Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chế định nuôi con nuôi theo pháp luật việt nam​...

Tài liệu Chế định nuôi con nuôi theo pháp luật việt nam​

.PDF
130
133
61

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ MƠ ChÕ ®Þnh nu«i con nu«i theo ph¸p luËt ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ MƠ ChÕ ®Þnh nu«i con nu«i theo ph¸p luËt ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN CỪ HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Dƣơng Thị Mơ MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI .................7 1.1. Khái niệm nuôi con nuôi, chế định nuôi con nuôi ....................................7 1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi ...............................................................................7 1.1.2. Khái niệm chế định nuôi con nuôi ..............................................................13 1.1.3. Đặc điểm của quan hệ nuôi con nuôi ..........................................................14 1.1.4. Các hình thức nuôi con nuôi .......................................................................15 1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi ...............................................20 1.2.1. Mục đích ......................................................................................................20 1.2.2. Ý nghĩa ........................................................................................................21 1.3. Khái quát quá trình phát triển pháp luật của Việt Nam về nuôi con nuôi ......................................................................................................22 1.3.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 .....................................22 1.3.2. Giai đoạn trƣớc khi ban hành Luật Nuôi con nuôi năm 2010 .....................25 1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành Luật nuôi con nuôi đến nay ..............................31 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................34 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI HIỆN NAY ..........35 2.1. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi ................................................35 2.1.1. Nguyên tắc khi giải quyết việc nuôi con nuôi phải tôn trọng quyền trẻ em là đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình gốc ....................................35 2.1.2. Nguyên tắc việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi và ngƣời nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội .............................................................................................37 2.1.3. Nguyên tắc chỉ cho làm con nuôi ngƣời ở nƣớc ngoài khi không thể tìm đƣợc gia đình thay thế ở trong nƣớc .....................................................39 2.2. Điều kiện nuôi con nuôi ............................................................................40 2.2.1. Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi .......................................40 2.2.2. Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con nuôi ...............................................42 2.2.3. Sự thể hiện ý chí của các chủ thể ................................................................45 2.2.4. Sự công nhận của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền .................................50 2.3. Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi .................................................51 2.3.1. Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi trong nƣớc ...................................51 2.3.2. Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài ...................55 2.3.3. Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi ở khu vực biên giới......................63 2.4. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi ....................................................65 2.4.1. Quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi .......................................................66 2.4.2. Quan hệ giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi ........................................................................................................74 2.4.3. Quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi ................................78 2.5. Chấm dứt việc nuôi con nuôi ....................................................................82 2.5.1. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi ...........................................................83 2.5.2. Trình tự, thủ tục giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi ...........................86 2.5.3. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi .....................................90 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................92 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT NUÔI CON NUÔI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................................93 3.1. Tình hình đăng ký nuôi con nuôi .............................................................93 3.1.1. Kết quả đăng ký nuôi con nuôi trong nƣớc .................................................93 3.1.2. Kết quả đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài .................................95 3.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Luật Nuôi con nuôi ............................96 3.2.1. Đối với công tác đăng ký nuôi con nuôi trong nƣớc ...................................96 3.2.2. Đối với công tác đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài .................100 3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi..........................103 3.3.1. Kiến nghị, đề xuất về việc thực hiện Luật Nuôi con nuôi.........................103 3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi ..........................................106 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3........................................................................................118 KẾT LUẬN ............................................................................................................119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................121 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật dân sự BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự Công ƣớc La Hay Công ƣớc La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế HN&GĐ Hôn nhân và gia đình NLHVDS Năng lực hành vi dân sự Nghị định số 19/2011/NĐ-CP Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi Nghị định số 24/2019/NĐ-CP Nghị định số 24/2019/NĐ-CP ngày 05/3/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi TAND Tòa án nhân dân UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu * Tính cấp thiết của đề tài Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật, nó góp phần vào việc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Việc nuôi con nuôi hiện nay không còn là vấn đề trong nƣớc mà đã đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới quan tâm. Đặc biệt, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nuôi con nuôi thực sự đã trở thành vấn đề nhân đạo mang tính toàn cầu và đã đƣợc thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật trong nƣớc. Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay thì chất lƣợng cuộc sống tăng lên nhƣng tỷ lệ vô sinh và gia đình hiếm muộn con cũng tăng đáng kể. Bên cạnh đó, nhu cầu nhận nuôi con nuôi của những ngƣời chƣa kết hôn đang phát triển khá mạnh mẽ dẫn đến nhu cầu cần con nuôi cũng nhiều hơn trƣớc. Với ý nghĩa là một quyền tự do dân sự của cá nhân, việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có thể đƣợc thực hiện theo những cách thức khác nhau, tuỳ theo sự lựa chọn của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Trong chiến lƣợc phát triển đất nƣớc, Nhà nƣớc ta luôn quan tâm, coi trọng việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, pháp luật với việc bảo vệ quyền trẻ em hiện nay cho thấy còn nhiều tồn tại vƣớng mắc, cần có những hƣớng giải quyết tích cực. Trƣớc hết ngƣời nhận nuôi con nuôi còn tâm lí phân biệt giữa con đẻ và con nuôi, lợi dụng việc nhận nuôi con nuôi để trục lợi bản thân, cho trẻ em làm con nuôi vì các mục đích khác trái pháp luật (mua bán trẻ em) và đạo đức xã hội; trong quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi còn tồn tại hiện tƣợng xâm phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em nhƣ bóc lột sức lao động của trẻ, xâm hại tình dục, bạo hành, ngƣợc đãi đối với con nuôi; hoặc do quan niệm lạc hậu nhƣ nuôi con nuôi để sinh con… Điều đó dẫn tới việc khó tìm đƣợc gia đình thích hợp cho trẻ chịu nhiều nghiệt ngã của số phận nhƣ trẻ tàn tật, trẻ em bị bỏ rơi, mắc bệnh hiểm nghèo… 1 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 là đạo luật về nuôi con nuôi đầu tiên của Việt Nam. Pháp luật về nuôi con nuôi ở nƣớc ta đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng và giáo dục trong môi trƣờng gia đình; động viên, khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con ngƣời Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống tƣơng thân tƣơng ái, lá lành đùm lá rách trong nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cha mẹ nuôi, giúp họ ổn định tƣ tƣởng và yên tâm trong việc nuôi dƣỡng, chăm sóc con nuôi nhƣ con đẻ. Tuy nhiên trong thực tế việc hiểu và thực hiện các quy định về nuôi con nuôi còn chƣa đúng, chƣa đầy đủ, thậm chí còn có những sai phạm, làm ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền của trẻ em, nhất là quyền của trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi. Luật Nuôi con nuôi đã quy định các quyền và nghĩa vụ của ngƣời nhận nuôi con nuôi cũng nhƣ ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi, điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp, các thủ tục và thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi song vẫn còn nhiều bất cập, vƣớng mắc, nhiều quy định chƣa cụ thể, rõ ràng, nhƣ: các quy định về thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi phức tạp hơn, hồ sơ nuôi con nuôi cần nhiều loại giấy tờ hơn, quy định về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi chƣa đầy đủ, thiếu rõ ràng, chƣa có sự tƣơng thích với quy định của các ngành luật khác có liên quan, đặc biệt là hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài còn chƣa đƣợc quy định, các điều kiện nuôi con nuôi chƣa chặt chẽ, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng trong thực tế thiếu thống nhất... Nuôi con nuôi là lĩnh vực khá nhạy cảm, quan hệ xã hội này luôn có sự biến động phức tạp. Vì vậy, để việc nuôi con nuôi đƣợc thực hiện một cách có hiệu quả và đúng mục đích, đảm bảo quyền lợi trẻ em, thì việc hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi là một yêu cầu khách quan. * Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề nuôi con nuôi là đối tƣợng quan tâm của nhiều nhà và nhiều lĩnh vực khoa học nghiên cứu. Từ khi Luật Nuôi con nuôi đƣợc ban hành đến nay, đã có rất nhiều công trình, bài viết, luận văn thạc sĩ nghiên cứu hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi. Có thể kể đến nhƣ: 2 - Luận văn thạc sĩ luật học: Nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam của tác giả Bùi Thị Hƣơng, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011. Luận văn phân tích quá trình phát triển của pháp luật nuôi con nuôi, những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế và sự cần thiết của Luật Nuôi con nuôi, nhƣng lại không phân tích kỹ các nội dung của Luật Nuôi con nuôi. - Luận văn thạc sĩ luật học: Quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi theo pháp luật Việt Nam hiện nay của tác giả Kiều Thị Huyền Trang, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014. Luận văn đã phân tích một số nội dung về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi qua mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi, giữa con đã làm con nuôi với cha mẹ đẻ và chỉ ra một số điểm còn hạn chế trong các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi. - Chuyên đề “Pháp luật về nuôi con nuôi” năm 2011, Tạp chí Dân chủ và pháp luật - Bộ Tƣ pháp. Chuyên đề bao gồm các bài viết về một số nội dung của Luật Nuôi con nuôi nhƣ mục đích, nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi, các nội dung liên quan về điều kiện nuôi con nuôi, hồ sơ, thủ tục, thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi ... Các bài viết trong tạp chí này mang tính chất thông tin về Luật Nuôi con nuôi sau khi đƣợc ban hành và mới có hiệu lực. - Tác giả Nguyễn Phƣơng Lan với bài viết “Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi”, số tháng 10/2011 Tạp chí Luật học và bài viết “Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài theo Luật Nuôi con nuôi”, số tháng 5/2012 Tạp chí Luật học. Các bài viết đã bàn đến quy định của Luật Nuôi con nuôi về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong nƣớc và nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài, nêu những điểm vƣớng mắc, bất cập và kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về vấn đề này. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội: Luật Nuôi con nuôi - thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện, chủ nhiệm đề tài Nguyễn Phƣơng Lan, năm 2017. Đề tài nghiên cứu tình hình thực thi Luật Nuôi con nuôi, làm 3 rõ những vƣớng mắc, bất cập, chỉ ra những điểm cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi và đề xuất các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả các hoạt động trong quá trình giải quyết, thực hiện việc nuôi con nuôi. Với tình hình nghiên cứu chung đó, việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nhằm tìm hiểu một cách tổng thể, toàn diện, có tính hệ thống và chuyên sâu về pháp luật nuôi con nuôi trong khoa học pháp lý Việt Nam, tác giả chọn đề tài “Chế định nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ của mình. 2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu * Phạm vi nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu các quy định về nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam giai đoạn trƣớc khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 ra đời. - Nghiên cứu chế định nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và các văn bản liên quan khác về quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực nuôi con nuôi, hộ tịch, hôn nhân và gia đình. - Nghiên cứu thực trạng thực hiện việc nuôi con nuôi, áp dụng pháp luật và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi. - Kiến giải một số vấn đề nhằm hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay. * Mục đích nghiên cứu đề tài Dựa trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật nuôi con nuôi, tác giả muốn tìm hiểu rõ hơn những vấn đề lý luận chung, tìm hiểu thực tiễn việc tiến hành nuôi con nuôi nhằm tìm ra những điểm còn hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành và trong quá trình thi hành, áp dụng các quy định về nuôi con nuôi; đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện chế định nuôi con nuôi và đảm bảo hiệu quả của việc thi hành, áp dụng chế định nuôi con nuôi trong thực tiễn. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Phân tích để hiểu rõ bản chất pháp lý và tính nhân đạo của chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam. Nghiên cứu một cách tổng thể pháp luật nuôi con 4 nuôi ở nƣớc ta trong quá trình lập pháp; phát hiện những bất cập, hạn chế, khiếm khuyết của các quy định về nuôi con nuôi, từ đó có cơ sở để kiến nghị hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi. Khảo sát và đánh giá thực tiễn áp dụng chế định nuôi con nuôi, qua đó phát hiện những vƣớng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng và thực hiện pháp luật nuôi con nuôi. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau: Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài đƣợc nghiên cứu bằng các phƣơng pháp cụ thể là phân tích, tổng hợp, hệ thống, kết hợp với các phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp lịch sử. Một số phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu đƣợc áp dụng: + Phương pháp phân tích, tổng hợp: Thông qua phƣơng pháp này, các khái niệm, đặc điểm liên quan đến các nguyên tắc, trình tự thủ tục nhận nuôi con nuôi đƣợc phân tích cụ thể, chỉ ra các mối liên hệ từ đó đƣa ra những kết luận về các vấn đề cần giải quyết trong luận văn. + Phương pháp so sánh: Sử dụng để so sánh các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi từ trƣớc khi Luật Nuôi con nuôi đƣợc ban hành cho đến nay. + Phương pháp lịch sử: Đƣợc sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của chế định nuôi con nuôi qua các thời kỳ. + Phƣơng pháp tổng hợp nhằm sắp đặt, liên kết, hệ thống các vấn đề đã phân tích cũng nhƣ trình bày các vấn đề. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn nghiên cứu tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi góp phần đánh giá, khắc phục và hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi của Nhà nƣớc ta thông qua việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật trên thực tiễn. 5 6. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng, cụ thể: Chương 1: Cơ sở lý luận về chế định nuôi con nuôi. Chương 2: Thực trạng chế định nuôi con nuôi hiện nay. Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của Luật nuôi con nuôi và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay. 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI 1.1. Khái niệm nuôi con nuôi, chế định nuôi con nuôi 1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi Nuôi con nuôi là hiện tƣợng đã xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới. Trong Bộ luật Hammurabi, một trong những bộ luật thành văn cổ xƣa nhất đã chứa đựng những quy định về nuôi con nuôi, đặc biệt với đối tƣợng là trẻ em bị bỏ rơi. Mục 106 của Bộ luật này đã quy định: Trƣớc khi đàn ông có thể nuôi một đứa trẻ bị bỏ rơi, ông ta phải tìm cha mẹ đẻ của nó, nếu tìm thấy thì phải trả đứa trẻ cho họ. Có thể thấy, từ cổ xƣa đến hiện đại giải pháp tốt nhất mà xã hội giành cho trẻ em vẫn là “ƣu tiên trƣớc hết đối với trẻ là đƣợc chăm sóc bởi chính cha mẹ đẻ, đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình ruột thịt của mình” (Điều 3 Tuyên bố 1986 của Liên Hợp quốc). Trong hệ thống pháp luật La Mã cổ đại thì nuôi con nuôi chủ yếu nhằm để duy trì dòng họ, thờ cúng tổ tiên và thừa kế tài sản. Trong Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804 - Bộ luật ra đời đánh dấu nền lập pháp hiện đại, vấn đề con nuôi cũng đƣợc đề cập. Ở vào thời kỳ đầu khi đƣợc ban hành và thực hiện, Bộ luật xóa bỏ đối tƣợng con nuôi là trẻ vị thành niên, chỉ cho phép con nuôi là ngƣời đã trƣởng thành và đã đƣợc chăm sóc trong gia đình cha mẹ nuôi 06 năm. Ngƣời nuôi phải từ 50 tuổi trở lên và không có con nối dõi. Giải pháp nuôi con nuôi chỉ đƣợc thực hiện trong trƣờng hợp cha mẹ nuôi không có ngƣời thừa kế. Con nuôi đƣợc giữ nguyên tất cả các quyền của chúng trong gia đình gốc, chỉ đƣợc quyền thừa kế tài sản và mang họ của ngƣời nuôi. Ở Việt Nam, theo từ điển bách khoa Việt Nam thì khái niệm nuôi con nuôi là việc một ngƣời (ngƣời nuôi) nhận nuôi ngƣời khác (con nuôi) nhằm tạo ra những tình cảm gắn bó giữa hai ngƣời, bảo đảm cho ngƣời con nuôi đƣợc thƣơng yêu, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục tốt. Việc nhận nuôi con nuôi do UBND xã/phƣờng/thị trấn (UBND cấp xã) nơi ngƣời nuôi và của con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch. Thông qua sự kiện pháp lý này giữa ngƣời nuôi và con nuôi phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhƣ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ [7, tr.316]. 7 Theo Luật HN&GĐ năm 2000 thì: Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi, bảo đảm cho ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi đƣợc trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Một ngƣời có thể đƣợc nhận một hoặc nhiều ngƣời làm con nuôi. Giữa ngƣời nhận nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của Luật này [12, Điều 67]. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi [15, Điều 3, Khoản 1]. Con nuôi là ngƣời đƣợc một ngƣời hoặc hai vợ chồng nhận làm con và coi nhƣ con đẻ, nhƣng giữa hai bên không có liên hệ với nhau về mặt sinh học, không có quan hệ huyết thống với nhau hoặc tuy có quan hệ huyết thống với nhau trong phạm vi nhất định nhƣng không phải là quan hệ huyết thống trực hệ và không sinh thành ra nhau [9, tr.11]. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi, các bên đối xử với nhau nhƣ cha mẹ đẻ và con đẻ nhƣng không có quan hệ với nhau về mặt sinh học và huyết thống. Nếu quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con là quan hệ dựa trên sự kiện sinh đẻ, là mối liên hệ huyết thống tự nhiên, quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ đẻ và con đẻ phát sinh không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ là hợp pháp hay không hợp pháp thì quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đƣợc hình thành dựa trên ý chí chủ quan của cha mẹ nuôi và con nuôi, quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chỉ phát sinh khi quan hệ nuôi con nuôi đƣợc pháp luật công nhận. Xem xét dƣới góc độ xã hội, “con nuôi là con của người khác nhưng được một người hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con và coi như con đẻ, nhằm thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích nhất định của các bên” [9, tr.10]. Việc nuôi con nuôi có thể đƣợc xác lập do sự thỏa thuận của cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên hoặc giữa cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ của con nuôi chƣa 8 thành niên trên cơ sở tình cảm và ƣớc nguyện gắn bó giữa hai gia đình (nuôi con nuôi trên danh nghĩa) hoặc có thể do ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi đã gắn bó với nhau, thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con trên thực tế, đáp ứng đƣợc các điều kiện chủ thể nhƣng chƣa đăng ký tại các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền (nuôi con nuôi thực tế) hoặc việc nuôi con nuôi theo phong tục tập quán đã từng tồn tại từ lâu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và hiện nay vẫn còn tồn tại nhƣ: dân tộc Mƣờng, Thái, Dao, Thổ, Mông, Khơ Mú đều có phong tục nhận nuôi con nuôi [21, tr.70-101]. Nhƣ vậy, dƣới góc độ xã hội, việc nuôi con nuôi không đòi hỏi các điều kiện chặt chẽ mà chỉ cần đáp ứng những lợi ích về vật chất và tinh thần, không cần có sự thừa nhận của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi này không đƣợc pháp luật điều chỉnh. Dƣới góc độ pháp lý, việc nuôi con nuôi phải đăng ký và do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền tiến hành đăng ký, các nghi thức nhận nuôi con nuôi khác (nhƣ giấy tờ viết tay giữa cha mẹ đẻ cho con đẻ của mình làm con nuôi ngƣời khác hay ngƣời nhận con nuôi lập đàn lễ cúng tế tổ tiên về việc nhận con nuôi hoặc nhặt đƣợc trẻ bị bỏ rơi thì mang về nuôi mà… không khai báo, đăng ký với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền) đều không có giá trị pháp lý và không đƣợc nhà nƣớc công nhận, giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi không có các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật. Ở góc độ này, việc nuôi con nuôi có thể đƣợc hiểu là sự kiện pháp lý hoặc là quan hệ pháp luật. * Nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế và chỉ trở thành sự kiện pháp lý khi pháp luật xác định rõ điều đó [25]. Với tƣ cách là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi là một hình thức pháp lý nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi theo các điều kiện do pháp luật quy định, mà không liên quan đến quan hệ huyết thống sinh học giữa hai bên [9, tr.21]. Nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp 9 luật cha mẹ - con giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi, khi giữa họ không có quan hệ huyết thống trực hệ mà đƣợc xác lập trên cơ sở quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền theo ý chí, nguyện vọng của các đƣơng sự và tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về các điều kiện xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Để làm rõ bản chất của sự kiện pháp lý nuôi con nuôi cần xem xét mối quan hệ giữa các sự kiện cấu thành của nó. Nuôi con nuôi bao gồm các sự kiện pháp lý sau Một là, các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi bao gồm: cha mẹ nuôi (ngƣời nhận con nuôi), con nuôi (ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi) và cha mẹ đẻ của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi có đủ điều kiện của việc nuôi con nuôi. Hai là, sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi chỉ đƣợc hình thành khi các bên có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi thể hiện ý chí trong việc cho và nhận con nuôi. Pháp luật không thừa nhận quan hệ nuôi con nuôi khi ý chí của một trong các bên không thể hiện rõ hoặc thể hiện không đúng theo quy định của pháp luật. + Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi Ngƣời nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó thông qua đơn xin nhận nuôi con nuôi. + Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi Ý chí của những ngƣời này trong việc cho trẻ em làm con nuôi phải minh thị và xuất phát từ sự tự nguyện thật sự của bản thân họ mà không có bất cứ sự tác động, thúc ép, dụ dỗ, hứa hẹn hoặc một áp lực nào. Ý chí đó phải hoàn toàn độc lập. Nội dung của ý chí đó là đồng ý cho con mình làm con nuôi của ngƣời khác. Sự đồng ý đó có thể thể hiện bất cứ lúc nào nhƣng nó chỉ có ý nghĩa sau khi đứa trẻ đƣợc sinh ra mà còn sống ít nhất đƣợc 15 ngày [15, Điều 4]. + Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định “...trường hợp 10 nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó”. Ở độ tuổi này, mặc dù đứa trẻ chƣa có NLHVDS đầy đủ nhƣng đã có khả năng nhận thức nhất định về cuộc sống, có thể nhận biết và bày tỏ thái độ của mình mong muốn hay không mong muốn làm con nuôi ngƣời khác, cũng nhƣ cảm nhận đƣợc sự an toàn hay không an toàn khi đƣợc cho làm con nuôi ngƣời khác, khi phải thay đổi môi trƣờng sống ... Do đó, pháp luật quy định đứa trẻ từ đủ 09 tuổi trở lên có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình; sự đồng ý làm con nuôi của đứa trẻ là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý. + Sự thể hiện ý chí của Nhà nước Ý chí của Nhà nƣớc đƣợc thể hiện thông qua việc công nhận (hay không công nhận) việc nuôi con nuôi, thông qua thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi (hay từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi). Việc nuôi con nuôi đƣợc công nhận tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc nuôi con nuôi. Nhƣ vậy, sự kiện nuôi con nuôi là một tập hợp các sự kiện có mối liên hệ với nhau, vừa có sự ràng buộc nhau và phát sinh theo một trật tự nhất định, bao gồm các yếu tố cấu thành mà nếu thiếu đi một trong các yếu tố cấu thành đó sẽ không có hiệu lực, không làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. * Nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật Quan hệ pháp luật là những quan hệ nảy sinh trong xã hội đƣợc các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Quan hệ nuôi con nuôi là những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi đƣợc các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Là quan hệ pháp luật, thì quan hệ nuôi con nuôi có thể đƣợc hiểu là một quan hệ pháp luật cụ thể có đầy đủ các yếu tố: chủ thể, khách thể, nội dung hoặc có thể đƣợc hiểu là một nhóm các quan hệ pháp luật [9, tr.30]. Thứ nhất, nuôi con nuôi là một loại quan hệ pháp luật, có các yếu tố cấu thành là chủ thể, khách thể, nội dung. Chủ thể trong quan hệ pháp luật nuôi con nuôi bao gồm: cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và con nuôi. Để đƣợc coi là chủ thể của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi thì 11 các bên chủ thể phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện tƣơng ứng theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi. Khách thể của quan hệ nuôi con nuôi là những lợi ích mà các bên chủ thể hƣớng tới. Những lợi ích đó là những lợi ích tinh thần và vật chất mà cả ngƣời nhận nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi mong muốn đƣợc hƣởng và hƣớng tới. Đó có thể là lợi ích tình cảm của cha mẹ nuôi và con nuôi, đáp ứng điều kiện cho sự phát triển đầy đủ của đứa trẻ, đáp ứng đƣợc mong muốn của cha mẹ đẻ là con của họ sẽ có một mái ấm tốt đẹp hơn tại gia đình của cha mẹ nuôi... Nội dung của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể do pháp luật quy định khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi, bao gồm các quyền, nghĩa vụ nhân thân và quyền, nghĩa vụ tài sản giữa các chủ thể. Việc xác lập quan hệ gia đình, quan hệ cha, mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi con nuôi với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi đƣợc hình thành từ quan hệ nuôi dƣỡng, chăm sóc, dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi và phải đƣợc sự công nhận của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Thứ hai, quan hệ pháp luật nuôi con nuôi đƣợc hiểu theo nghĩa là nhóm quan hệ pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Các quan hệ này có thể là các loại quan hệ khác nhau nhƣ: quan hệ hành chính trong việc đăng ký và quản lý việc nuôi con nuôi; quan hệ HN&GĐ trong việc điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa ngƣời nhận nuôi và con nuôi; quan hệ tố tụng trong giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi; quan hệ pháp luật hình sự khi có hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để mua bán trẻ em ... Tập hợp các quan hệ pháp luật này thể hiện sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Nhƣ vậy, khái niệm nuôi con nuôi có thể đƣợc hiểu dƣới nhiều góc độ và đƣợc xét ở nhiều khía cạnh, nhƣng dù dƣới góc độ hay khía cạnh nào thì có thể thấy các trƣờng hợp nuôi con nuôi đều xuất phát từ ý chí chủ quan của cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ và con nuôi. 12 1.1.2. Khái niệm chế định nuôi con nuôi “Chế định pháp luật là khái niệm dùng để chỉ một số quy phạm pháp luật có những đặc điểm chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tƣơng ứng” [24, tr.402]. Chế định pháp luật có tính chất nhóm, mỗi chế định có đặc điểm riêng nhƣng có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau. Việc xác định ranh giới giữa các chế định nhằm tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Chế định nuôi con nuôi là chế định pháp lý bao gồm các nguyên tắc, quy định, quan điểm, tƣ tƣởng pháp lý của nhà nƣớc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi nuôi, nhƣ các quy phạm pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi, trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi, bao gồm cả các trƣờng hợp nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài... Theo Tiến sĩ Nguyễn Phƣơng Lan thì: Chế định nuôi con nuôi là tổng hợp các quy phạm pháp luật, do nhà nƣớc ban hành, điều chỉnh việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi, trên cơ sở hình thành quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi [9, tr.35]. Chế định pháp lý về nuôi con nuôi bao gồm những đặc điểm sau: - Chế định nuôi con nuôi là sự tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về quan hệ nuôi con nuôi. Đây là các quy phạm pháp luật điều chỉnh về điều kiện, trình tự thủ tục xác lập, thực hiện, chấm dứt việc nuôi con nuôi... Các quy phạm này đƣợc thể hiện trong những hình thức nhất định để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi. - Chế định pháp lý về nuôi con nuôi bị chi phối bởi yếu tố tình cảm, vì thế ít có chế tài kèm theo. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm chung của ngành luật HN&GĐ, các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ trên cơ sở lợi ích chung, xuất phát từ tình cảm. Vì vậy, Nhà nƣớc thƣờng sử dụng các biện pháp giáo dục, khuyến khích, vì thế mà ít có chế tài đƣợc áp dụng trong quan hệ nuôi con nuôi. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan