Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi - Đề thi Thi THPT Quốc Gia Môn văn Chiến thuật ôn thi thpt quốc gia chuyên đề nghị luận văn học free pdf...

Tài liệu Chiến thuật ôn thi thpt quốc gia chuyên đề nghị luận văn học free pdf

.PDF
30
926
94

Mô tả:

File pdf Chiến thuật ôn thi THPT quốc gia chuyên đề nghị luận văn học Free download File pdf Chiến thuật ôn thi THPT quốc gia chuyên đề nghị luận văn học Free download File pdf Chiến thuật ôn thi THPT quốc gia chuyên đề nghị luận văn học Free download File pdf Chiến thuật ôn thi THPT quốc gia chuyên đề nghị luận văn học download File pdf Chiến thuật ôn thi THPT quốc gia chuyên đề nghị luận văn học download File pdf Chiến thuật ôn thi THPT quốc gia chuyên đề nghị luận văn học free
CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN Chuyên đề nghị luận Văn học 1 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN CHUYÊN ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC Bản quyền © thuộc TKBooks, theo hợp đồng chuyển nhượng giữa Công ty Cổ phần sách MCBooks và tác giả Trịnh Văn Quỳnh. Bất cứ sao chép nào không được sự đồng ý của TKBooks đều là bất hợp pháp và vi phạm Luật xuất bản Việt Nam, Luật bản quyền quốc tế và Công ước Berne về bản quyền sở hữu trí tuệ. THƯƠNG HIỆU TKBOOKS Chuyên sách tham khảo Phát triển cùng phương châm “Knowledge Sharing - Chia sẻ tri thức”, MCBooks luôn mong muốn được hợp tác cùng các tác giả trong nước với ước mong được chia sẻ những phương pháp học mới lạ, độc đáo, những cuốn sách học hay và chất lượng đến với độc giả Việt Nam. Các tác giả viết sách có nhu cầu xuất bản xin vui lòng liên hệ với chúng tôi qua: Email: [email protected] Điện thoại: (04).3792.1466 (Bấm số máy lẻ 103 - Phòng Kế Hoạch) Chúng tôi luôn mong muốn nhận được những ý kiến góp ý của Quý độc giả để cuốn sách ngày càng hoàn thiện hơn. Liên hệ về bản thảo và bản dịch: [email protected] Liên hệ hợp tác truyền thông trên sách: [email protected] Liên hệ tư vấn, đại diện và giao dịch bản quyền: [email protected] 2 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học Trịnh Văn Quỳnh CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN Chuyên đề nghị luận Văn học NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 3 4 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học Chúng ta ai cũng từng khổ vì môn Văn như thế... � Viết dài chưa chắc đã điểm cao, loay hoay không biết viết sao cho đủ ý. � Tự hỏi: có những bạn rất ít khi học mà vẫn làm được bài, việc học hành của một số bạn lại nhẹ tựa lông hồng vậy? � Choáng váng với khối lượng kiến thức khổng lồ. Vở văn luôn là loại vở dày nhất, có nhiều loại vở nhất. � Chỉ một câu thơ có tám chữ, thầy cô cũng có thể bình ra vài trang giấy, chỉ mới nhìn đã muốn xỉu! � Không khỏi một lần ngáp ngắn, ngáp dài trong giờ giảng văn. � Tây Tiến leo mãi vẫn chưa hết dốc, Việt Bắc cầm tay mãi không rời, Đất Nước có từ cái ngày xửa ngày xưa, Sóng từ ngàn xưa, đến ngày nay vẫn thế… � Cũng chăm chỉ đấy chứ, nhưng học trước quên sau, vào phòng thi không nhớ nổi điều gì. Hãy bắt đầu với cuốn sách này để thay đổi điểm số của bạn! Hệ thống chiến thuật cung cấp kỹ năng nắm vững thao tác, lý luận giải mã bất kỳ dạng đề mới gặp. Học văn bằng cách ghi nhớ bằng hình ảnh và tư duy logic của hai bán cầu não. Hơn 100 sơ đồ các dạng đề không còn lo phải học thuộc nhiều, thiếu ý hay lặp ý. Sơ đồ theo từng đoạn chi tiết hơn, chinh phục đơn giản mọi đoạn văn đoạn thơ rắc rối. Phát huy tối đa sự sáng tạo của bản thân. Viết văn theo cách riêng của mình mà vẫn bám sát đáp án. Trả lại đúng kỹ năng làm văn chứ không phải học thuộc và trả bài nữa. � Học thơ như đang cảm nhận một bài hát. � Học truyện như đang bình luận một bộ phim. Giống như một hành trình xuyên không gian, thời gian - bạn được tự do khám phá. CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học Phần 1: CHIẾN THUẬT NGHỊ LUẬN VĂN HỌC 1. TÌM HIỂU ĐỀ, LẬP DÀN Ý TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN Phân tích đề là công việc xem xét cặn kẽ đề bài để nhận thức chính xác vấn đề nghị luận được giao. Nói cách khác, mục đích của việc phân tích đề là tìm hiểu chính xác các yêu cầu cơ bản của đề bài (vấn đề cần nghị luận, yêu cầu về nội dung, yêu cầu về phương pháp). Lập dàn ý là sắp xếp các ý theo trình tự logic. Trong văn nghị luận, lập dàn ý gồm 3 bước: Xác lập luận điểm; xác lập luận cứ; sắp xếp luận điểm, luận cứ. Các yêu cầu của luận điểm, luận cứ khi lập dàn ý. Chính xác, phù hợp, đầy đủ, tiêu biểu. Các bước cơ bản để phân tích đề bài: � Bước 1 : Đọc kĩ đề, chú ý từng từ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ ngữ, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn của câu, đoạn. Chia vế, ngăn đoạn, tìm hiểu mối tương quan giữa các vế: song song, chính phụ, nhân quả, tăng tiến, đối lập... � Bước 2 : Nhiệm vụ của phân tích đề là phải xác định cho được các yêu cầu sau đây: + Dạng đề nghị luận? + Vấn đề cần nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý cần triển khai? Mối quan hệ giữa các ý như thế nào? + Sử dụng thao tác lập luận gì là chính? Đề học sinh giỏi, đề thi THPT Quốc gia thường yêu cầu sử dụng tổng hợp các thao tác, nhưng còn tùy thuộc vào lĩnh vực kiến thức mà thiên về thao tác nào là chính. Nếu liên quan đến tác phẩm thì chủ yếu phân tích - chứng minh, nếu liên quan đến lí luận văn học thì chủ yếu giải thích - bình luận... � Bước 3 : Xác định vùng tư liệu được sử dụng cho bài viết: tác giả, trào lưu, giai đoạn, thời kỳ văn học; trong nước hay thế giới. ✱ Ví dụ: Từ việc phân tích tình huống truyện của tác phẩm Vợ nhặt, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên1. Bước 1: Tô đậm hoặc gạch chân các từ khóa quan trọng Có ý kiến cho rằng: Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người. Từ việc phân tích tình huống truyện của tác phẩm Vợ nhặt, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên. Bước 2: Xác định các yêu cầu + Dạng đề: nghị luận một ý kiến bàn về văn học. 1 Đề thi Thpt Quốc gia 2016 7 + Vấn đề cần nghị luận: tình huống truyện, ý kiến trên. + Nội dung chia thành 2 vế đối lập bất thường >< bình thường. + Thao tác lập luận cần sử dụng: Giải thích: tình huống bất thường, khát vọng bình thường mà chính đáng từ đó rút ra nội dung ý nghĩa câu nói. Phân tích: tình huống truyện vì sao bất thường? Vì sao lại là khát vọng bình thường mà chính đáng. Chứng minh: sử dụng dẫn chứng trong tác phẩm Vợ nhặt để chứng minh. Bình luận: quan điểm, thái độ của bạn có đồng tình hay phản đối ý kiến nêu trên. Có ý kiến cho rằng: Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người. Bước 3: Xác định phạm vi, vùng tư liệu Tình huống truyện xoay quanh cuộc hôn nhân kỳ lạ. Chú ý phân tích tâm lý nhân vật trước sự kỳ lạ này, sự thay đổi về suy nghĩ và cuộc sống do cuộc hôn nhân đem lại. Sau khi xác định được nội dung luận đề phải tổ chức lập luận, lập được dàn bài hợp lý là thỏa mãn yêu cầu của đề bài. Khâu này tùy thuộc rất lớn vào kết quả phân tích đề. Từ đó phải vạch ra được những ý lớn, những luận điểm chính, trên cơ sở ấy từng ý lớn phải cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ, thậm chí mỗi ý nhỏ nếu cần thì cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ hơn còn gọi là khía cạnh của ý nhỏ. Lập dàn ý giúp cho người viết lựa chọn, sắp xếp ý thành một hệ thống chặt chẽ và bao quát được nội dung cơ bản, nhờ đó mà tránh tình trạng lạc đề hoặc lặp ý, tránh được việc bỏ sót ý hoặc triển khai ý không cân xứng. Có dàn ý người viết sẽ phân phối thời gian hợp lý khi viết bài. Có hai cơ sở để xác lập ý: - Trường hợp đề bài có nhiều ý thì dựa vào chỉ dẫn của đề nhưng phải xác định mối quan hệ giữa các ý, nhất là quan hệ chính phụ, không nên nhầm lẫn ý chính với ý phụ. Thường thì những đề này chỉ chứa những ý chính. - Trường hợp đề bài chỉ có một ý. Đây là dạng phổ biến thường gặp ở những kỳ thi học sinh giỏi. Vậy thì căn cứ vào đâu để xây dựng được hệ thống lập luận gồm những ý lớn, ý nhỏ? Điều này hoàn toàn lệ thuộc vào vốn kiến thức của bạn. Nếu có chút lúng túng thì hãy chú ý đến nội hàm của khái niệm (nếu có) hoặc hiểu cái ý ngầm đằng sau những lời văn là gì... Cách lập dàn ý bài văn nghị luận: � Bước 1 : Xác định các luận điểm (ý lớn). - Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm. - Đề bài có một ý, thì ý nhỏ hơn cụ thể hoá ý đó được xem là những luận điểm. Nội dung kiến thức này ở trong bài học, tư liệu hoặc kiến thức tự có. � Bước 2 : Tìm luận cứ (ý nhỏ) cho các luận điểm. Mỗi luận điểm cần cụ thể hoá thành nhiều ý nhỏ hơn gọi là luận cứ. Số lượng ý nhỏ và cách triển khai tuỳ thuộc vào ý lớn. Ý nhỏ có khi được gợi từ đề bài nhưng phần lớn là từ kiến thức của bản thân. � Bước 3 : Lập dàn ý ba phần: a. Mở bài: Giới thiệu luận đề. b. Thân bài: Triển khai nội dung theo hệ thống các ý lớn, ý nhỏ đã tìm. c. Kết bài: Tổng kết nội dung trình bày, liên hệ mở rộng, nâng cao vấn đề. 8 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học Mở bài: Khẳng định thành công nổi bật của tác phẩm là ở việc xây dựng tình huống truyện Trích dẫn ý kiến Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm: - Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, chuyên viết về cuộc sống và con người nông thôn. - Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, tác giả đã sáng tạo được tình huống “nhặt vợ” độc đáo. Giải thích: Nội dung ý kiến: khẳng định thành công của tác giả trong việc xây dựng tình huống độc đáo (tính chất bất thường), giàu ý nghĩa nhân bản (thể hiện khát vọng bình thường của con người). Phân tích tình huống: - Nêu tình huống: Tràng - một nông dân ngụ cư nghèo khổ, ngờ nghệch, xấu xí, đang ế vợ bỗng nhiên “nhặt” được vợ giữa nạn đói khủng khiếp. - Tính chất bất thường: giữa nạn đói kinh hoàng, khi người ta chỉ nghĩ đến chuyện sống - chết thì Tràng lại lấy vợ; một người tưởng như không thể lấy được vợ lại “nhặt” được vợ một cách dễ dàng; Tràng “nhờ” nạn đói mới có được vợ còn người đàn bà vì đói khát mà theo không một người đàn ông xa lạ; việc Tràng có vợ khiến cho mọi người ngạc nhiên, không biết nên buồn hay vui, nên mừng hay lo;... - Khát vọng bình thường mà chính đáng của con người: khát vọng được sống (người đàn bà đói khát theo không về làm vợ Tràng); khát vọng yêu thương, khát vọng về mái ấm gia đình (suy nghĩ và hành động của các nhân vật đều hướng tới vun đắp hạnh phúc gia đình); khát vọng về tương lai tươi sáng (bà cụ Tứ động viên con, người vợ nhặt nhắc đến chuyện phá kho thóc, Tràng nghĩ đến lá cờ đỏ sao vàng.) Bình luận: - Ý kiến xác đáng vì đã chỉ ra nét độc đáo và làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của tình huống truyện trong việc thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả. - Có thể xem ý kiến là một định hướng cho người đọc khi tiếp nhận tác phẩm Vợ nhặt, đồng thời là một gợi mở cho độc giả về cách thức tiếp cận truyện ngắn theo đặc trưng thể loại. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề Như vậy, lập dàn ý là nhiệm vụ đầu tiên trước khi làm bài có ý nghĩa quyết định đến chất lượng bài viết, thế nhưng nhiều học sinh chưa ý thức được vai trò của khâu tìm hiểu đề này. Đôi khi học sinh có đầu tư đúng mức nhưng vẫn không xác định đủ và đúng yêu cầu của đề ra. Bởi lẽ, ở dạng đề tường minh các em thường có tâm lý chủ quan dẫn đến hiểu chưa đầy đủ yêu cầu và định hướng của đề bài, còn có lý do là kiến thức nền tảng chưa vững chắc dẫn đến việc tổ chức lập luận còn lỏng lẻo, thiếu ý, thừa ý; ở dạng đề hàm ẩn nếu thiếu đầu tư suy nghĩ thì việc xác định luận đề rất khó khăn, nếu không cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng chệch hướng, thậm chí lạc đề. Vậy không nên phỏng đoán rồi viết ẩu. Cần phải đầu tư thích đáng cho khâu này. Dạng đề hàm ẩn thường liên quan đến vấn đề lý luận, dĩ nhiên trên cơ sở phân tích những tác phẩm cụ thể. Nếu đề có cách nói bóng bẩy thì phải xem xét nó thuộc lĩnh vực kiến thức nào của lý luận văn học. Về cơ bản vẫn là phạm vi kiến thức mà ta đã học. 9 2. CHIẾN THUẬT SỬ DỤNG KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, qui nạp, song hành… Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện liên kết để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều phương tiện liên kết trong đoạn văn: dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ thể hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát… và dùng câu nối trong đoạn văn. Đoạn văn liên kết nhằm mục đích tạo sự liền mạch một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản. Khi viết đoạn văn, trong bài văn nghị luận cần lưu ý những điểm sau: + Tuỳ theo nhiệm vụ, các đoạn văn được chia làm: đoạn giới thiệu, đoạn nghị luận, đoạn minh họa, đoạn chuyên tiếp, đoạn tiểu kết, đoạn tổng kết. + Cũng do nhiệm vụ khác nhau nên vị trí các đoạn khác nhau. Đoạn giới thiệu thường đứng ở đầu bài văn (đoạn mở bài). Đoạn nghị luận, đoạn minh hoạ đứng giữa (thân bài) bài văn, giữa các phần của bài. Đoạn chuyển tiếp, đứng ở ranh giới giữa các phần của bài, của các đoạn kia. Đoạn tổng kết nằm ở cuối bài văn (kết bài). Mỗi loại đoạn có một cấu tạo riêng với một mô hình cơ bản của những biến thể. Mô hình cơ bản của đoạn văn nghị luận là diễn dịch. Diễn dịch là đoạn có câu chứa nội dung thông tin chung, khái quát của cả đoạn (thường là một luận điểm lớn hoặc nhỏ) đứng ở vị trí đầu đoạn (câu này gọi là câu chủ đề), các câu tiếp theo dẫn giải, triển khai nội dung của câu chủ đề. Câu chủ đề thông thường là một câu, song cũng có khi là hai hoặc ba câu. Về mặt cấu tạo ngữ pháp, câu chủ đề thường là câu đơn, có đủ chủ ngữ, vị ngữ. Khi viết đoạn văn nghị luận cần chú ý những yêu cầu sau đây: � Bước 1 : Xác định ý của đề bài. � Bước 2 : Xác định câu chủ đề. � Bước 3 : Sử dụng phép liên kết và cách dùng từ trong đoạn văn nghị luận. Trong văn nghị luận muốn chuyển đoạn, liên kết đoạn người ta có thể dùng các quan hệ từ, dùng từ ngữ liệt kê, dùng từ ngữ thể hiện ý tổng kết… Ngoài ra còn sử dụng câu nối để liên kết đoạn văn. Đoạn văn thường có ba phần: - Phần mở đoạn: viết những câu dẫn dắt là những câu liên quan đến vấn đề chính sẽ nêu. - Phần giữa đoạn: nêu vấn đề chính sẽ bàn trong thân bài tức là luận đề. Vấn đề chính này có thể đã chỉ rõ, có thể người viết tự rút ra, tự khái quát. - Phần kết đoạn: nêu phương thức nghị luận và phạm vi tự luận sẽ trình bày. Phần này đề bài thường xác định sẵn. Người viết chỉ giới thiệu hoặc ghi lại đoạn trích, câu trích ở đầu bài. Viết đoạn văn thân bài. 10 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học Đoạn văn thân bài trong bài văn nghị luận cũng có ba phần: - Phần mở đoạn: nêu luận điểm chính của đoạn. - Phần phát triển đoạn: triển khai luận điểm chính thành các luận điểm nhỏ hoặc các lí lẽ, dẫn chứng để thuyết phục người đọc. - Phần kết đoạn: có nhiệm vụ kết đoạn văn, nhấn mạnh ý chính và chuyển sang đoạn văn tiếp theo. Viết đoạn văn kết bài. Đoạn văn kết bài trong bài văn nghị luận thường nêu ý khái quát, có tính chất tổng kết, đánh giá. Có thể giới thiệu bốn cách kết bài sau: Thứ nhất: tóm lược (tóm tắt quan điểm, nội dung đã nêu ở thân bài). Thứ hai: phát triển (mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong đề bài). Thứ ba: vận dụng (nêu phương hướng, bài học áp dụng phát huy hay khắc phục vấn đề nêu trong bài văn). Thứ tư: liên tưởng (mượn ý kiến tương tự – những ý kiến có uy tín – để thay cho lời tóm tắt của người làm bài). Hướng dẫn cách mở bài nghị luận Có 2 cách làm mở bài cơ bản: + Mở bài trực tiếp: đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận, không câu nệ câu chữ, ý tưởng. Ưu điểm: thường nêu ra được vấn đề một cách trực tiếp nhất và rõ ràng nhất. Hạn chế: không có cảm xúc, ít khi có được sự mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, khơi gợi mà một mở bài cần có và nên có. Mở bài như một lời mở đầu nếu không hấp dẫn người đọc thì sẽ không có hứng khởi để đọc tiếp phần tiếp theo. + Mở bài gián tiếp: bắt đầu từ một khía cạnh liên quan đến vấn đề cần nghị luận. Từ đó người viết dẫn dắt một cách khéo léo và có liên kết đến vấn đề chính mà đề bài yêu cầu. Có 4 cách mở bài theo lối gián tiếp: Diễn dịch, quy nạp, tương liên, đối lập. Diễn dịch: nêu những ý kiến khái quát về vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới bắt đầu vào vấn đề ấy. Quy nạp: nêu những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra trong đề bài rồi mới tổng hợp lại vấn đề cần nghị luận. Tương liên: nêu lên một ý giống như ý trong đề rồi bắt sang vấn đề cần nghị luận. Ý được nêu ra có thể là một câu tục ngữ, ca dao, danh ngôn, một nhận định hoặc chân lí phổ biến... Đối lập: nêu những ý trái ngược với ý trong đề bài rồi lấy đó làm cớ chuyển sang vấn đề cần nghị luận. Nguyên tắc làm mở bài: + Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài: nếu đề bài yêu cầu giải thích, chứng minh, phân tích hay bình luận một ý kiến thì phải dẫn lại nguyên văn ý kiến đó trong phần mở bài. + Chỉ được phép nêu những ý khái quát, tuyệt đối không lấn sang phần thân bài, giảng giải minh họa hay nhận xét ý kiến trong phần thân bài. + Để không tốn thời gian làm phần mở bài trong các kì thi, cần chuẩn bị sẵn một số hướng mở bài cho từng dạng đề. Ví dụ: Câu hỏi: Phân tích hình tượng Đất Nước trong 9 câu thơ đầu đoạn trích Đất Nước (Trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm. 11 Các cách mở bài: + Mở bài trực tiếp:   Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông từng là Bộ trưởng Bộ văn hóa thông tin, nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước được trích từ chương V trường ca Mặt đường khát vọng được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ sau đã để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật sâu sắc nhất. + Mở bài gián tiếp: Diễn dịch: Đất Nước từ lâu đã là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu. Quy nạp: Có mối tình nào hơn Tổ quốc? Ngay trong những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, nhà thơ Trần Mai Ninh đã viết say sưa như thế. Chất chứa trong lòng nhiệt huyết yêu nước, Nguyễn Khoa Điềm đã truyền lửa cho thế hệ trẻ những năm chống Mỹ bằng việc khắc họa vẻ đẹp bình dị và hào hùng của mảnh đất Việt. Đất Nước sinh thành từ những ngày xửa ngày xưa, từ miếng trầu bây giờ bà ăn lúc dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Tương liên: Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi, một quê hương với những kỉ niệm tuổi thơ qua thơ Giang Nam. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn cảm xúc của chính tác giả. Cách viết một đoạn văn Quy nạp:  Ví dụ: Hiện nay trình độ của đại đa số đồng bào ta bây giờ không cho phép đọc dài, điều kiện giấy mực của ta không cho phép viết dài và in dài, thì giờ của ta, người lính đánh giặc, người dân đi làm, không cho phép xem lâu. Vì vậy cho nên viết ngắn chừng nào tốt chừng ấy. (Hồ Chí Minh) Diễn dịch:  Ví dụ: Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có thời đại nào phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. (Hoài Thanh) Song hành:  Ví dụ: Ca dao là bầu sữa nuôi dưỡng tuổi thơ. Ca dao là hình thức trò chuyện tâm tình của những chàng trai cô gái. Ca dao là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất. Ca dao là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hoặc lòng hân hoan của người sản xuất. 12 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học Móc xích:  Ví dụ: Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ Nguyễn Trãi không. Đúng là thơ nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải là dễ hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng, câu hiểu đúng mà toàn bài không hiểu. Không hiểu vì không biết chắc bài thơ được viết ra lúc nào trong cuộc đời nhiều chìm nổi của Nguyễn Trãi. Kết cấu theo lối kết hợp:  Diễn dịch – Quy nạp (Tổng – Phân – Hợp):  Văn học dân gian đã đem lại những hiểu biết cực kỳ phong phú và đa dạng về cuộc sống nhân dân các thời đại. Văn học dân gian cho ta thấy rõ quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, những kinh nghiệm sản xuất, những tập quán lao động, những quan hệ họ hàng, làng nước, những tín ngưỡng, những phẩm chất đạo đức và tình cảm nhiều mặt trong đời sống con người. Điểm đáng quý là tính cổ xưa và tính nguyên sơ của nó. Người đời nay và mai sau có thể qua văn học dân gian mà tái hiện đời sống tinh thần của nhân dân trong quá khứ. Diễn dịch – Song song: Phong cảnh miền Tây Bắc thật là hùng vĩ. Núi rừng trùng điệp nhấp nhô một màu xanh thẳm. Có những ngọn núi cao chót vót, bốn mùa mây quẩn quanh sườn. Có những cao nguyên chạy dài mênh mông. Có những thung lũng hình lòng chảo lọt vào giữa những khoảng núi đồi. Song song – Quy nạp:  Làng xóm ta xưa kia lam lũ quanh năm đói rách. Làng xóm ngày nay bốn mùa nhộn nhịp cảnh làm ăn tập thể. Đâu đâu cũng có trường học, nhà gửi trẻ, nhà hộ sinh, câu lạc bộ, sân và kho của hợp tác xã, nhà mới của xã viên. Đời sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần ngày càng tiến bộ. (Hồ Chí Minh) Cách chuyển ý Chuyển ý nhằm đảm bảo bài văn có sự liên tục, uyển chuyển, phát triển tự nhiên. Đồng thời xác định mối quan hệ chặt chẽ giữa các ý tạo nên bài văn. Các cách chuyển ý: Cách 1: Chuyển ý bằng cách dùng các kết từ: trước tiên, trước hết, tiếp theo... Ví dụ: Tiếp theo Việt Bắc là Gió lộng (1955-1961) - tập thơ ra đời trong giai đoạn cách mạng mới. Gió lộng dạt dào bao nguồn cảm hứng lớn lao. Nhà thơ hướng về quá khứ để thấm thía những nỗi đau khổ của cha ông, công lao của những thế hệ đi trước mở đường, từ đó ghi sâu ân tình của cách mạng... Cách 2: Chuyển ý bằng câu. - Dùng câu có cấu trúc Nếu...thì... để tóm tắt ý trên và mở ra ý mới. Ví dụ: Nếu như Việt Bắc là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng chiến thì Gió lộng hướng về quá khứ để thấm thía những nỗi đau khổ của cha ông... - Dùng câu có cấu trúc Bên cạnh A còn có B để chuyển ý khi giữa ý trên và ý dưới có quan hệ ngang hàng. Ví dụ: Bên cạnh viên quản ngục còn có viên thơ lại cũng là một người làm nhầm nghề, sống nhầm nơi. Ông hẳn cũng là người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài như thầy quản nên đã để ý đến cái tài của Huấn Cao, nhất nhất làm theo những phép đối xử đặc biệt mà viên quản ngục dành cho người tử tù nổi tiếng... - Dùng câu có cấu trúc Do A nên dẫn đến B, Sở dĩ A là vì có B nếu ý trước và ý sau có quan hệ nhân - quả. Ví dụ: Bởi có tấm lòng biệt nhỡn liên tài như vậy nên viên quản ngục đã không nề hà nguy hiểm, phá bỏ những phép tắc thông thường trong nhà ngục để biệt đãi Huấn Cao. - Dùng câu có cấu trúc Hơn cả A là B, Không chỉ có A mà còn có B nếu ý sau ở mức độ cao hơn ý trước. Ví dụ: Không chỉ có khí phách hiên ngang, kiên cường và sự tài hoa phóng khoáng, mà nhân vật Huấn Cao còn có cái tâm trong sáng, cao thượng. 13 - Dùng một câu triết lí, hoặc một câu thơ, câu văn, ý kiến nhận định để thay lời chuyển ý. Ví dụ: Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung (Lê-ô-nốt). Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu không chỉ là sự khám phá, sáng tạo so với các nhà văn khác mà còn là sự sáng tạo trong chính sáng tác của nhà văn. Tác phẩm cho thấy một hướng quan niệm mới, tiến bộ hơn trong hành trình đi tìm cái đẹp ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn mỗi con người , cái đẹp không mang màu sắc lãng mạn nữa mà gắn với hiện thực trần trụi. Trong một bài văn, nên sử dụng đồng thời nhiều cách chuyển ý linh hoạt để tạo nên sự hấp dẫn cho bài viết. 3. CHIẾN THUẬT VẬN DỤNG CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN Khi tạo lập văn bản nghị luận, một trong những đặc trưng quan trọng nhất là tổ chức lập luận. Lập luận là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị cho bài văn nghị luận. Bởi thế, chương trình Ngữ văn 11 có trình bày các thao tác lập luận như: thao tác lập luận so sánh, thao tác lập luận phân tích, thao tác lập luận bình luận, thao tác lập luận bác bỏ... Trước khi đi tìm hiểu về thao tác lập luận, đặc biệt hơn đó là việc rèn luyện năng lực tạo lập văn bản cho học sinh thì chúng ta cần có cái nhìn khái quát về các thao tác lập luận, cụ thể như sau: Thao tác được dùng để chỉ việc thực hiện những động tác theo trình tự và yêu cầu kỹ thuật nhất định. Thao tác lập luận là quá trình triển khai lí lẽ một cách logic nhằm phát hiện thêm một chân lí mới từ chân lí đã có. Phân biệt thao tác lập luận với các khái niệm khác: - Yếu tố lập luận: lí lẽ, chứng cứ, kết luận. - Cách triển khai lập luận: diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, nêu phản đề, so sánh, vấn đáp, phân tích nhân quả. - Phương tiện diễn đạt trong lập luận: miêu tả, tự sự, thuyết minh. Các thao tác lập luận Giải thích Giải thích là vận dụng tri thức để hiểu vấn đề nghị luận một cách rõ ràng và giúp người khác hiểu đúng ý của mình. Ví dụ 1: Chất thơ trong văn là gì? Trả lời: Chất thơ còn gọi là chất trữ tình trong văn xuôi là chỉ thứ ngôn ngữ bóng bẩy, giàu cảm xúc và có tính nhạc trong lời văn, nhiều từ ngữ gợi chứ không tả. Đoạn văn mở đầu truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam là khá tiêu biểu. Ví dụ 2: Giải thích câu thơ sau: Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (Nguyễn Du – Truyện Kiều) Trả lời: Đây là câu thơ thứ 3 và 4 của Truyện Kiều. Câu thơ thể hiện sự chiêm nghiệm phổ quát của đại thi hào về cõi nhân sinh: chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Cuộc bể dâu là những đổi thay lớn lao bất ngờ ngoài sự toan tính và mong muốn của con người, gây ra nhiều nỗi đau thương. Chính cuộc vần xoay đó làm bật lên những thân phận bất hạnh khiến Nguyễn Du vô cùng thương xót, bất bình. Chinh phụ ngâm cũng có ý thơ gần như vậy: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi/ Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. � Cách giải thích: - Giải thích cơ sở: giải thích từ ngữ, khái niệm khó, nghĩa đen, nghĩa bóng của từ. - Trên cơ sở đó giải thích toàn bộ vấn đề, chú ý nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. 14 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học Ví dụ: Sự trong sáng của ngôn ngữ là kết quả của một cuộc phấn đấu. Trong và sáng dính liền nhau. Tuy nhiên, cũng có thể phân tích ra để cho được rõ nghĩa hơn nữa. Theo tôi nghĩ, sáng là sáng sủa, dễ hiểu, khái niệm được rõ ràng; thường thường khái niệm, nhận thức, suy nghĩ được rõ ràng thì lời diễn đạt ra cũng được minh bạch. Tuy nhiên, nhất là trong thơ, có rất nhiều trường hợp ý nghĩa sáng rồi, dễ hiểu rồi, nhưng lời diễn đạt còn thô, chưa được trong, chưa được gọn, chưa được chuốt. Do đó tôi muốn hiểu chữ sáng là nặng về nói nội dung, nói tư duy, và chữ trong là nặng nói về hình thức, nói diễn đạt (và cố nhiên là nội dung và hình thức gắn liền). Cho nên phải phấn đấu cho được sáng nghĩa, đồng thời lại phải phấn đấu cho được trong lời, đặng cho câu thơ, câu văn trong sáng... (Xuân Diệu) Phân tích Phân tích là chia tách đối tượng, sự vật hiện tượng thành nhiều bộ phận, yếu tố nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng. Đối tượng phân tích trong bộ môn văn học: một nhận định, văn bản, tác phẩm, một phần tác phẩm, nhân vật, các yếu tố cụ thể… Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị ý nghĩa của sự vật hiện tượng, mối quan hệ giữa hình thức với bản chất, nội dung. Phân tích giúp nhận thức đầy đủ, sâu sắc cái giá trị hoặc cái phi giá trị của đối tượng. Riêng đối với tác phẩm văn học, phân tích là để khám phá ba giá trị của văn học: nhận thức, tư tưởng và thẩm mỹ. Yêu cầu phân tích: phải nắm vững đặc điểm cấu trúc của đối tượng để chia tách một cách hợp lí. Sau khi phân tích, tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết phải tổng hợp khái quát lại để nhận thức đối tượng đầy đủ, sâu sắc và trình bày ngắn gọn. � Cách phân tích - Khám phá chức năng biểu hiện của các chi tiết Ví dụ 1: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. (Nguyễn Khuyến) Từ xanh ngắt gợi tả không gian trời thu cao xanh vời vợi, nền trời là một màu xanh ngăn ngắt. Màu xanh này gợi tả được cảnh trong veo và thật im vắng, yên tĩnh. Cụm từ mấy từng cao đã diễn tả không gian sâu thẳm vô cùng. Trên nền không gian bao la ấy, tác giả điểm xuyết một cành trúc. Từ láy lơ phơ giàu sức tạo hình, gợi tả cành trúc khẳng khiu, thanh mảnh, nhẹ nhàng, thưa thớt lá, đang đong đưa trong làn gió nhẹ của chiều thu. Nhờ cần trúc với dáng nét lơ phơ mà cảnh thu có vẻ đẹp duyên dáng thơ mộng, thanh thoát. Ví dụ 2: Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc lơ lửng, trữ tình: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Hình ảnh thơ chân thực, không gian gần gũi nhưng nhờ cách lựa chọn thời gian nên đã gợi tả được phong cảnh tuyệt vời. Đó là thời điểm ngày đã hết, nắng chiều đã lưng nương nhưng lần lữa như không muốn đi. Bóng hoàng hôn còn lưu luyến thì trăng đã nhô lên, đổ ánh sáng dịu dàng. Do đó cảnh thung lũng có sự giao hòa ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, thứ ánh sáng dịu dàng, trong trẻo của trăng hoà với ánh sáng êm ả của hoàng hôn tạo ra một vừng sáng diệu kì như thực, như mơ. Chớp lấy khoảnh khắc lạ lùng ấy, Tố Hữu đã đem đến cho thiên nhiên Việt Bắc một vẻ đẹp bình dị, mộng mơ làm say đắm lòng người. - Dùng phép liên tưởng để mở rộng nội dung ý nghĩa Ví dụ: Tô Hoài giới thiệu nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ: - Trước nhà thống lí Pá Tra, người ta lúc nào cũng thấy Mị ngồi quay sợi bên tảng đá cạnh tàu ngựa. - Lúc nào cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Vị trí ngồi ấy cho thấy cuộc đời Mị như bị thít chặt trong kiếp ngựa trâu và khuôn mặt lột tả cõi lòng luôn mang nỗi đau buồn thầm lặng dai dẳng, triền miên. Nỗi buồn đông cứng như tảng đá vô tri và đè nặng lên đôi vai, lên cuộc đời Mị. Tác giả đã thể hiện nỗi buồn của Mị với giọng văn ngậm ngùi và chiều sâu cảm thông hiếm thấy. Đoạn văn mở đầu giúp người đọc chứng kiến cảnh đời bi thương của nhân vật Mị. 15 Chứng minh Chứng minh là đưa ra những cứ liệu - dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ, một ý kiến để thuyết phục người đọc người nghe tin tưởng vào vấn đề. � Cách chứng minh - Đưa ra lí lẽ trước. - Chọn dẫn chứng và đưa dẫn chứng. Cần thiết phải phân tích dẫn chứng để lập luận chứng minh thuyết phục hơn. Đôi khi thuyết minh trước rồi trích dẫn chứng sau. Ví dụ: Cảm hứng lãng mạn trong văn học, giai đoạn 1945 – 1975 a. Cảm hứng lãng mạn được thể hiện trong tác phẩm như thế nào? (Giải thích) - Tác phẩm thiên về ca ngợi lí tưởng, ca ngợi sự tốt đẹp của cuộc sống, thi vị hoá hiện thực. - Thể hiện những khát vọng, hoài bão lớn lao, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. b. Một số biểu hiện của cảm hứng lãng mạn (Chứng minh) - Thơ ca ca ngợi sự tốt đẹp của cuộc sống hiện tại: Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? - Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn, Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc, Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng... (Chế Lan Viên) Chỉ nhìn vào mặt tốt đẹp để ca ngợi, chưa nói được cái hiện thực còn bề bộn khó khăn nên nhiều tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn như thế. - Hiện thực gian khổ, thiếu thốn, mất mát hi sinh được thi vị hoá: Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. (Chính Hữu - Đường về) Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây. (Phạm Tiến Duật) - Quang Dũng đã lãng mạn hoá phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. - Cuối tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là hình ảnh: cánh rừng xà nu bạt ngàn, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp đến chân trời. Sức sống của thiên nhiên ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của cả dân tộc. Nó là cơ sở cho niềm tin tất thắng ở tương lai. Cảm hứng lãng mạn có thể bắt gặp ở hầu hết các tác phẩm trong thời kì văn học này. 16 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học - Biết đánh Pháp lúc đầu như châu chấu đá xe nhưng lãnh tụ hoàn toàn tin tưởng vào ngày mai: ...Kháng chiến thành công ta trở lại Trăng xưa hạc cũ với xuân này. (Cảnh rừng Việt Bắc) - Lên đường nhập ngũ, anh bộ đội mang theo niềm hi vọng lớn: Cây si xanh gọi họ đến ngồi Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai. Ngày mai sẽ là ngày sum họp Đã toả sáng. Những tâm hồn cao đẹp! (Nguyễn Mỹ) Sỡ dĩ văn chương thời kì này giàu vẻ đẹp lãng mạn là vì hiện thực cách mạng có nhiều gian khổ, thiếu thốn, hi sinh nhưng cũng có nhiều vẻ đẹp, nhiều niềm vui và gợi nhiều mơ ước về tương lai. Bình luận Bình luận là bàn bạc đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng… đúng/sai, hay/dở; tốt/xấu, lợi/hại…; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử phù hợp và có phương châm hành động đúng. Yêu cầu của việc đánh giá là sát đối tượng, nhìn nhận vấn đề toàn diện, khách quan và phải có lập trường tư tưởng đúng đắn, rõ ràng. � Cách bình luận: Bình luận luôn có hai phần: - Đưa ra những nhận định về đối tượng nghị luận. Thông thường, những nhận định được rút ra từ kết quả phân tích - Trên cơ sở của những nhận định, người viết đánh giá vấn đề Muốn đánh giá vấn đề một cách thuyết phục thì phải có lập trường đúng đắn và nhất thiết phải có tiêu chí. Trong nghị luận xã hội, thì dựa vào lập trường nhân dân và tiêu chí đạo lí... Trong nghị luận văn học, thì dựa vào lập trường nhân dân, quyền con người và tiêu chí là tính khách quan của đời sống, sự tiến bộ của văn học, đối với tác phẩm cụ thể thì tiêu chí là giá trị nhận thức, giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mỹ. Ví dụ: Bình luận về sự đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu đối với văn học dân tộc qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc? Trả lời: - Lần đầu tiên, người nông dân đi vào văn học với vẻ tự nhiên vốn có về cuộc sống, đức tính. - Lần đầu tiên, Nguyễn Đình Chiểu thấy được người nông dân là chủ nhân thật sự của đất nước, trong khi triều đình nhà Nguyễn lúng túng, nhu nhược trước ngoại xâm thì người nông dân đã tự giác đứng lên đánh giặc để bảo vệ quê hương bờ cõi. - Bài văn được viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ mộc mạc nhưng có sức gợi hình gợi cảm lớn, đặc biệt đoạn văn dựng lại cảnh chiến đấu rất hoành tráng, có không khí và màu sắc sử thi, vượt qua giới hạn của bài văn tế thông thường. - Bài văn khắc họa được hình tượng con người Việt Nam tiêu biểu về phẩm chất yêu nước và anh hùng, thể hiện tinh thần bất khuất và lẽ sống vì nước quên mình mang tính truyền thống của dân tộc Việt Nam. - Bài văn có ý nghĩa cỗ vũ tinh thần kháng chiến mạnh mẽ ngay từ lúc nó ra đời. So sánh So sánh là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để chỉ ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự vật mà mình quan tâm. Hai sự vật cùng loại có nhiều điểm giống nhau thì gọi là so sánh tương đồng, có nhiều điểm đối chọi nhau thì gọi là so sánh tương phản. Tác dụng của so sánh là nhằm nhận thức nhanh chóng đặc điểm nổi bật của đối tượng và cùng lúc hiểu biết được hai hay nhiều đối tượng. 17 � Cách so sánh - Trước hết là cần xác định đối tượng nghị luận từ đó tìm một đối tượng tương đồng hay tương phản, hoặc cần so sánh hai đối tượng cùng lúc. - Chỉ ra những điểm giống nhau giữa các đối tượng. - Dựa vào nội dung cần tìm hiểu, chỉ ra điểm khác biệt giữa các đối tượng. - Xác định giá trị cụ thể của các đối tượng. Ví dụ 1: So sánh nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về hiện tượng đời sống và cách làm bài. Nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về hiện tượng đời sống là hai dạng đề cụ thể của nghị luận xã hội. Nghĩa là, bàn bạc để hiểu một cách thấu đáo cũng như vận dụng vấn đề nghị luận vào đời sống và bản thân. Vấn đề đạo lí có tính chất truyền thống nhằm rèn luyện đạo đức nhân cách. Vấn đề hiện tượng đời sống mang tính thời sự nóng hổi nhằm mục đich rèn luyện ý thức công dân. Đối tượng nghị luận có khác nhau nhưng cách làm bài giống nhau. Phần mở bài, ta nên tìm hiểu và nói rõ nguyên nhân vì sao xuất hiện vấn đề trên và giới thiệu đề bài. Phần thân bài ta làm lần lượt các ý sau: 1. Giải thích chi tiết và tổng quát vấn đề nghị luận. 2. Đưa dẫn chứng cụ thể đồng thời phân tích để thấy việc đúng/sai của vấn đề. Nhận định khái quát việc đúng/sai, hoặc nửa đúng nửa sai của vấn đề. Khi lấy dẫn chứng bạn cần có phương pháp và tránh hiện tượng lấy quá nhiều hoặc quá ít dẫn chứng. 3. Bàn bạc mở rộng vấn đề: bạn nên tìm hiểu các khía cạnh còn lại của vấn đề; lật ngược vấn đề để hiểu chắc chắn hơn và tìm hiểu tác dụng, ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân và đời sống. Phần kết bài nên nhấn mạnh lần nữa giá trị của vấn đề. Ví dụ 2: Tiếng suối trong như tiếng hát xa… Nguyễn Du, Bạch Cư Dị so tiếng đàn với tiếng suối. Thế Lữ lại so tiếng hát trong với nước ngọc tuyền (suối ngọc). Những người này không miêu tả trực tiếp tiếng suối. Chỉ có Nguyễn Trãi cho tiếng suối là tiếng đàn cầm. Có lẽ đó là hình ảnh gần nhất với hình ảnh trong câu thơ này. Có thể chẳng phải ngẫu nhiên. Nguyễn Trãi sành âm nhạc. Bác Hồ cũng thích âm nhạc. Tiếng hát của một danh ca Pháp từng thích nghe thời trẻ, đến tuổi bảy mươi Bác còn nhờ chị Mađơlen Rípphô tìm lại hộ. Tiếng suối ngàn của đất nước hay đó là tiếng hát của trái tim người nghệ sĩ yêu đời. (Lê Trí Viễn) Bác bỏ Bác bỏ là chỉ ra ý kiến sai trái của vấn đề trên cơ sở đó đưa ra nhận định đúng đắn và bảo vệ ý kiến lập trường đúng đắn của mình. Yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ: - Muốn bác bỏ một ý kiến sai thì phải dẫn đầy đủ ý kiến đó. Sau đó làm sáng tỏ hai phương diện: sai ở chỗ nào và vì sao như thế là sai. Trả lời vì sao như thế là sai, đó chính là thao tác lập luận bác bỏ. - Để khẳng định ý kiến sai cần xem xét ba yếu tố: luận điểm, luận cứ, luận chứng. - Bác bỏ ý kiến sai là dùng lý lẽ và dẫn chứng để phân tích, lí giải tại sao như thế là sai. * Lưu ý: Trong thực tế, một vấn đề nhiều khi có mặt đúng, mặt sai. Vì vậy, khi bác bỏ hoặc khẳng định cần cân nhắc, phân tích từng mặt để tránh tình trạng khẳng định chung chung hay bác bỏ, phủ nhận tất cả. � Cách bác bỏ Bác bỏ một ý kiến sai có thể thực hiện bằng nhiều cách: bác bỏ luận điểm, bác bỏ luận cứ, bác bỏ cách lập luận hoặc kết hợp cả ba cách. a. Bác bỏ luận điểm: thông thường có hai cách bác bỏ - Dùng thực tế để bác bỏ: Nếu luận điểm đi ngược lại với thực tế thì ta dùng thực tế để bác bỏ. 18 CHIẾN THUẬT ÔN THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN - Chuyên đề nghị luận Văn học - Dùng phép suy luận: Từ thực tế, ta có thể thêm suy luận để cái sai ấy bộc lộ rõ hơn. b. Bác bỏ luận cứ: Là vạch ra tính chất sai lầm, giả tạo trong lý lẽ và dẫn chứng được sử dụng. c. Bác bỏ lập luận: Là vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi lôgíc trong lập luận của đối phương. * Lưu ý: Mục đích của bác bỏ là bảo vệ chân lí, xác nhận sự thật. Nếu xa rời mục đích chân lí thì sự bác bỏ trở thành ngụy biện, vô bổ và có hại. Bài viết có bố cục như sau: Đoạn 1: Xác định luận điểm cần bác bỏ. Đoạn 2: Phân tích để thấy rõ thực chất của luận điểm. Đoạn 3: Dùng luận cứ để bác bỏ luận điểm. Ví dụ: a. Nhất Chi Mai (Nhất Linh) phê bình Vũ Trọng Phụng, năm 1937. Đọc xong một đoạn văn, tôi thấy trong lòng phẫn uất, khó chịu, tức tối. Không phải phẫn uất, khó chịu cái vết thương xã hội tả trong câu văn, mà chính là vì cảm thấy tư tưởng hắc ám, căm hờn nhỏ nhen ẩn trong đó. ... Đọc văn Vũ Trọng Phụng, thực không bao giờ tôi thấy một tia hy vọng, một tư tưởng lạc quan. Đọc xong ta phải tưởng tượng nhân gian là một nơi địa ngục và xung quanh mình toàn là những kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục, nói càn, một thế giới khốn nạn vô cùng. Phải chăng đó là tấm gương phản chiếu tính tình, lí tưởng của nhà văn, một nhà văn nhìn thế giới qua cặp kính đen và một cội nguồn văn cũng đen nữa. b. Vũ Trọng Phụng đã phản bác lại cùng năm đó, 1937. Khi dùng một từ bẩn thỉu tôi chẳng thấy khoái trá như khi các ông tìm được một kiểu áo phụ nữ mới mẻ, những lúc ấy, tôi chỉ thương hại cái nhân loại ô uế bẩn thỉu, nó bắt tôi phải viết như thế, và nó bắt các ông phải chạy xa sự thực bằng những danh từ điêu trá của văn chương. Các ông quen nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ trẻ trung, hi sinh cho ái tình hoặc cách mạng lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một người đàn bà vô học, chẳng có thị vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi trùng trong người nữa. Tôi không biết gọi gái đĩ là nàng - chữ ấy nó thi vị lắm - hoặc tô điểm cho gái đĩ ấy những cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong truyện người ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo! ... Đó, thưa các ông, cái chỗ bất đồng ý kiến giữa chúng ta!... Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời... Hắc ám, có! Vì tôi vốn là người bi quan, căm hờn cũng có, vì tôi cho rằng cái xã hội nước nhà mà lại không đáng căm hờn, mà lại cứ vui vẻ trẻ trung, trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ v.v...như các ông chủ trương thì một là không muốn cải cách gì xã hội, hai là ích kỉ một cách đáng sỉ nhục. Còn bảo nhỏ nhen thì thế nào? Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của nhân dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức, muốn cho xã hội công bình hơn nữa, đừng có chuyện ô uế, dâm đãng, mà bảo là nhỏ nhen, thì há dễ Zôla (Dôla), Hugo (Huygô), Mabraux (Mabrô), Dostoievski (Đôtstôiepski), Maxime Gorki (Maxim Gorki) lại không cũng là nhỏ nhen? Nếu các ông không muốn sờ lên gáy thì thôi, bao nhiêu chuyện thanh cao, tao nhã, cao thượng của loài người xin các ông cố mà hương hoa khấn khứa. Tôi xin để cái phần ấy cho các ông. Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy khốn nạn, quan tham lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi bời của bọn giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê, thợ thuyền bị lầm than, bị bóc lột. Lạc quan được, cho đời là vui, là không cần cải cách, cho cái xã hội này là hay ho tốt đẹp, rồi ngồi mà đánh phấn bôi môi hình quả tim để đi đua ngựa, chợ phiên, khiêu vũ, theo ý tôi, thế là giả dối, là tự lừa mình và di hoạ cho đời, nếu không là vô liêm sỉ một cách thành thực. 19 4. CHIẾN THUẬT VẬN DỤNG KIẾN THỨC LÍ LUẬN VĂN HỌC Lý luận văn học là hệ thống những quan điểm và lập luận chỉ ra cội nguồn, bản chất, chức năng và sự phát triển của văn học trong đời sống xã hội, nói một cách cụ thể, lý luận văn học nghiên cứu quan điểm, nguyên lý và nguyên tắc sáng tạo, phương pháp biểu hiện, miêu tả, đánh giá, cảm thụ tác phẩm văn học và các sự kiện, trào lưu văn học, nhằm phát hiện những vấn đề có tính quy luật trong quá trình phát triển của từng nền văn học dân tộc và cả nền văn học thế giới. Toàn bộ những kiến thức cơ bản về lý luận văn học phải trở thành những phương tiện, công cụ có hiệu lực giúp người học dễ dàng tiếp thu các bộ môn văn học khác, phải trở thành một cái vốn công cụ tốt - cơ sở khoa học cho sinh viên chiếm lĩnh khoa học văn học. Riêng đối với kiến thức lý luận văn học, chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn chủ trương cung cấp cho học sinh những kiến thức lý luận văn học thiết thực, gắn chặt với việc đọc văn, làm văn. Nội dung lý luận văn học ở cấp THPT được xây dựng theo 3 trọng tâm sau: Văn bản và đọc – hiểu văn bản văn học: Kiến thức lý luận văn học về văn bản và đọc – hiểu văn bản chủ yếu được phân bố ở chương trình Ngữ văn 10 như sau: Các đơn vị kiến thức LLVH Ngữ văn 10 – Cơ bản Ngữ văn 10 – Nâng cao Văn bản văn học Văn bản văn học, ngôn từ, hình Văn bản văn học, ngôn từ, hình tượng, ý nghĩa. tượng, ý nghĩa. Đọc – hiểu văn bản văn học, đọc – hiểu văn bản văn học trung đại. Thể loại (Không có bài học riêng) Sơ lược về một số thể loại văn Sơ lược về một số thể loại văn học dân gian và văn học dân gian và văn học trung học trung đại (Việt Nam và thế giới) được học trong đại (Việt Nam và thế giới) được chương trình. học trong chương trình. Một số khái niệm văn học khác (Không có bài học riêng) Nhân vật trữ tình, cốt truyện, kết Nhân vật trữ tình, cốt truyện, kết cấu, nhân vật văn cấu. học, tính cách, chủ nghĩa nhân đạo, độc thoại. + Phần lý luận văn học trong chương trình Ngữ văn 11 lại tập trung chủ yếu về các thể loại văn học và cách đọc – hiểu các thể loại văn học (Tự sự, trữ tình, kịch, nghị luận), được phân bố trong sách giáo khoa như sau: Các đơn vị kiến thức LLVH Thể loại 20 Ngữ văn 11 – Cơ bản Ngữ văn 11 - Nâng cao Sơ lược về các thể loại tiêu biểu của văn học Việt Nam (thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đến năm 1945) và văn học nước ngoài được học trong chương trình. (Không có bài học riêng). Thể loại: tự sự, trữ tình, kịch, nghị luận. Sơ lược về các thể loại tiêu biểu của văn học Việt Nam (thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đến năm 1945) và văn học nước ngoài được học trong chương trình. (Không có bài học riêng). Thể loại: tự sự, trữ tình, kịch, nghị luận.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
đề thi 2017...
17
4649
88