Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Châu á thái bình dương chuyển hướng phát triển trong tương lai & kiến nghị xây d...

Tài liệu Châu á thái bình dương chuyển hướng phát triển trong tương lai & kiến nghị xây dựng nhằm thực hiện có hiệu quả quan hệ kinh tế vn - apec

.DOCX
76
109
82

Mô tả:

Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] Lời mở đầu Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Ngày nay, sự phát triển của Cách mạng khoa học kỹ thuật, của kỷ nguyên tin học cùng với vai trò ngày càng tăng của các công ty đa quốc gia đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá, hợp tác hoá và phân công lao động quốc tế giữa các quốc gia làm cho sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, nới rộng, tiếp tới dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, đẩy mạnh giao dịch thương mại, luân chuyển các nhân tố của tư liệu sản xuất giữa các quốc gia. Để khỏi bị đặt ra ngoài của dòng thác phát triển, các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào trào lưu chung của thời đại. Tăng cường sức cạnh tranh kinh tế. Tuy nhiên vấn đề hội nhập vào nền kinh tế thế giới cho thấy 2 mặt của vấn đề là: Thuận lợi và thách thức sẽ tới với các quốc gia. Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được khẳng định tại đại hội VI của Đảng. Chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đã đánh dấu bước đầu cho tiến trình hội nhập của Việt Nam. (Đại hội VII). Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Hội nghị TW 4 (1997) nêu dõ nguyên tắc hội nhập của Việt Nam là trên cơ sở phát huy nỗ lực thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút đầu tư quốc tế. Bằng những chủ trương và đường lối đúng đắn chúng ta đã thu được những thành quả quan trọng bước đầu trong quá trình hội nhập. Đó là tạo ra được mối quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như: IMF; WB; ADB... Gia nhập AESAN (1995); đàm phán để gia nhập WTO. Đặc biệt với việc trở thành thành viên của diễn đàn kinh tế, Châu á - Thái Bình Dương (APEC - 11/1998) đã mở ra một thời kỳ mới; một bước tiến mạnh mẽ, tạo thế và lực cho Việt Nam trên thế giới. Góp phần thực hiện xây dựng kinh tế đất nước vững mạnh nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. -1- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] Chương I Quá trình hình thành và phát triển của APEC I-/ Sự ra đời và phát triển của APEC. 1-/ Sự ra đời và phát triển của APEC. Từ năm 1960 đã hình thành những ý tưởng liên kết kinh tế khu vực Thái Bình Dương. ý tưởng này được các học gia người Nhật là KOJIMA và KUJJIOTO đề xuất (1965). ý tưởng này chỉ ra việc thành lập 1 khu vực mậu dịch tự do Thái Bình Dương mà thành viên là 5 nước công nghiệp phát triển và mở cửa cho các thành viên liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực lòng chảo Thái Bình Dương tham gia. Sau đó, tiến sĩ SABURÔ OKITA và tiến sĩ JONH CRAYRD và một số học giả khác đã sớm nhận thức được việc phải xây dựng sự hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC). PECC cùng với ASEAN đóng vai trò quan trọng trong việc hợp tác tư vấn kinh tế trong khu vực và thúc đẩy việc thành lập APEC. Cuối thập kỷ 80, một số quan chức của Nhật Bản, trong đó nổi bật lên vai trò của Hajime Tamura bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Thương Mại Nhật Bản lúc đó đã gợi ý thành lập một diễn đàn hợp tác có tính chất kỹ thuật về các vấn đề kinh tế khu vực. Tuy nhiên, lúc này vòng đàm phán Urugoay trong khuôn khổ GATT đang diễn ra và cuộc vận động để thành lập khu vực mậu dịch Tự do Bắc Mỹ(NAFTA) đang được xúc tiến nên đề nghị về thành lập tổ chức kinh tế khu vực của Nhật ít được quan tâm. Tuy vậy, Chính phủ công đảng của thủ tướng Ôxtralia (Bobhavke) rất nhận thức rõ về tầm quan trọng, cần thiết của mối quan hệ kinh tế giữa Châu á và úc cho nên đã kịp thời nắm bắt và thúc đẩy ý tưởng về 1 diễn đàn hợp tác kinh tế ở khu vực. Tháng 1- 1989 tại Xơ un (Hàn Quốc). Thủ tướng Bobhavke đã nêu ý tưởng về việc thành lập một diễn đàn tư vấn kinh tế cấp bộ trưởng ở Châu á - Thái Bình Dương nhằm mục đích phối hợp hoạt động cảu các chính phủ -2- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở khu vực, thúc đẩy hệ thống thương mại đa phương. Các nước Nhật Bản, Malaixia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philipin, Xingapo, Bruney, Indonexia, Newzelend, Canada và Mỹ đã ủng hộ sáng kiến này. Tháng 11 - 1989 các Bộ trưởng kinh tế, ngoại giao của 12 nước nói trên đã họp tại Cabera (úc) quyết định chính thức thành lập diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (gọi tắt là APEC) với tư cách là 1 diễn đàn xuyên khu vực Thái Bình Dương. Trong đó bao gồm 3 cơ chế quan hệ thương mại khu vực và tiểu khu vực: NAFTA, AFTA và ANZERTA (Hiệp định mậu dịch tự do giữa úc và Niuzilân), APEC cùng với các tổ chức này có chung mục tiêu là tự do hoá buôn bán (tuy thời hạn thực hiện các lĩnh vực và nguyên tắc hoạt động khác nhau). Cơ cấu của APEC rất đa dạng gồm các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Canada, Niudilân, úc, các nền kinh tế công nghiệp mới ở Châu á như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Xingapo, các nước đang phát triển thuộc ASEAN và Trung Quốc. Do trình độ phát triển kinh tế không đồng đều, lợi ích và tiềm lực không giống nhau giữa các thành viên, cho nên cũng như AFTA thời hạn thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư của các nước trong APEC được quy định theo 2 thời hạn 2010 với nền kinh tế phát triển và 2020 với các nền kinh tế đang phát triển. (thời hạn thực hiện AFTA là 2003 - 2006). Tuy vậy, về mặt tổng thể thực lực, APEC là 1 tập hợp kinh tế lớn nhất thế giới với các trung tâm kinh tế khổng lồ là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và các nền kinh tế năng động nhất ở Đông á và Nam á. Từ khi thành lập tới nay APEC đã có những bước phát triển vượt bậc, cả về chất lượng, về cơ cấu tổ chức. Từ năm 1989 tới 1992 đã diễn ra 4 hội nghị cấp bộ trưởng các thành viên APEC. Theo quy chế của APEC, thành viên đăng cai hội nghị hàng năm sẽ làm chủ tịch của APEC. Các hội nghị đó được họp tại Canbera (úc 11/1989); lần thứ 2 tại Xingapo tháng 7 - 1990; lần thứ 3 tại Xơun (hàn quốc 11 - 1991) và lần thứ 4 tại Băng Cốc (Thái Lan 9 -1992). Tháng 11 -3- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] -1993, Mỹ đảm nhận chức chủ tịch APEC và tổng thống Mỹ B.Clinton đề nghị triệu tập hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo cấp cao các nước thành viên APEC tại Seatle (Mỹ) vào ngày 20/11/1993 ngay sau khi kết thúc hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 5 (từ 17 tới 19/11/1993). Thời gian này vòng đàm phán Urugoay của GATT đang gặp khó khăn, các thành viên APEC muốn sử dụng cơ chế tự do hoá thương mại của APEC và NAFTA để thúc đẩy tiến trình đàm phán Urugoay. Hội nghị cấp cao không chính thức đầu tiên được tổ chức tại Mỹ tạo ra sự thay đổi theo hướng tích cực tầm nhìn và hoạt động của APEC. Theo thông lệ đó, từ 1993 trở lại đây, hàng năm APEC đều tổ chức Hội nghị cấp cao không chính thức tiếp theo ngay sau Hội nghị cấp cao Bộ trưởng và các vấn đề quan trọng nhất của APEC được thông qua tại hội nghị các nhà lãnh đạo cấp cao của diễn đàn này. Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 2 họp tháng 11/1994 tại Bogos (Indonexia); Indonexia làm chủ tịch APEC. Hội nghị cấp cao lần thứ 3 họp tháng 11/1995 tại Osaka (Nhật Bản) Nhật Bản làm chủ tịch. Hội nghị cấp cao lần thứ 4 họp tại Subic (Philipin) tháng 11/1996; Philipin làm chủ tịch của APEC. Hội nghị cấp cao lần thứ 5 họp tại Canada 11/1997; Canada làm chủ tịch APEC. Năm 1998 hội nghị cấp cao lần thứ 6 họp tại Malaysia và nước chủ nhà làm chủ tịch của APEC. Nội dung hoạt động của APEC cũng có những bước phát triển bền vững và thiết thực nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của diễn đàn. Ngay tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ nhất ở Canbera 1989 tư tưởng về “chủ nghĩa khu vực mở” đã được ghi nhận trong Tuyên bố chung của Hội nghị. Liên -4- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] tiếp các hội nghị sau đó các thành viên APEC căn cứ vào “chủ nghĩa khu vực mở” để phát triển xây dựng tiến tới một khu vực châu á - Thái Bình Dương tự do thương mại và đầu tư, không phân biệt đối xử trong nội bộ cũng như các nước, nhóm nước ngoài APEC . Tại hội nghị bộ trưởng lần thứ II 7/1990 tại Singapo các thành viên APEC đưa ra 7 lĩnh vực hoạt động: tổng hợp các dữ liệu thương mại vào đầu tư, thúc đẩy thương mại, mở rộng đầu tư và chuyển giao kỹ thuật ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, phát triển nhân lực, hợp tác khu vực trong một số lĩnh vực khác. Hội nghị bộ trưởng APEC lần thứ 3 (11/1991) phát triển các lĩnh vực được xác định tại hội nghị trước và bổ xung hợp tác trong các lĩnh vực hải sản, giao thông du lịch. Tuyên bố Xơrin của hội nghị đã xác định các mục tiêu cụ thể, phạm vi, phương thức hoạt động của APEC. Các hoạt động của APEC dần dần được hướng vào những lĩnh vực và những vấn đề cụ thể. Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 4 xác định triển khai thực hiện những lĩnh vực của hội nghị trước. Hoạt động của APEC đã bước một bước tiến lớn tại hội nghị cấp cao các thành viên APEC tại Seatle (Hội nghị cấp cao1) và phát triển mạnh qua các hội nghị cấp cao sau đó. Tại các hội nghị này, các nước thành viên APEC đã hoạch định 1 chương trình hợp tác kinh tế sâu rộng và xây dựng một viễn cảnh kinh tế khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Các nước thành viên đã đưa ra được tuyên bố chung về khuôn khổ đầu tư và thương mại nhằm tăng cường hoạt động kinh tế, thúc đẩy mua bán ngoại thương, cam kết xây dựng khu vực mậu dịch và đầu tư, mở rộng mậu dịch toàn cầu và tăng cường quan hệ kinh tế chặt chẽ trong APEC. Thông qua các hội nghị cấp cao các nước thành viên còn xây dựng các chương trình kinh tế hoạch định cụ thể để thực hiện các mục tiêu kinh tế lớn đã đặt ra, xác định những bước đi, thời hạn cụ thể để hoàn tất các mục tiêu đó. Đề ra các nguyên tắc làm cơ sở cho việc tiến hành tự do hoá thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế và kỹ thuật. -5- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] * Về cơ cấu tổ chức và thành viên cảu APEC đến nay về cơ bản APEC vẫn được coi là 1 diễn đàn đối thoại về kinh tế và thương mại, chưa phải là 1 tổ chức với ý nghĩa đầy đủ của khái niệm này. APEC chưa có một cơ chế chặt chẽ mang tính ràng buộc cao, chưa có các cơ quan chế tài và giải quyết tranh chấp để đảm bảo các chương trình hợp tác các cam kết được thực hiện nghiêm túc, chủ yếu các thành viên APEC thực hiện các yêu cầu của tổ chức trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình tồn tại, bản thân nội bộ của APEC luôn tồn tại 2 xu hướng đối lập nhau là: - Xu hướng muốn đẩy nhanh quá trình tự do hoá, thương mại đầu tư dịch vụ, thể chế hoá APEC. - Xu hướng từng bước tiến hành tự do hoá thương mại và đầu tư, duy trì APEC như một diễn đàn tư vấn, các quyết định có tính chất không bắt buộc. Sau gần 10 năm tồn tại dần dần cơ cấu tổ chức của APEC đã được củng cố, chặt chẽ hơn, trở thành 1 tổ chức quốc tế liên chính phủ, được thể chế hoá có ý nghĩa chiến lược đối với các nước thành viên. Ban thư ký của APEC lần thứ 4 năm 1992 tại Băng Cốc và có trụ sở ở Xingapo. Các uỷ ban, các nhóm, cộng tác và các nhóm đặc trách đã đi vào triển khai hoạt động. Bên cạnh hội nghị Bộ trưởng từ năm 1993 đã hình thành thêm một cơ chế lãnh đạo mới cao hơn đó là Hội nghị cấp cao không chính thức (AELM) với sự tham gia của người đứng đầu chính phủ, Nhà nước của các quốc gia thành viên APEC. Tại hội nghị cấp cao lần thứ 4 năm 1996 tại SUBIC đã vạch ra kế hoạch thực hiện các mục tiêu cảu APEC. Đề ra tiêu chuẩn kết nạp thành viên mới của tổ chức (Hội nghị cấp cao lần thứ 5 năm 1997). Các thành viên của APEC (Ban đầu gồm 12 nước thành viên sáng lập: úc, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Xingapo, Malaixia, Philipin, Thái Lan, Brunây, Niuzilân, Inđônêxia, và Hàn Quốc. Tới tháng 11/1991, 3 năm sau khi mới thành lập 3 thành viên mới được kết nạp là Trung Quốc, Hồng -6- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] Công, và Đài Loan. Tháng 11/1994 APEC có thêm 3 thành viên mới là Mêhicô, Chi Lê, và Papua Niu ghilê nâng tổng số thành viên lên 18 nước và vùng lãnh thổ. Trong 3 năm từ 11/1994 tới 1997 APEC ngừng kết nạp thành viên mới để chấn chỉnh lại tổ chức và các hoạt động của mình, tháng 11/1998 APEC đã kết nạp Việt Nam, Nga và Peru và có 8 nước đang trong thời gian xin gia nhập APEC là: Mông Cổ, ấn Độ, Pakistan, Srilanka, Macao, Panama, Ecuado và Colombia. Nhìn chung càng ngày APEC càng có sự trưởng thành. Cơ chế tổ chức và nội dung hoạt động của APEC ngày càng được hoàn thiện và nâng cao chặt chẽ hơn theo hướng thể chế hoá như một tổ chức. 2-/ Cơ cấu tổ chức của APEC a-/ Hội nghị cấp cao APEC không chính thức (hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế AELM). Hội nghị này được tổ chức lần đầu tiên tại Scatle Mỹ năm 1993 và trở thành hội nghị thường niên của các nhà lãnh đạo chính phủ và Nhà nước các quốc gia thành viên. Đây là cơ quan quyết định chính sách cao nhất của APEC, nó biến APEC từ một cơ chế thuần tuý tư vấn trở thành một tổ chức quốc tế thực sự. b-/ Hội nghị bộ trưởng APEC - Hội nghị bộ trưởng lần thứ nhất họp tại Canbera 11/1989 với sự tham gia của các bộ trưởng ngoại giao và kinh tế của các nước thành viên, luân phiên các nước thành viên đang cai và thành viên đăng cai là chủ tịch của hội nghị và chủ tịch APEC trong nhiệm kỳ 1 năm. Hội nghị bộ trưởng của APEC quyết định phương hướng hoạt động của APEC và ấn định thời gian thực hiện chương trình hành động cho năm tiếp theo. Các quyết định của hội nghị được thể hiện trong thông cáo chung bao gồm: -7- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] + Các quyết định về vấn đề tổ chức: xác định mục tiêu nguyên tắc hoạt động của APEC, thành lập các uỷ ban, hội đồng ... thành lập quỹ, xác định mức đóng góp của các thành viên, kết nạp thành viên mới. + Quyết định nguyên tắc, mục tiêu và nội dung các chương trình hoạt động,đánh giá tiến trình hợp tác đầu tư của APEC và của các cơ quan trong APEC. + Xem xét đánh giá sáng kiến của hội nghị cấp cao không chính thức. + Thông qua dự thảo các chương trình hành động. Các hội nghị bộ trưởng chuyên ngành sẽ được triệu tập khi cần thiết. c-/ Hội nghị quan chức cao cấp (SOM) Hội nghị này được tổ chức thường kỳ giữa 2 hội nghị Bộ trưởng hàng năm nhằm chuẩn bị và đưa ra các khuyên nghị trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề tổ chức, chương trình hoạt động của APEC trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, các chương trình hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ của tổ chức điều phối ngân sách và chương trình công tác của các bộ phận trong tổ chức của APEC. Trước hội nghị quan chức cao cấp sẽ có cuộc họp cho các vụ trưởng (hoặc phó vụ trưởng) đại diện của thành viên tổ chức hội nghị bộ trưởng chủ trì cuộc họp này. Cuộc họp này là công việc chuẩn bị cho Hội nghị quan chức cao cấp (SOM). Hội nghị quan chức cao cấp có nhiệm vụ thúc đẩy tiến trình APEC phù hợp với quyết định của Hội nghị bộ trưởng và các chương trình hành động của Hội nghị này. d-/ Ban thư ký APEC. - Có 1 giám đốc điều hành do nước giữ ghế chủ tịch APEC cử với thời hạn 1 năm, 1 phó giám đốc điều hành sẽ do nước chủ tịch APEC vào năm tiếp theo cử. Ngoài ra ban thư ký còn có các nhân viên chuyên nghiệp từ các nước thành viên và các nhân viên phục vụ. -8- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] Ban thư ký có chức năng hỗ trợ và phối hợp các hoạt động của APEC, cung cấp hậu cần, kỹ thuật và điều hành các vấn đề tài chính. (Từ năm 1993 vấn đề tài chính và ngân sách của APEC được chuyển cho uỷ ban ngân sách và quản trị xử lý). Ban thư ký được chỉ đạo bởi hội nghị quan chức cao cấp và quan hệ chặt chẽ với các cơ quan khác của APEC. e-/ Uỷ ban ngân sách và quản trị (AC) Uỷ ban này có chức năng tư vấn cho các quan chức cao cấp về vấn đề ngân quỹ, quản lý và điều hành. uỷ ban này có quyền xem xét cơ cấu của sách hàng năm, xem xét đánh giá ngân sách hoạt động của các cơ quan trong APEC và ngân sách hành chính do ban thư ký đưa ra. Uỷ ban có quyền đánh giá hoạt động của các nhóm công tác và khuyến nghị với các quan chức cao cấp của APEC nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, xem xét chỉ tiêu của nhóm công tác và các dự án của nhóm đặc trách. g-/ Uỷ ban thương mại và đầu tư (CTI) Uỷ ban này có trách nhiệm thúc đẩy hợp tác, tự do hoá thương mại và đầu tư. Soạn thảo báo cáo hàng năm trình hội nghị bộ trưởng về các vấn đề có liên quan tới chức năng của uỷ ban. h-/ Uỷ ban kinh tế (EC) Uỷ ban kinh tế được thành lập năm 1994 để thực hiện hoạt động nghiên cứu các xu hướng và các vấn đề kinh tế thông qua các chỉ số kinh tế cơ bản. Uỷ ban là diễn đàn thúc đẩy đối thoại giữa các nước thành viên trong nghiên cứu và dự báo kinh tế nhằm thúc đẩy mở rộng hợp tác kinh tế trong APEC, góp phần xây dựng chính sách trong các diễn đàn khác của APEC. i-/ Nhóm danh nhân (nhóm các nhân vật lỗi lạc) 1992 các bộ trưởng APEC nhất trí thành lập nhóm danh nhân với tư cách là nhóm tư vấn phi chính phủ và độc lập để vạch ra tương lai, phương hướng trao đổi thương mại ở khu vực cho tới năm 2000. -9- Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] k-/ Hội đồng tư vấn doanh nghiệp Nhằm thực hiện mục tiêu chính của APEC là thu hút và tăng cường sự tham gia của giới doanh nghiệp trong các hoạt động của APEC phù hợp với thực tiễn và đem lại hiệu quả, hội nghị cấp cao không chính thức lần thứ I đã thành lập diễn đàn kinh doanh thái bình dương (PBF), nhằm xác định các vấn đề APEC cần tập trung sử lý tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư. Tại hội nghị bộ trưởng lần VII trên cơ sở tầm quan trọng của giới doanh nghiệp và tư nhân trong hoạt động hợp tác kinh tế APEC đã thành lập hội tư vấn doanh nghiệp (Hội đồng này thay cho diễn đàn kinh doanh thái bình dương PBF và tập trung vào các lĩnh vực như: cơ sở hạ tầng, tài chính và đầu tư, các xí nghiệp vừa và nhỏ, phát triển nguồn nhân lực vv... l-/ Các nhóm công tác và nhóm đặc trách Hiện nay APEC có 10 nhóm công tác phụ trách các lĩnh vực hoạt động cụ thể của tổ chức. Nhóm công tác chuyên thực hiện hoạt động khảo sát tiềm năng phát triển và thúc đẩy sự tăng trưởng trong các lĩnh vực mà nhóm phụ trách. Ngoài ra APEC còn có 3 nhóm đặc trách về các vấn đề: chính sách với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hạ tầng cơ sở và hợp tác kỹ thuật công nghiệp. Thông qua mô hình tổ chức của APEC cho thấy đây là diễn đàn bao gồm nhiều diễn đàn nhỏ để các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. 3-/ Quy chế thành viên và quan sát viên Tháng 11/1998 sau khi ba nước Việt Nam, Nga và Peru được kết nạp vào APEC, tổ chức này đã quyết định ngừng kết nạp thêm trong 10 năm tiếp theo (APEC hiện tại có 21 thành viên ). Để có thể trở thành thành viên của APEC các quốc gia và vùng lãnh thổ cần đáp ứng các điều kiện trong quy chế thành viên của tổ chức (thông qua tại hội nghị các nhà lãnh đạo - 10 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] cấp cao APEC 11/1997). Theo đó muốn trở thành thành viên APEC cần có các chỉ tiêu sau: - Vị trí địa lý: nằm ở khu vực châu á - Thái Bình Dương; tiếp giáp với bờ biển Thái Bình Dương. - Quan hệ kinh tế: phải có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các thành viên APEC về thương mại hàng hoá và dịch vụ; đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự tự do đi lại của các quan chức. - Tương đồng về kinh tế: Phải chấp nhận chính sách kinh tế mở cửa theo hướng thị trường. - Quan tâm và chấp nhận các mục tiêu của APEC. Phải tỏ rõ sự quan tâm mạnh mẽ tới các lĩnh vực hoạt động của APEC, bằng hành động tham gia vào các nhóm công tác hoặc nghiên cứu độc lập, cũng như các hoạt động khác của APEC. Tuy vậy, việc trở thành thành viên APEC không bị tri phối bắt buộc bởi các hoạt động trong các nhóm công tác của các nước có mong muốn. Nước muốn trở thành thành viên APEC phải chấp nhận tất cả các mục tiêu và nguyên tắc của APEC được đề ra trong các tuyên bố, và quyết định của tổ chức này là phải cam kết thực hiện các quyết định chủ trương đã được các thành viên chính thức, APEC còn có quy chế quan sát viên cho 3 tổ chức khu vực là ASEAN, PECC, diễn đàn Nam Thái Bình Dương (SPF) (không có quy chế quan sát viên cho các nước và vùng lãnh thổ riêng biệt). Các nước không phải thành viên APEC có thế được tham gia các hoạt động của tổ chức với tư cách là khách mời tại các nhóm công tác. 4-/ Các đòi hỏi thực tiễn làm xuất hiện APEC: Cuối những năm 1970 và trong thập kỷ 80 Châu á đạt được sự tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, (chủ yếu là kinh tế Đông á) với sự xuất hiện của các trung tâm kinh tế năng động như nhóm nước NIC, ASEAN và sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc đã biến châu á thành khu vực phát triển - 11 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] kinh tế bậc nhất trên thế giới. Luôn luôn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng, xuất khẩu của châu á là động lực kinh tế rất mạnh của châu lục, vượt xa các khu vực khác của thế giới (tăng 10% hàng năm so với 4% của châu Âu và Mỹ la tinh; 6% của các nước công nghiệp phát triển). Châu á trở thành một thị trường rộng mở, linh hoạt và ổn định; có múc đầu tư FDI rất cao. Điều đó đòi hỏi có sự hợp tác và liên kết kinh tế trong khu vực, nhu cầu này trở nên vô cùng cấp thiết để đảm bảo tính ưu việt, sự tăng trưởng kinh tế và ổn định của nền kinh tế châu á. Cùng với tiền đề đó, xu thế quốc tế hoá nền kinh tế các quốc gia, sự phân công lao động quốc tế và cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật với công nghệ tiên tiến: Đặc biệt là thị trường 1 tỷ người của Trung Quốc được mở ra càng làm tăng xu thế của châu á - Thái Bình Dương. Trên cơ sở xu thế liên kết hợp tác kinh tế quốc tế trên thế giới trong những năm gần đây (từ cuối thập kỷ 80 tới nay) xuất hiện nhiều hoạt động xúc tiến thành lập các liên minh kinh tế (VD: thị trường chung do các nước liên minh châu Âu thành lập - 1992; khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ vv...) Trong khi đó chính trong bản thân của khu vực châu á - Thái Bình Dương một khu vực rất cần có1 hình thức liên kết có tính chất chính thức, liên chính phủ toàn khu vực để tao cán cân thăng bằng trước sức ép của chủ nghĩa bảo hộ khu vực ở châu Âu và Bắc Mỹ, thì lại chưa có 1 tổ chức như vậy để bảo vệ quyền lợi của các nước trong khu vực. Mặt khác trong nền kinh tế hiện đại sự phụ thuộc lẫn nhaucuar các thị trường đang trở thành một tất yếu cho sự phát triển kinh tế. Từ 1970 tới cuối 1980 trong khu vực châu á - Thái Bình Dương đã thấy rõ xu thế này (VD: về thương mại năm 1989 xuất khẩu của khu vực này sang Mỹ chiếm 25,8% tổng gí trị hàng xuất khẩu của họ, xuất khẩu từ Mỹ sang khu vực Châu á Thái Bình Dương chiếm 30,5 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ...) sự tuỳ thuộc lẫn nhau này đã tạo ra một lực gắn kết kích thích một nhu cầu phối hợp giữa các nền kinh tế trong khu vực với nhau. Như vậy, sự - 12 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và liên tục của các nền kinh tế trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương cùng với xu thế hợp tác kinh tế quốc tế, sự liên kết kinh tế liên châu lục đã tạo ra tiền đề do sự tác động mạnh mẽ và ý tưởng tiến bộ của các nhân sĩ trong khu vực đã tạo ra tiền đề cho việc hình thành tổ chức diễn đàn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APE) (Trên thực tế còn có quan điểm cho rằng nguyên nhân sâu sa của sự ra đời APEC vào năm 1989 là do : vòng đàm phán Urugoay trong khuôn khổ thuộc ATT có nguy cơ sụp đổ, chiến tranh lạnh đã chấm dứt, và xuất hiện các yếu tố kinh tế như đã trình bày ở trên). II-/ Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của APEC. 1-/ Mục tiêu hành động của APEC Với tư cách là 1 tổ chức ra đời và tồn tại nhằm đáp ứng nhu cầu của tình hình mới, bảo vệ lợi ích của các quốc gia thành viên thúc đẩy phát triển và hợp tác kinh tế. Ban đầu APEC chỉ ra 1 nhóm đối thoại có quy chế chưa chặt chẽ thì nay nó đã được củng cố theo lương thể chế hóa. Mặc dù là 1 tổ chức với các thành viên có tiềm lực kinh tế trình độ và phương thức phát triển không giống nhau, nhưng tất cả đã tập hợp cùng nhau trong 1 diễn đàn với mục đích và quyết tâm chính trị chung là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững trong khu vực và trên thế giới. Từ hội nghị Bộ trưởng lần thứ nhất tại Canbera 1989. Các nước trong tổ chức đã xác định được mục tiêu hành động của tổ chức vì sợ hợp tác và trao đổi, thúc đẩy giao lưu thương mại và chuyển giao công nghệ. Những mong muốn và quyết tâm đó được đúc kết thành các mục tiêu cơ bản, được thể chế hoá tại hội nghị Bộ trưởng lần thứ 3 ở Xơun, thông qua tuyên bố Xơun. C ác mục tiêu được thể chế hoá, đặt nền móng cho sự phát triển của APEC như một khuôn khổ hợp tác khu vực với các mục tiêu: - 13 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] - Duy trì sự tăng trưởng và phát triển vì lợi ích chung của nhân dân các nước trong khu vực góp phần vào tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế thế giới. - Phát huy những tác động tích cực của sự phụ thuộc kinh tế ngày càng tăng đối vớ kinh tế khu vực và thế giới, bằng cách đẩy mạnh giao lưu hàng hoá, vốn dịch vụ và công nghệ. - Xây dựng và tăng cường hệ thống thương mại đa dạng vì lợi ích của Châu á - Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác. - Giảm dần những rào cản đối với thương mại hàng hoá và dịch vụ giữa các nền kinh tế thành viên phù hợp với các nguyên tắc của WTO và không làm hại đối với các nền kinh tế khác. - Cải thiện môi trường Châu á - Thái Bình Dương nhằm đạt được sự phát triển bền vững vì 1 tương lai vững chắc hơn. Thông qua các mục tiêu hành động của APEC cho thấy rằng, APEC không nhấn mạnh đến việc tạo lập một hệ thống ưu đãi thuế quan, liên minh thuế quan hay thị trường chung mà nhấn mạnh đến việc tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở. Điều này bắt nguồn từ các điểm khác biệt về kinh tế, chính trị, văn hoá giữa các quốc gia thành viên và các nước đang phát triển không muốn bị lệ thuộc vào các nước có nền kinh tế lớn hơn như: Mỹ, Nhật, úc, Canada. Các nước đang phát triển Nics và ASEAN. Một lý do nữa là các thành viên APEC, nhất là các nước thuộc khu vực Đông Nam á phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh tế thế giới. Sự tăng trưởng của Nhật, NICS, và ASEAN trong thập kỷ 70, 80 phụ thuộc nhiều vào sự thành công của chiến lược và xuất khẩu, do vậy họ muốn duy trì một hệ thống thương mại toàn cầu mở và ổn định. Việc chia cắt kinh tế thế giới thành các khu vực cát cớ sẽ không có lợi đối với các thành viên APEC có nền kinh tế phát triển cao vì vậy, mục tiêu thiết lập một hệ thống thương - 14 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] mại đa phương mở trở thành mục tiêu xuyên suốt, chi phối hành động của APEC. 2-/ Nguyên tắc hoạt động của APEC : a-/ Nguyên tắc chung: * Nguyên tắc cùng có lợi Trong tuyên bố Xơ Un của hội nghị Bộ trưởng lần thứ 3 năm 1991 nêu rõ: Việc hợp tác trong APEC dựa trên nguyên tắc cùng có lợi có tính đến sự khác biệt trong các giai đoạn phát triển kinh tế trong các hệ thống chính trị, xã hội và tính đủ đến các nhu cầu của những nền kinh tế đang phát triển. Việc quy định nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa các quốc gia trong APEC. Nó đảm bảo cho sự phát triển của diễn đàn này. APEC nhấn mạnh tới các mối quan tâm chung, các lợi ích chung của các thành viên, đảm bảo quyền lợi của các nước thành viên dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều được quan tâm thích đáng, Nguyên tắc này giải toả sự lo ngại của các nước lớn, giữa các nước đang phát triển với các quốc gia phát triển. * Nguyên tắc nhất trí Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của APEC. Trong tuyên bố Xơun đã khẳng định, là dựa trên cam kết về sự đối thoại cởi mở và xây dựng sự nhất trí, bình đẳng, tôn trọng quan điểm của tất cả các thành viên tham gia. Khác với GATT / WTO là các thành viên của tổ chức APEC đạt được quyết định thông qua một quá trình xây dựng nhất trí (không thương thuyết, đàm phán lâu dài và gay gắt để đạt được các thoả thuận và hiệp định) các cuộc họp hội nghị từ hội nghị cấp cao cho tới cấp chuyên viên đều mang tính chất tư vấn. Các thành viên không tham gia vào những cuộc - 15 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] thương lượng mặc cả thực sự để đạt được kết quả. Toàn bộ quyết định của các cấp được đưa vào tuyên bố chung phản ánh ý chí của các thành viên. Tuy duy trì nguyên tắc nhất trí trong 1 tổ chức đa dạng như APEC rất khó khăn, nhất là khi APEC đi vào những vấn đề hành động cụ thể. Nhưng các thành viên APEC quyết tâm thực hiện và coi đây là 1 trong những nguyên tắc cơ bản của quá trình hoạt động và ra quyết định của APEC, đảm bảo cho sự bình đẳng giữa các thành viên trong tổ chức * Nguyên tắc tự nguyện Cùng xuất phát từ sự khác biệt giữa các quốc gia thành viên APEC và các mối quan hệ kinh tế quốc tế của khu vực. Cho nên, sự hợp tác giữa các thành viên APEC mang tính chất tự nguyện. Nguyên tắc này phù hợp với tính chất là 1 diễn đàn mang tính tư vấn kinh tế, một cơ chế liên chính phủ nhằm đẩy mạnh , kích thích sự hợp tác, tăng trưởng, phát triển của khu vực. Diễn đàn này được coi như để tham khảo ý kiến về các vấn đề kinh tế phục vụ cho hoạt động trao đổi quan điểm kinh tế giữa các nước trong khu vực. APEC không nhất thiết phải đưa ra các ý kiến tư vấn của mình tới chỗ trở thành các quyết định được thông qua có tính bắt buộc các thành viên khác phải chấp thuận hay thực hiện.(Thể hiện trong nguyên tắc kuching) và tính từ 1991: APEC sẽ hoạt động thông qua quá trình tư vấn và trao đổi quan điểm giữa các đại diện cao cấp của các nền kinh tế APEC dựa trên các nghiên cứu, phân tích và các ý tưởng về chính sách do các nền kinh tế tham gia và các tổ chức hữu quan như ban thư ký ASEAN, diễn đàn Nam Thái Bình Dương (SPF) và PECC đóng góp. Thêm nữa do APEC là 1 diễn đàn tư vấn nên nó không đưa ra những chỉ thị, nguyên tắc có tính bắt buộc đối với các thành viên. Mọi hoạt động hợp tác đều dựa trên sự tự nguyện phù hợp với lợi ích các bên, điều này cùng xuất phát từ tính đặc thù của quá trình hội nhập kinh tế trong khu vực. - 16 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] * Các nguyên tắc của APEC phù hợp với các nguyên tắc của GATT và WTO Hoạt động của APEC với tư cách là s1 diễn đàn mở phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO. APEC ủng hộ chế độ thương mại đa phương giưa APEC và các nước khác trên thế giới, mở đường cho các nền kinh tế không phải là thành viên của diễn đàn này. Nguyên tắc này được ghi nhận trong tuyên bố Xowun 1991, tuyên bố khẳng định việc theo đuổi chương trình kinh tế và tạo ảnh hưởng kích thích phát triển thương mại tự do trong APEC phù hợp với những cơ sở của GATT/WTO và không làm phương hại tới các nước khác. b-/ Nguyên tắc hoạt động trong lĩnh vực kinh tế : APEC thông qua hệ thống các mục tiêu của mình, xác định việc không nhằm lập ra 1 khối thương mại 1 liên minh thuế quan, một khu vực mậu dịch tự do hay bất ký 1 liên minh kinh tế nào mà là 1 diễn đàn kinh tế mở nhằm xúc tiến thực hiện các biện pháp để thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các thành viên trên cơ sở tự nguyện và mở cửa thực sự đối với tất cả các nước khác. Xuất phát từ mục tiêu đó, dần dần nội dung hành động của APEC được hình thành qua các thành viên APEC đã xây dựng được phương hướng và kế hoạch hoạt động trong khu vực thương mại, đầu tư và đã bước đâu thực hiện triển khai các sáng kiến kinh tế đó từ 1- 1- 1997. Các nguyên tắc về tự do hoá, thuận lợi hoá và không ràng buộc đầu tư đã được thông qua tại hội nghị cấp cao APEC lần thứ 3 và tại hội nghị Bogor bao gồm các nguyên tắc + Nguyên tắc toàn diện: Theo đó tiến trình tự do hoá và thuận lợi hoá toàn diện ở các lĩnh vực nhằm giải quyết tất cả các hình thức cản trở mục tiêu lâu dài của thương mại và đầu tư tự do.(rộng hơn nội dung hoạt động của NAFTA và AFTA) - 17 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] + Nguyên tắc phù hợp với GATT/WTO: Trong quá trình thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư trong APEC phải phù hợp với các luật lệ của GATT/WTO. APEC chỉ là một diễn đàn kinh tế mở chứ không phải là 1 tổ chức thương mại mới thay thế GATT/WTO + Nguyên tắc đồng đều: Các thành viên APEC tuy có sự khác biết về trình độ phát triển kinh tế đều phải cùng cải cách và thực hiện các biện pháp để tự do hoá thương mại và đầu tư. + Nguyên tắc cùng bắt đầu, quá trình liên tục và thời gian biểu khác nhau: Tất cả các thành viên APEC phải cùng triển khai các biện pháp để đạt mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư vào năm 2020 với những nền kinh tế đang phát triển. + Nguyên tắc giữ nguyên trạng: Các thành viên APEC lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc, chỉ có giảm đi mà không tăng thêm các biện pháp bảo hộ nhằm giúp tạo cơ sở dự báo cho việc thực hiện tự do hoá thương mại. + Nguyên tắc linh hoạt: Theo đó có sự linh hoạt trong thực hiện các hoạt động thực hiện về tự do hoá thương mại và đầu tư vì trình độ phát triển kinh tế của các thành viên APEC là khác nhau. Theo nội dung này các thành viên APEC phải linh hoạt trong quá trình thực hiện thời biểu và mục tiêu đề ra tại hội nghị Bogor (cho phép các thành viên tuỳ theo trình độ và ưu tiên phát triển kinh tế và biện pháp thực hiện riêng. + Nguyên tắc không phân biệt đối xử giữ các thành viên. Việc tự do hoá mậu dịch và đầu tư không chỉ trong nội bộ giữa các thành viên mà cỏ với nước và khu vực không phải là thành viên APEC. + Nguyên tắc công khai: Đảm bảo sự công khai, rõ ràng trong mùa luật lệ, chính sách cũng như các hoạt động của từng thành viên nhằm giúp các thành viên có thể hiểu được thành viên khác đang làm gì. - 18 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] +Nguyên tắc hợp tác kỹ thuật: Do đặc thù của APEC và các thành viên của nó, có trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế không giống nhau nên nguyên tắc này được nêu ra để hỗ trợ đẩy mạnh quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư, tạo điều kiện để các thành viên hợp tác phát triển khoa hóc và công nghệ. Song song với các nguyên tắc về tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại. Tại hội nghị Bogor 1994 còn thông qua các nguyên tắc đầu tư không ràng buộc, ngoài 2 nguyên tắc: công khai và không phân biệt đối xử như các nguyên tắc cùng tên trong tự do hoá và thuận lợi hoá thì còn lại 9 nguyên tắc đầu tư ràng buộc + Đãi ngộ quốc gia: Trừ những ngoại lệ được quy định các thành viên đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài với chế độ ưu đãi không kém các nhà đầu tư trong nước có cùng hoàn cảnh trong việc hình thành, mở rộng, thực hiện các khoản bảo hộ đầu tư. + Khuyến khích đầu tư: Các thành viên không nới bỏ các quy định xã hội như: sức khoẻ, môi trường...vv để khuyến khích đầu tư nước ngoài. + Yêu cầu về hoạt động: Các thành viên giảm thiểu việc hạn chế, cản trở cho việc mở rộng thương mại và đầu tư. + Trưng thu và bồi thường: Không thực thi trái pháp luật hành động này và bồi thường đầy đủ và hiệu quả + Chuyển tiền về nước và chuyển đổi ngoại tệ: Các khoản tiền thu được hợp pháp và có nguồn gốc hợp pháp (tiền liên quan tới đầu tư nước ngoài) được chuyển đổi, chuyển về nước tự do. + Giải quyết tranh chấp: Những tranh chấp liên quan đến đầu tư nước ngoài được giải quyết kịp thời thông qua tư vấn và đàm phán giữa các bên và sẽ được giải quyết bằng con đường trọng tài phù hợp với cam kết quốc - 19 - Website: http://tailieunhanh.com Email: [email protected] tế hoặc theo lựa chọn được các bên chấp thuận (chỉ đưa ra giải quyết bằng trọng tài khi không giải quyết được) + Nhập cảnh và lưu trú tạm thời của các doanh nhân: Các nhân viên và quản lý chủ chốt nước ngoài được các thành viên cho phép lưu trú để thực hiện hoạt động liên quan tới đầu tư theo quy định của pháp luật + Tránh đánh thuế 2 lần: áp dụng với các khoản đầu tư nước ngoài. + Thái độ của các nhà đầu tư : các nhà đầu tư cần tuân thủ pháp luật chính sách của nước tiếp nhận đầu tư như các nhà đầu tư trong nước. + Loại bỏ trở ngại đối với xuất khẩu tư bản : Các thành viên đồng ý giảm thiểu các hàng rào hành chính, luật pháp đối với luồng vốn đầu tư chuyển ra bên ngoài. + Ngoài các hệ thống nguyên tắc trên trong quá trình hoạt động kinh tế APEC còn có nhiều nguyên tắc mới phù hợp với tình hình cụ thể như : Hợp tác xây dựng và trân thật, tăng cường đầu tư cho con người phát triển và tăng cường tính năng động của các xí nghiệp vừa và nhỏ...vv. III-/ Vị trí và vai trò của APEC trên trường quốc tế 1-/ Trong lĩnh vực chính trị Là diễn đàn của 21 nước thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương. APEC đóng vai trò quan trọng đối với sự ổn định tồn tại và tiến bộ của khu vực và thế giới với định hướng phát triển kinh tế và sự phồn vinh và thịnh vượng, APEC tạo lập mối đoàn kết và hợp tác cùng có lợi giữa các thành viên, tăng cường hợp tác với các tổ chức kinh tế khác của thế giới. Với tư cách là 1 diễn đàn tập hợp các thành viên với những hình thái kinh tế xã hội, thể chế chính trị khác nhau, APEC đã giúp duy trì và củng cố nền an ninh chính trị của khu vực và thế giới điều hoà và bảo vệ lợi ích của các - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng