irgun cộng với vài ngàn người định cư có vũ trang. Dù rằng dân số Israel nhỏ hơn rất nhiều lần so với dân số các quốc gia Ả Rập tham chiến, nhưng người Do Thái chiến đấu vì sự tồn vong của chính mình, cộng với tổ chức hợp lý và ban lãnh đạo thống nhất nên đã có thể tập trung cao độ sức người sức của cho cuộc chiến. Các quốc gia Ả Rập tham chiến để giúp đỡ người Ả Rập Palestine không có sự phối hợp hành động, mục tiêu và quyền lợi không phù hợp nhau, thiếu một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy họ chiến đấu như người Do Thái nên khi điều kiện trở nên bất lợi thì tinh thần chiến đấu nhanh chóng sa sút. Hơn thế nữa, phe Ả Rập thiếu sự chuẩn bị chu đáo, nên dù được tăng viện rất Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 15 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 đáng kể thì càng về sau tương quan lực lượng càng sút kém so với người Israel. Người Israel nhận được sự tiếp trợ quân sự hữu hiệu từ cộng đồng Israel hải ngoại, cộng với đoàn người tị nạn Do Thái tiếp tục đổ về Palestine, đa phần trong số đó là những người sống sót sau cuộc diệt chủng trong Đệ nhị thế chiến, nên tinh thần quyết chiến rất cao vì họ không còn đường lùi nữa. Ngày 12/5 David Ben-Gurion được trưởng cố vấn quân sự, do ước tính saiphóng đại lực lượng và năng lực quân Ả Rập, thông báo là khả năng chiến thắng của Israel chỉ là 50-50. 2. Lực lượng Yishuv Tới tháng 11/1947, Haganah từ một lực lượng dân quân bán vũ trang đã trở thành một tổ chức quân đội quốc gia được tổ chức chặt chẽ. Lực lượng này gồm có một cánh quân cơ động gọi là HISH, với 2.000 chiến binh thường trực cả nam lẫn nữ và 10 ngàn quân dự bị, tuổi từ 18 đến 25, cùng một lực lượng tinh nhuệ Palmach, bao gồm khoảng 2.100 chiến binh và một ngàn quân dự bị. Quân dự bị được huấn luyện khoảng 3-4 ngày một tháng, còn lại thì sinh hoạt như dân thường. Lực lượng cơ động có thể nhận hỗ trợ từ lực lượng đồn trú HIM (Heil Mishmar, hay lực lượng vệ binh), bao gồm những người tuổi ngoài 25. Tổng cộng Yishuv có khoảng 35.000 quân với từ 15.000 cho tới 18.000 chiến binh và 20.000 binh sỹ đóng trong doanh trại. Hai tổ chức bí mật Irgun và Lehi có khoảng từ 2.000–4.000 Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 16 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 và 500–800 thành viên. Có vài ngàn người đã từng phục vụ trong quân đội Anh thời Đệ nhị thế chiến, dù không phải là thành viên của bất kỳ tổ chức bí mật nào, nhưng sẽ đóng góp kinh nghiệm quân sự quan trọng cho cuộc chiến, Walid Khalidi cho rằng Yishuv còn có lực lượng Cảnh sát định cư Do Thái, khoảng 12.000 người, các tiểu đoàn Thanh niên Gadna, và người định cư vũ trang. Chỉ có rất ít trong số các đơn vị kể trên được huấn luyện quân sự trước thời điểm tháng 12/1947. Năm 1946, Ben-Gurion quyết định là lực lượng Yishuv phải tự bảo vệ lấy mình trong trường hợp cả người Ả Rập Palestine và các quốc gia Ả Rập láng giềng tiến hành một "chiến dịch thu mua vũ khí qui mô lớn tại các nước phương Tây". Tới tháng 9/1947 Haganah có "10.489 súng trường, 702 súng máy hạng nhẹ, 2.666 tiểu liên, 186 súng máy hạng trung, 672 cối cỡ nòng 50mm và 92 cối cỡ nòng 76 mm", và còn mua được thêm nhiều vũ khí khác trong vòng vài tháng đầu nổ ra chiến sự. Lực lượng Yishuv cũng có "cơ sở sản xuất vũ khí tương đối tân tiến", và trong khoảng thời gian từ tháng 10/1947 đến tháng 7/1948 "sản xuất được 3 triệu viên đạn súng trường, 150.000 lựu đạn, 16.000 súng tiểu liên Sten và 210 quả đạn cối 76mm". Thoạt đầu, Haganah không có súng máy hạng nặng, xe bọc thép, vũ khí chống tăng hay pháo phòng không, cũng như không có xe tăng và máy bay chiến đấu. Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 17 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 Người ta không nhất trí được về số lượng vũ khí Yishuv sở hữu khi chế độ ủy nhiệm chấm dứt. Theo Karsh, trước khi chuyến hàng vũ khí từ Tiệp Khắc chuyển đến, cứ 3 chiến sỹ thì chỉ có một khẩu súng, và thậm chí với lực lượng Palmach, cứ 3 chiến sỹ thì chỉ có hai súng. Theo Collins và LaPierre, tới tháng 4/1948, Haganah có trong tay 20.000 súng trường và tiểu liên Sten cho 35.000 binh sỹ trên danh sách, còn theo Walid Khalidi thì "các lực lượng trên có thừa vũ khí". 3. Lực lượng Ả Rập Cộng đồng Ả Rập không có một lực lượng quân sự thống nhất trên toàn quốc, mà có hai tổ chức thanh niên bán vũ trang, lực lượng thân Husayni Futuwa và lực lượng chống Husayni Najjada ("quân đoàn trù bị"). Theo Karsh, các nhóm trên có khoảng 11.000–12.000 thành viên, nhưng theo Morris thì Najjada với đại bản doanh đặt tại Jaffa và có từ 2.000–3.000 thành viên, đã bị tan rã trong thời kỳ trước khi chiến tranh 1948 nổ ra, khi Husayni tìm cách giành lấy quyền kiểm soát tổ chức này, còn lực lượng Futuwa chưa bao giờ đông hơn vài trăm người. Khi chiến sự bùng nổ, các nhóm dân quân địa phương mọc ra như nấm ở các thành phố và thị trấn, dưới quyền Hội đồng Quốc gia Ả Rập địa phương. Tháng 12, Abd al-Qadir Husseini đến Jerusalem với vài trăm quân được huấn luyện ở Syria làm hạt nhân cho đạo quân Thánh chiến Hồi giáo. Lực lượng Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 18 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 của ông đa phát triển với hàng trăm thành viên mới là thanh niên từ các làng xung quanh và một số cựu binh phục vụ trong quân đội Anh. Trang bị của lực lượng Palestine khá nghèo nàn, người Anh đã tịch thu phần lớn vũ khí của họ trong cuộc nổi dậy 1936–39 và Đệ nhị thế chiến. Một báo cáo năm 1942 của tình báo Haganah ước tính số lượng vũ khí nằm trong tay người Palestine vào khoảng 50 ngàn khẩu súng, nhưng có lẽ đây chỉ là con số phóng đại. Quân giải phóng Ả Rập (Jaysh al-Inqadh al-Arabi) được Liên đoàn Ả Rập thành lập với lực lượng gồm khoảng 6.000 quân tình nguyện, chỉ huy bởi Fawzi alQawuqji, địa bàn hoạt động theo kế hoạch là miền bắc Palestine, bao gồm cả Samaria. Đạo quân Lê Dương Ả Rập của Jordan được đanh giá là đơn vị tinh nhuệ nhất của phe Ả Rập. Họ được vũ trang, huấn luyện và chỉ huy bởi sỹ quan Anh, gồm khoảng 8.000–12.000 người, chia làm bốn trung đoàn bộ binh/cơ giới hỗ trợ bởi 40 pháo và 75 xe bọc thép. Tới tháng 1 năm 1948, họ được tăng cường thêm 3.000 lính biên phòng Liên-Jordan. Quân Lê Dương Ả Rập tham chiến tháng 5/1948 và chỉ đánh nhau ở các khu vực mà vua Abdullah muốn sáp nhập vào Jordan: vùng Bờ Tây và Đông Jerusalem. Năm 1948 quân đội Iraq gồm 21.000 người chia làm 12 lữ đoàn và khoảng 100 máy bay Anh. Ban đầu, Iraq gửi 3.000 đến 5.000 quân tham chiến, bao gồm 4 lữ đoàn bộ binh, một tiểu đoàn xe bọc thép và lực lượng hậu cần. Quân Iraq được Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 19 Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Lịch sử thế giới hiện đại học phần 2 đặt dưới quyền điều động của Jordan. Khi cuộc ngưng bắn đầu tiên diễn ra, quân Iraq tăng lên 10.000 người. Quân viễn chinh Iraq cao điểm lên tới từ 15.000 đến 18.000 người. Các đơn vị Iraq đầu tiên đến Jordan tháng 4/1948 dưới quyền chỉ huy của tướng Nur ad-Din Mahmud. Ngày 15/5 công binh Iraq xây cầu phao vượt sông Jordan và tấn công khu định cư Gesher nhưng không thành công. Sau thất bại đó quân Iraq tiến về tam giác chiến lược Nablus-Jenin-Tulkarm, nhưng bị đánh tổn thất nặng nề trong cuộc tấn công của người Do Thái vào Jenin từ ngày 3/6, nhưng vẫn bám trụ lại được. Hoạt động quân sự của quân Iraq chấm dứt kể từ thời điểm này. Năm 1948 Ai cập chỉ có thể tung ra được 40.000 quân, 80% thanh niên trong độ tuổi quân dịch không đủ tiêu chuẩn để nhập ngũ, còn bộ máy hậu cần còn sơ khai của Ai Cập chỉ có thể tiếp tế rất ít cho các đơn vị bộ binh triển khai ngoài biên giới. Ban đầu, lực lượng viễn chinh 10.000 người được gửi đến Palestine dưới quyền tướng Ahmed Ali al-Mwawi. Lực lượng này bao gồm 5 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn xe bọc thép được trang bị xe tăng Mark IV và Matilda của Anh, một tiểu đoàn pháo binh 16 pháo 25 bảng, và một tiểu đoàn 8 pháo 6 bảng, một tiểu đoàn súng máy hạng trung, cùng với lính hậu cần. Không quân Ai Cập có hơn 30 máy bay Spitfire, 4 Hawker Hurricane và 20 C-47 Skytrain cải tiến thành máy bay Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan