1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu đ
tác giả. Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận án là trung
gốc, xuất xứ rõ ràng, không trùng lặp với các công trình kh
bố.
Hà Nội, ngày
tháng 7 năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Hữu Vĩnh
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1
5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
10
1.1.
Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
10
1.2.
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài đã được công bố và những vấn đề
đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu giải quyết
28
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Ở CÁC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI
32
2.1.
Tổ chức cơ sở đảng và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ của tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ học viện, trường
sĩ quan quân đội
32
2.2.
Những vấn đề cơ bản về chất lượng thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ của tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ học
viện, trường sĩ quan quân đội
64
Chương 3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ MỘT SỐ KINH
NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở CÁC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
77
3.1.
Thực trạng chất lượng thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ của tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ học viện, trường
sĩ quan quân đội
77
3.2.
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của tổ chức cơ sở
đảng ở các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội
99
Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP
TRUNG DÂN CHỦ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở
CÁC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
114
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của tổ chức cơ sở đảng ở
các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
114
4.2.
Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ của tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ học
viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
126
KẾT LUẬN
173
3
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CHỮ VIẾT TẮT
01
Ban Chấp hành Trung ương
BCHTW
02
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
03
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNH, HĐH
04
Công tác đảng, công tác chính trị
CTĐ, CTCT
05
Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐCSVN
06
Học viện, trường sĩ quan
HV, TSQ
07
Quân đội nhân dân Việt Nam
QĐNDVN
08
Quân ủy Trung ương
QUTƯ
9
Tập trung dân chủ
TTDC
10
Tổ chức cơ sở đảng
TCCSĐ
11
Trong sạch vững mạnh
TSVM
12
Tư bản chủ nghĩa
TBCN
13
Tự phê bình và phê bình
TPB và PB
14
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
175
176
188
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức
và hoạt động của Đảng Cộng sản, được C.Mác và Ph.Ăngghen khởi thảo, được
V.I Lênin khái quát và khẳng định là nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn khẳng định TTDC là nguyên tắc tổ chức, nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ
đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt, mọi hoạt động và phong cách làm việc của
Đảng; là tiêu chí để phân biệt Đảng Cộng sản với các đảng phái khác; thực hiện
nguyên tắc TTDC là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng, có ý nghĩa quyết định
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa,
khắc phục những căn bệnh nguy hiểm hay mắc phải của một đảng cầm quyền
như: độc đoán, chuyên quyền, quan liêu xa rời quần chúng, vi phạm dân chủ, dân
chủ hình thức; đồng thời là cơ sở tạo khả năng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng
cường xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức;
phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất. Kể từ khi ra đời cho đến
nay, nhờ được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc TTDC mà Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn là một khối thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh
vô địch lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành thắng lợi.
Tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ HV, TSQ quân đội là hạt nhân chính
trị, lãnh đạo các mặt công tác và mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị thuộc nhà
trường; lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học
của nhà trường đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp dạy - học, nghiên cứu khoa học và xây dựng tiềm lực vật
chất, khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm hoàn thành mục tiêu, yêu cầu đào
tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
chiến đấu của quân đội và phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; lãnh đạo
xây dựng học viện, nhà trường chính quy, tiên tiến mẫu mực.
5
Những năm qua, theo thống kê từ báo cáo chính trị của các đảng bộ
HV, TSQ quân đội nhiệm kỳ 2015 - 2020, hầu hết các nhà trường đều hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Có được kết quả đó, là do các TCCSĐ đã coi trọng nâng cao
chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC, thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xây dựng tổ chức TSVM. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được, chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC
của TCCSĐ ở các đảng bộ HV, TSQ quân đội cũng còn không ít những hạn
chế, bất cập, biểu hiện ở tư duy, nhận thức và nội dung, biện pháp thực hiện.
Chất lượng thực hiện dân chủ trong sinh hoạt đảng, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, tự phê bình và phê bình chưa cao, một số TCCSĐ vẫn còn biểu
hiện vi phạm nguyên tắc, dẫn tới tình trạng độc đoán, chuyên quyền, dân chủ
hình thức, hoặc dựa dẫm, ỉ lại vào tập thể, thành công thì thành tích thuộc về
cá nhân, có khuyết điểm thì đổ lỗi cho tập thể, không phân định rõ trách
nhiệm của cá nhân và tập thể cấp ủy. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào
tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng
đầu có nhiệt tình tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc
tắc trách, trì trệ, lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá
nhân, biểu hiện dân chủ hình thức diễn ra còn nhiều và phức tạp, chưa có
những giải pháp khắc phục có hiệu quả….; đúng như đánh giá của Nghị quyết
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI): “Nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình
thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá
nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm”. Thực tiễn cho thấy,
chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các đảng bộ HV, TSQ
đang đặt ra không ít vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Trong tình hình mới, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học
của các HV, TSQ quân đội có bước phát triển mới cả chiều rộng, chiều sâu;
đặc biệt là sau khi có Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI của Đảng về đổi mới
6
căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo và Chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo
trong quân đội giai đoạn 2011 - 2020 của Quân ủy Trung ương; vấn đề đặt ra đối
với các nhà trường phải chủ động, tích cực tìm kiếm các giải pháp và tổ chức
thực hiện quyết liệt các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật
trong Quân đội nhân dân Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối
trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, với Tổ quốc, với nhân dân. Để đạt
được điều đó, vấn đề quan trọng, cấp thiết đặt ra cho các TCCSĐ phải nâng
cao chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC, nâng cao hơn nữa năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu, xây dựng các TCCSĐ thực sự trong sạch vững mạnh, lãnh
đạo đơn vị hoàn thành tốt các nhiệm vụ.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Chất lượng thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ của tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ học viện,
trường sĩ quan quân đội hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ khoa học chính
trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về chất lượng và đề xuất những
giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các
đảng bộ HV, TSQ quân đội hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Luận giải làm rõ chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở
các đảng bộ HV, TSQ quân đội.
Đánh giá đúng thực trạng chất lượng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra kinh
nghiệm nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các đảng
bộ HV, TSQ quân đội.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng thực
hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các đảng bộ HV, TSQ quân đội hiện nay.
7
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các đảng bộ HV,
TSQ quân đội là đối tượng nghiên cứu của luận án.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC và giải
pháp nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các
đảng bộ HV, TSQ Quân đội nhân dân Việt Nam. Phạm vi điều tra, khảo sát
tập trung vào các TCCSĐ ở cơ quan, khoa giáo viên và đơn vị quản lý học
viên thuộc các HV, TSQ trực thuộc Bộ Quốc phòng. Các tư liệu, số liệu khảo
sát thực tế được giới hạn chủ yếu từ năm 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của ĐCSVN về TCCSĐ, về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, về nguyên tắc TTDC và thực hiện nguyên tắc TTDC.
* Cơ sở thực tiễn:
Là toàn bộ hiện thực công tác xây dựng Đảng, thực hiện nguyên tắc
TTDC của TCCSĐ ở các đảng bộ HV, TSQ quân đội; các báo cáo tổng kết công
tác xây dựng Đảng, CTĐ, CTCT; kết quả điều tra khảo sát thực tế của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học chuyên ngành, liên
ngành, chú trọng các phương pháp: lôgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, tổng kết thực tiễn, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học và
phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận giải làm sáng tỏ thêm một số vấn đề về chất lượng thực hiện
nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các đảng bộ HV, TSQ quân đội.
8
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, rút ra một số kinh nghiệm nâng cao
chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các đảng bộ HV,
TSQ quân đội.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi trong nâng cao
chất lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các đảng bộ HV,
TSQ quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về nguyên tắc TTDC và chất
lượng thực hiện nguyên tắc TTDC của TCCSĐ ở các đảng bộ HV, TSQ quân đội.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm luận cứ khoa
học để cấp uỷ, TCCSĐ ở các đảng bộ HV, TSQ quân đội nghiên cứu, vận
dụng, lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng thực hiện nguyên TTDC trong tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy,
học tập môn Công tác đảng, công tác chính trị trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (8 tiết); kết luận; danh mục các công
trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan liên quan đến đề tài luận
án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên
quan đến đề tài
* Nhóm công trình nghiên cứu về dân chủ trong Đảng Cộng sản
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện Thông tin khoa học xã
hội, (2013), Niên giám thông tin khoa học xã hội nước ngoài, (số 5), “Dân
chủ và tiến bộ kinh tế - xã hội” của tác giả O.T. BOGOMOLOV (Viện sĩ
Viện Hàn lâm Khoa học Nga) [124, tr. 571-590]. Tác giả khẳng định những
nguyên tắc nền tảng của dân chủ, đó là: quyền tự do của con người (quyền
thể hiện các quan điểm của cá nhân, quyền phê bình các nhà cầm quyền,
quyền tự do thể hiện ý nguyện của bản thân, quyền kiểm soát đối với hoạt
động của các cơ quan quyền lực đã được bầu ra); tính công khai của nhà
nước (tính thông tin về tình trạng xã hội và kinh tế, tính minh bạch trong
hoạt động của các cơ quan quyền lực và các nhà lãnh đạo cấp cao đã được
bầu ra); tính bảo đảm công bằng, hài hòa sự phân chia các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp; sự độc lập của tòa án; sự hiện hữu của các phương tiện
thông tin đại chúng; sự hoạt động tích cực của các tổ chức chính trị xã hội;
các điều kiện đặc thù của đất nước, truyền thống lịch sử, trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa của nhân dân.
Mã Linh Hỷ, “Con đường hữu hiệu để phát triển dân chủ trong Đảng”
[81]. Tác giả nêu quan điểm Đảng Cộng sản Trung Quốc muốn phát triển dân
chủ, đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện “ba chế độ”: chế độ báo cáo, chế độ
phản ánh tình hình và chế độ trưng cầu ý kiến về các quyết sách trọng đại trong
Đảng. Ba chế độ này là con đường hiệu quả phát triển dân chủ trong Đảng. Nội
dung chế độ báo cáo gồm: những vấn đề trọng đại, bình xét điển hình tiên tiến,
10
việc cảnh giác - phòng gian, công tác hàng quý, công tác xã hội…; nội dung chế
độ phản ánh tình hình là cá nhân đảng viên báo cáo tư tưởng và tình hình với tổ
chức: tình hình thực hiện các mặt công tác, khuynh hướng tư tưởng, tác phong
trong Đảng, những kiến nghị của nhân sĩ và quần chúng ngoài đảng đối với đảng
viên và tổ chức đảng; nội dung chế độ trưng cầu ý kiến về những quyết sách trọng
đại, bao gồm: quán triệt thực hiện đường lối, phương châm chính sách của Đảng;
những việc cấp trên quyết định; những vấn đề chính sách liên quan đến khu vực
và toàn cục đơn vị; những vấn đề miễn nhiệm, điều động, xử lý cán bộ…..
Lý Thiết Ánh, “Chế độ giám sát dân chủ trong Đảng” [64]. Tác giả
khẳng định, giám sát dân chủ trong Đảng là một loại cơ chế ràng buộc và tự hoàn
thiện mình, xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Nội dung giám sát chủ yếu xem tổ
chức đảng và đảng viên có quán triệt chấp hành đúng đắn đường lối quyền lực nhân
dân giao hay không, có tuân thủ nghiêm các quy định của chế độ TTDC hay không,
có thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của đảng viên và chức năng của tổ chức đảng hay
không. Nhiệm vụ cơ bản của giám sát dân chủ trong Đảng, phải đảm bảo quán triệt
chấp hành đường lối, phương châm, chính sách của Đảng, bảo đảm gắn bó quan hệ
máu thịt giữa Đảng và nhân dân, bảo đảm tính tiên tiến và tính thuần khiết của đội
ngũ tiên phong của giai cấp công nhân.
Mao Chính Tương, “Đại hội Đảng là cơ quan quyền lực cao nhất của
tổ chức đảng cùng cấp” [82]. Tác giả khẳng định, Đại hội Đảng là cơ quan
quyền lực cao nhất, duy nhất của tổ chức đảng cùng cấp. Quyền lợi của đảng
viên là nguồn gốc cuối cùng của mọi quyền lực trong Đảng. Thông qua bầu cử,
đảng viên trao một phần quyền lợi của mình cho đại biểu mà mình tín nhiệm,
từ đó hình thành khởi điểm của quyền lực trong Đảng. Các sự việc đặc biệt
trọng đại trong Đảng phải do Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc thảo luận, quyết
định dân chủ. Tác giả đưa ra những số liệu khảo sát thực tế về nhận thức của
cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng về tình hình phát triển dân chủ trong Đảng, từ
đó đề xuất muốn thúc đẩy thể chế lãnh đạo của Đảng vào quỹ đạo dân chủ hóa,
11
thật sự phát triển dân chủ trong Đảng, phải xác định rõ địa vị Đại hội đại biểu
Đảng là cơ quan quyền lực của tổ chức đảng cùng cấp…..
Trương Quang Bác, “Bàn về hai loại dân chủ”, [117]. Tác giả bàn luận về
dân chủ Nghị viện phương Tây và dân chủ XHCN, dân chủ Nghị viện phương
Tây là dân chủ của thiểu số, của giai cấp tư sản (thống trị, bóc lột), còn dân chủ
XHCN là dân chủ đa số của người lao động. Tác giả đề cập vấn đề đa đảng của
các nước phương Tây, chế độ nhiều đảng tranh cử thay nhau nắm quyền là thủ
đoạn chuyên chính của dân chủ tư sản. Bằng cách thay nhau cầm quyền, làm cho
bọn không cầm quyền có thể giám sát bọn cầm quyền theo ý của giai cấp tư sản,
đồng thời lại có thể làm cho chính quyền mau chóng chuyển từ đảng tư sản này
sang đảng tư sản kia khi mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, nhưng vẫn bảo đảm
cho tính liên tục thống trị của giai cấp tư sản. Nền dân chủ XHCN thì có chế độ
hợp tác đa đảng về hiệp thương chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng Cộng
sản là đảng chấp chính, các đảng phái dân chủ là đảng tham chính, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản thông qua hợp tác hiệp thương chính trị, cùng phấn đấu vì
lợi ích của nhân dân. Đảng Cộng Sản không phải là tự phong, mà là kết quả phát
triển của lịch sử, sự lựa chọn của quần chúng nhân dân. Hợp tác các đảng tham
chính không phải do ý muốn chủ quan, mà là tình hữu nghị được kết nên trong
quá trình cách mạng và xây dựng, thông hiểu nhau của các đảng. Nó tập trung
được tinh hoa của quảng đại quần chúng lao động yêu CNXH và những người
yêu nước tán thành thống nhất, tham gia chính quyền, bàn bạc công việc của
chính quyền, tham gia các cơ quan nhà nước. Hội nghị chính trị hiệp thương (Hội
nghị của các đảng) là hội nghị phát huy vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị
đất nước; là sự thể hiện bản chất dân chủ sâu sắc mà chỉ riêng CNXH mới có.
* Nhóm công trình nghiên cứu về nguyên tắc tập trung dân chủ
Hoàng Bách Đông, “Không ngừng kiện toàn chế độ tập trung dân chủ
là sự bảo đảm tổ chức quan trọng để thực hiện sự lãnh đạo hữu hiệu của
Đảng”[43]. Để thực hiện sự lãnh đạo có hiệu quả, Đảng phải không ngừng kiện
toàn chế độ TTDC, Đảng và các tổ chức của Đảng tiến hành xây dựng không
12
mệt mỏi chế độ TTDC, khiến cho chế độ TTDC từng bước trở thành chế độ
bảo đảm kỷ cương pháp luật và chế ước quyền lực; tác giả đưa ra khái quát về
việc kiên trì chế độ TTDC thành phương pháp cơ bản 16 chữ “Tập thể lãnh
đạo, dân chủ tập trung, trao đổi cá biệt, hội nghị quyết định”. “Tập thể lãnh
đạo” là nguyên tắc cơ bản để kiên trì chế độ này, “Dân chủ tập trung” là quá
trình cơ bản để kiên trì chế độ này, “Trao đổi cá biệt” là tiền đề tất yếu của
phát huy dân chủ, “Hội nghị quyết định” là khâu quan trọng nhất của chế độ
TTDC. Sự khái quát này có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng đối với kiên trì chế
độ TTDC có hiệu quả trong thực tế công tác” [43, tr.7]. Tác giả kết luận, chỉ
có không ngừng kiện toàn chế độ TTDC, mới bảo đảm Đảng kiên trì tốt hơn
đường lối tư tưởng của Chủ nghĩa Mác; Đảng mới thủy chung đại biểu cho
yêu cầu phát triển của sức sản xuất xã hội tiên tiến, thực hiện lãnh đạo chính
trị một cách ưu việt; mới có lợi cho việc bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất, tăng
cường sức tập hợp và sức chiến đấu, làm cho sự lãnh đạo của Đảng thêm
kiên cường mạnh mẽ, ngăn chặn được các loại rủi ro và khắc phục các khó
khăn; mới làm trong sạch đội ngũ của Đảng, xóa bỏ những hiện tượng tiêu
cực hủ bại, bảo vệ tính chất và tôn chỉ căn bản của Đảng; chỉ có không
ngừng kiện toàn chế độ TTDC mới có thể thiết lập cơ chế thông tin phản
hồi, điều tiết khống chế và sửa chữa sai lầm kịp thời, giảm bớt tổn thất đến
mức thấp nhất sự nghiệp lãnh đạo xây dựng đất nước của Đảng.
Từ Thiên Tân, “Sự phá hoại của chế độ tập trung dân chủ và sự sụp đổ
của Đảng cộng sản Liên Xô”, [121]. Tác giả chỉ ra nguyên nhân trực tiếp dẫn
tới sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô là không chấp hành chế độ TTDC.
Bài học kinh nghiệm được rút ra: Một là, nội dung chế độ TTDC rất phong phú,
không nên coi cách làm việc cụ thể ở một thời kỳ nào đó là điều không thể
thay đổi mà phải tiến lên cùng thời đại. Căn cứ tình hình thực tiễn để không
ngừng điều chỉnh mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung. Hai là, tập trung là
việc làm cần thiết, trong tình thế riêng biệt nào đó nhấn mạnh tập trung là
13
điều có ý nghĩa tích cực, nhưng tập trung quá mức, nhất là lại thực hiện
trong thời gian dài, sẽ không chỉ phương hại đến phát huy trí tuệ của quần
chúng, phá hoại sự lãnh đạo tập thể, mà còn dẫn đến thoái hóa biến chất của
chế độ TTDC, làm cho Đảng bị diệt vong. Ba là, dân chủ càng cần thiết,
phải phát huy hơn nữa nhất là ở thời kỳ Đảng cầm quyền và lãnh đạo xây
dựng kinh tế, nhưng phát huy dân chủ phải có lãnh đạo, có bước đi, phải từ
hai phương diện: nâng cao ý thức dân chủ của đảng viên và hoàn thiện thể
chế, chế độ TTDC. Đây là vấn đề lớn, ảnh hưởng sự sinh tử tồn vong của
Đảng: “Chế độ TTDC chấp hành không tốt, Đảng có thể bị biến chất, nhà
nước cũng có thể bị biến chất, CNXH cũng có thể bị biến chất” [121, tr.13].
Doãn Ngạn, “Chế độ tập trung “dân chủ” trong Đảng thời kỳ
Lênin”[10]. Tác giả đã khái quát 11 chế độ tập trung dân chủ trong Đảng
thời kỳ Lênin, bao gồm: chế độ bầu cử rộng rãi định kỳ; chế độ về quyền
lãnh đạo tư tưởng và thực tế của cơ quan trung ương; chế độ về quyền lợi
của lực lượng thiểu số trong bầu cử; chế độ về quyền hạn của tổ chức
đảng; chế độ báo cáo của nhân viên phụ trách tổ chức đảng ; chế độ về tính
công khai; chế độ phê bình và bình luận trong nội bộ; chế độ của ủy ban
chuyên môn do đại hội đại biểu bầu ra; chế độ niên hạn đại hội đại biểu
của Đảng; chế độ hội nghị toàn thể ban chấp hành trung ương; chế độ bầu
cử ủy viên trung ương.
Ngoài những công trình trên, tác giả Lạc Thụ C ương có bài “Chế
độ tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức căn bản của chính đảng
Mácxit” [54]. Nhiệm Khắc Lễ có bài “Công tác xây dựng Đảng trong giai
đoạn hiện nay” [85], Ngô Tu Nghệ - Lý Luyện Trung có bài “Kiên trì và
hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng” [83]. Các tác giả đã luận giải những
vấn đề về dân chủ, nguyên tắc TTDC theo quan điểm Mácxit, đề cập đến
tầm quan trọng của việc phải thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng Cộng sản, đồng thời chỉ ra những phương hướng, biện
14
pháp để thực hiện và nâng cao chất lượng dân chủ, thực hiện nguyên tắc
TTDC trong Đảng Cộng sản.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
* Nhóm công trình nghiên cứu về dân chủ, phát huy và thực hành dân
chủ trong Đảng
Phạm Văn Bính, “Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh” [8]. Tác giả
đã nghiên cứu khái niệm, cơ sở hình thành và hệ thống phương pháp dân
chủ. Trên cơ sở đó, đề xuất hướng áp dụng phương pháp dân chủ Hồ Chí
Minh trong hoàn thiện phương pháp lãnh đạo dân chủ của Đảng ta hiện
nay. Phương pháp đó, được thể hiện trong lĩnh vực chính trị; trong cải cách
bộ máy và hoàn thiện chức năng quản lý của Nhà nước; trong phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN; trong nâng cao dân trí, phát triển ý
thức công dân và năng lực thực hiện dân chủ XHCN của cán bộ và toàn
dân; trong củng cố khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức, gắn dân
chủ với đại đoàn kết toàn dân; trong hoàn thiện phương pháp lãnh đạo của
Đảng, giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế, chống lại mọi khuynh
hướng dân chủ cực đoan, quá khích.
Lê Văn Giảng, “Nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ trong công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng” [43]; tác giả đã khái quát dân
chủ và thực hiện dân chủ trong Đảng, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa dân
chủ và kỷ luật đảng, đây là hai mặt không thể tách rời trong một thể thống nhất
của chế độ sinh hoạt đảng. Dân chủ và kỷ luật đảng còn là biểu hiện của nguyên
tắc TTDC. Nội dung dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật được xác định trong phương pháp, quy trình kiểm tra; trong thực hiện công
tác giám sát; trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong thi hành kỷ luật đảng; trong
tự phê bình và phê bình của công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng.
Bùi Thanh Cao, “Hoạt động của tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn tỉnh Hưng Yên hiện nay” [9]. Tác giả chỉ ra biện
pháp tăng cường hoạt động của TCCSĐ trong thực hiện dân chủ ở xã,
15
phường, thị trấn, yêu cầu TCCSĐ phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu và đổi mới hoạt động lãnh đạo của các cấp ủy, chi bộ; phải thường
xuyên củng cố kiện toàn các cấp ủy đảng đủ về số lượng, cơ cấu phù hợp,
chất lượng cao, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện trên các lĩnh vực; bồi dưỡng
nâng cao phẩm chất, năng lực của các cấp ủy viên đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ, cương vị, chức trách được giao; tích cực cải tiến nâng cao chất lượng
sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nguyễn Phú Trọng, “Để đảm bảo dân chủ trong Đảng” [115]. Tác giả
chỉ ra điều quyết định, bảo đảm dân chủ trong Đảng được thực hiện phải giải
quyết tốt ba vấn đề: Một là, hiểu đúng và có nhận thức thống nhất về dân chủ
trong Đảng. Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp phải được bầu cử
dân chủ theo nguyên tắc bỏ phiếu kín, không gò ép, áp đặt. Sự lãnh đạo của
Đảng theo nguyên tắc tập thể kết hợp với phân công trách nhiệm cá nhân.
Trong Đảng phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, bảo đảm kỷ luật tự
giác và đoàn kết thống nhất. Việc đề bạt, khen thưởng và thi hành kỷ luật
đảng viên do tập thể bàn bạc, quyết định; mọi đảng viên đều bình đẳng trước
kỷ luật của Đảng. Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc sâu sát cơ sở. Hai
là, có quy chế, quy định cụ thể về dân chủ trong Đảng, “muốn thực hiện được
dân chủ trong Đảng, nhất thiết phải có cơ chế đúng, có những quy định cụ thể,
tức là nội dung tư tưởng dân chủ phải được thể chế hóa, pháp luật hóa, buộc
các đảng viên và tổ chức đảng phải thi hành” [115, tr.536]. Ba là, có cơ chế
giám sát, kiểm tra, đấu tranh bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng. “Không
phải cứ có quy chế, quy định là mọi việc về dân chủ được thực hiện. Thực tế,
đã có không ít những điều ghi trong Điều lệ Đảng mà không được đảng viên
và tổ chức đảng thực hiện nghiêm túc, thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng.
Muốn thực hiện được quy chế, điều lệ, trước hết cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh
đạo phải gương mẫu. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng vấn đề cực kỳ quan trọng
là phải có sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ của các cơ quan có thẩm quyền, kết
16
hợp với sự giám sát thường xuyên của quần chúng, có sự đấu tranh mạnh mẽ
của công luận” [115, tr.540].
Đỗ Mười, “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa - xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh” [86]. Cuốn sách gồm một số
bài phát biểu, bài viết quan trọng của đồng chí Đỗ Mười - nguyên Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại các Hội nghị Trung ương, các
kỳ họp Quốc hội và bài viết đăng trên các tạp chí. Trong đó, có bài “Phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa - Một giải pháp cơ bản, cấp thiết để xây dựng Nhà
nước trong sạch, vững mạnh”[86, tr.93] khẳng định xây dựng và thực hiện nền
dân chủ XHCN không chỉ là mục tiêu lâu dài, mà còn là một phương thức,
phương pháp rất cơ bản, cấp thiết để đưa cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống
suy thoái trong Đảng và bộ máy nhà nước đến thắng lợi, nhằm củng cố và xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh ở nước ta. “Trong bối cảnh nước ta hiện nay,
trên cơ sở bảo đảm tổ chức lãnh đạo chặt chẽ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, kỷ
cương phép nước, thì phải phát huy dân chủ trực tiếp sẽ góp phần to lớn trong
cuộc đấu tranh chống tiêu cực, suy thoái, tham nhũng, nhằm củng cố Nhà nước
của dân, do dân, vì dân” [86, tr.107, 108]. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định:
“cùng với yêu cầu ngày càng tăng cường mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp thì
chúng ta không coi nhẹ củng cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng của hình thức
dân chủ qua đại biểu” [86, tr.110]. Để đảm bảo chất lượng của dân chủ qua đại
biểu, “chúng ta phải hoàn thiện chế độ bầu cử để dân có thể thực hiện được
quyền lực của mình, chọn mặt gửi vàng” [86, tr.111]. Phát huy dân chủ XHCN
là vấn đề có tầm vóc chiến lược, liên quan đến sự sống còn của đất nước và chế
độ mới. Thực hiện dân chủ XHCN là một cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường
nhằm củng cố Đảng, xây dựng Nhà nước vững mạnh, bảo đảm mãi mãi giữ
vững độc lập, thống nhất và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Vân Thiêng - Ngọc Năm, “Dân chủ trong Đảng - nhìn từ hoạt động
chất vấn” [108]. Tác giả đã khái quát một số khó khăn, vướng mắc khi thực
hiện dân chủ trong Đảng thông qua hoạt động chất vấn: Thứ nhất, do nhận
17
thức trong các cấp ủy chưa thông suốt, nhiều nơi coi “chất vấn” là vấn đề nội
bộ, không nên vạch áo cho người xem lưng; thứ hai, do tâm lý nể nang, né
tránh, ngại va chạm, sợ trù úm, bởi người được chất vấn và người chất vấn
cùng một đảng bộ. Không ít trường hợp người được chất vấn e ngại trả lời
công khai vì bản thân có chuyện, sợ mất uy tín. Còn có người chất vấn lại
phải nhìn trên, nhìn dưới sợ bị ảnh hưởng đến bản thân và gia đình. Điều quan
trọng nhất là do cấp trên chưa gương mẫu và yêu cầu cấp dưới thực hiện. Để
chất vấn là việc làm thường xuyên, có chất lượng, yêu cầu cấp ủy cấp trên
phải chất vấn trước, làm gương cho cấp dưới; người đứng đầu cấp ủy và các
cấp ủy viên phải trong sạch, gương mẫu, nói phải đi đôi với làm... Thực hiện
tốt chất vấn là cơ hội để tập thể thống nhất về nhận thức đối với nhiệm vụ
đang thực hiện, là việc bảo đảm dân chủ trong Đảng được mở rộng. Thực hiện
nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng, phát huy dân chủ thực sự là cách
làm phù hợp trong điều kiện một đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, giúp
cho Đảng có thêm năng lực, uy tín và sức mạnh.
Thu Thủy, “Phát huy dân chủ trong sinh hoạt chi bộ”, [109]. Tác giả
đưa ra giải pháp phát huy dân chủ trong sinh hoạt chi bộ, yêu cầu cấp ủy phải
giữ vững nền nếp, định rõ nội dung sinh hoạt (tức là công tác chuẩn bị sinh
hoạt chi bộ thật sự chu đáo); phải lựa chọn và nâng cao năng lực đội ngũ cấp
ủy viên; phải tạo được bầu không khí dân chủ để phát huy trí tuệ của đảng
viên trong sinh hoạt chi bộ; cấp ủy, người bí thư, phó bí thư và các đảng viên
phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của các tổ chức, đoàn thể và quần chúng, chú
trọng công tác kiểm tra, giám sát….
* Nhóm công trình nghiên cứu về nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyễn Tiến Phồn, “Dân chủ và tập trung dân chủ - lí luận và thực
tiễn” [88]. Công trình là tập hợp các bài viết của tác giả về dân chủ và nguyên
tắc TTDC; khẳng định sự bảo đảm dân chủ và TTDC trong Đảng sẽ có tác
dụng thúc đẩy và hướng dẫn xã hội trong cuộc vận động dân chủ hóa với tất
cả ý nghĩa tích cực, lành mạnh của nó để thực hành dân chủ, phát triển dân
18
chủ. Nguyên tắc TTDC không chỉ là nguyên tắc của Đảng, chỉ đạo hoạt động
lãnh đạo và các quan hệ trong tổ chức đảng, mà còn là nguyên tắc cần thiết,
không thể thiếu trong hoạt động quản lý của Nhà nước, là nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của các đoàn thể chính trị trong hệ thống chính trị ở nước ta. Để
xây dựng nền dân chủ XHCN cần phải có một nỗ lực lớn, lâu dài, có bước đi
phù hợp thực tiễn; đòi hỏi các tổ chức của Đảng phải thực hiện nghiêm nguyên
tắc TTDC, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trong đó xây dựng Đảng cầm
quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền dân chủ của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân không thể không gắn liền với việc tăng
cường thực hiện nguyên tắc TTDC.
Nguyễn Văn Biều, “Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” [7]. Tác giả chỉ ra khi nghiên
cứu nguyên tắc TTDC cần đứng trên nhiều bình diện khác nhau: Thứ nhất,
nếu đứng về xây dựng Đảng thì hiểu TTDC là nguyên tắc cơ bản về xây dựng
Đảng - Điều ấy có nghĩa trong xây dựng Đảng cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ
chức đều phải quán triệt nguyên tắc này; thứ hai, nếu đứng về mặt tổ chức của
Đảng thấy có nhiều nguyên tắc, song tất cả các nguyên tắc đó thì TTDC là
nguyên tắc tổ chức cơ bản, nó chỉ đạo các mối quan hệ trong tổ chức, phản ánh
các mối quan hệ trong Đảng, giữa người lãnh đạo và người dưới quyền lãnh đạo,
tổ chức cấp trên và tổ chức cấp dưới, cá nhân và tổ chức; thứ ba, ở các góc độ
khác, TTDC là nguyên tắc chỉ đạo hoạt động của tổ chức, sinh hoạt nội bộ,
phong cách làm việc của Đảng và các tổ chức của Đảng. Tác giả thẳng thắn
chỉ ra những khuyết điểm, tồn tại trong thực hiện nguyên tắc TTDC của
Đảng là: Hệ thống tổ chức đảng còn cồng kềnh, kém hiệu lực, có những
khâu trì trệ, ách tắc kéo dài, chưa có sự lãnh đạo tập trung thông suốt trên
các lĩnh vực; chưa phát huy được tính chủ động của cơ sở. Việc bầu cử các
cơ quan lãnh đạo của Đảng ở nhiều nơi thiếu dân chủ, tình trạng gò ép, áp đặt
chủ quan theo ý muốn của cấp trên vẫn còn xảy ra. Trong bộ máy của Đảng và
Nhà nước, nhiều nơi chưa thực hiện tốt nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Một số đồng
19
chí bí thư cấp ủy, cán bộ chủ trì phụ trách các ngành không thấy rằng mình phải
đứng trong tổ chức mà làm việc; trái lại, họ đã thoát ly và đứng trên tổ chức, lợi
dụng và dựa vào tổ chức để mưu đồ lợi ích cá nhân. Việc thực hiện nguyên tắc
TPB và PB trong sinh hoạt đảng còn yếu và không ít lệch lạc, nhiều đảng viên, tổ
chức đảng chưa nhận thức đầy đủ và thực hiện tốt tự TPB và PB; do đó có hiện
tượng TPB và PB cho qua chuyện.
Cao Văn Thống, “Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay” [107]. Tác giả chọn lọc, tập hợp, hệ thống một số bài viết của
các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà quản lý, các nhà khoa học, nhà
nghiên cứu, cán bộ, đảng viên làm công tác tham mưu, công tác thực tế về xây
dựng Đảng, khẳng định: TTDC là một chỉnh thể; TTDC của Đảng Cộng sản
trong điều kiện cầm quyền liên quan chặt chẽ với tập trung dân chủ ngoài xã hội;
thực hiện nguyên tắc TTDC trong thực tế phải có điều kiện tiên quyết, mà thiếu
nó thì không thể thực hiện đúng đắn, đầy đủ được.
Nguyễn Tiến Phồn, “Mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ và vận dụng
nguyên tắc TTDC trong hoạt động quản lý của nhà nước ta hiện nay” [89]. Tác
giả khẳng định: TTDC không chỉ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động chính trị
của Đảng Cộng sản, mà còn là nguyên tắc quản lý của Nhà nước XHCN trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội; những giải pháp cơ bản thực hiện nguyên tắc
TTDC trong quản lý nhà nước, đó là: xây dựng nhà nước pháp quyền mạnh với
hệ thống luật pháp đồng bộ, được thực thi nghiêm minh; đi đúng đường lối của
Đảng, đảm bảo vai trò lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng; cải cách nền hành
chính quốc gia theo yêu cầu TTDC; xác lập và vận hành có hiệu quả cơ chế thực
hiện nguyên tắc TTDC, đủ sức chống quan liêu và tham nhũng; xây dựng đội
ngũ công chức giỏi chuyên môn, thạo nghiệp vụ, trọng pháp luật, kỷ luật, gần
dân, tận tụy phục vụ dân và nâng cao dân trí của toàn xã hội.
Nguyễn Phú Trọng, “Nguyên tắc tập trung dân chủ phải chăng đã
lỗi thời?” [114]. Tác giả trình bày những nội dung cơ bản phản bác lại toàn
bộ luận điểm của các thế lực phản động cho rằng “nguyên tắc tập trung dân
chủ chỉ đúng và thích hợp với hoạt động của Đảng trong điều kiện bí mật
20
hoặc trong thời kỳ chiến tranh. Trong hoàn cảnh đó, phải có kỷ luật chặt
chẽ, phải có tập trung thống nhất cao độ, còn trong hoàn cảnh hòa bình xây
dựng, kẻ thù không còn, nhân dân đã làm chủ, cần gì phải thực hiện chế độ
tập trung, kỷ luật và chuyên chính. Lúc này mà còn thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ là không thức thời, là vi phạm dân chủ, là độc đoán
chuyên quyền” [114, tr 26, 27]. Tác giả khẳng định, nguyên tắc TTDC không
chỉ nhằm tạo ra kỷ luật thống nhất, mà còn nhằm phát huy mọi sáng kiến, sáng
tạo, khai thác trí tuệ của đảng viên, của cơ sở cả trong thời kỳ hoạt động bí mật,
trong điều kiện lãnh đạo chiến tranh và ngay cả trong điều kiện hòa bình xây
dựng, “vì vậy nói nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ phù hợp trong hoàn cảnh hoạt
động bí mật hoặc lãnh đạo chiến tranh là không đúng, đối lập dân chủ với tập
trung, tách rời tập trung với dân chủ” [114, tr.27]; “Trong điều kiện hòa bình xây
dựng, chúng ta chẳng những phải phát huy mạnh mẽ dân chủ, mở rộng dân chủ,
mà đồng thời còn phải giữ gìn kỷ luật thống nhất. Có lẽ nào một tổ chức mà trong
hoàn cảnh này thì chặt chẽ, trong hoàn cảnh khác có thể lỏng lẻo?”[114, tr.27, 28];
“Những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về TTDC không phải là một giáo điều
chết cứng, nó là phương pháp luận và kim chỉ nam cho hành động. Vì vậy, phải luôn
vận dụng sáng tạo nó vào hoàn cảnh cụ thể từng lúc, từng nơi”[114, tr.29]. Tác giả
cũng khẳng định: “Nguyên tắc tập trung dân chủ do Lênin đề ra đến nay vẫn còn
nguyên giá trị: nó chưa lỗi thời, chưa phải là cái cản trở con đường tiến lên của chúng
ta. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh mới ngày nay, chúng ta không thể và không nên thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ theo kiểu cũ, máy móc, cứng nhắc, lệch lạc, giáo
điều. Nguyên tắc tập trung dân chủ cần được hiểu đúng và thực hiện đúng trong điều
kiện mới, theo tinh thần mới của thời đại. Không thể giải quyết vấn đề hôm nay bằng
những biện pháp của ngày hôm qua” [114, tr.30, 31].
Tô Huy Rứa..., “Mở rộng dân chủ và thực hành nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng” [97]. Tác giả khái quát việc mở rộng dân chủ và thực
hiện nguyên tắc TTDC trong tổ chức và hoạt động lãnh đạo của Đảng qua 19
năm đổi mới (1986 - 2005), đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện
nguyên tắc TTDC: Thứ nhất, công tác tư tưởng của Đảng cần kiên trì khẳng
- Xem thêm -