Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của nguyễn công hoan...

Tài liệu Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của nguyễn công hoan

.PDF
115
151
89

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ……………………. HÀ THỊ TUYẾT CÂU CÓ HÌNH THỨC NGHI VẤN TRONG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thái Nguyên – 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ……………………. HÀ THỊ TUYẾT CÂU CÓ HÌNH THỨC NGHI VẤN TRONG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số : 60. 22. 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đào Thị Vân Thái Nguyên – 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Theo ngữ pháp học truyền thống, câu có hình thức nghi vấn là một trong bốn kiểu câu được phân loại theo mục đích: câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu cảm thán (câu cảm). Đây là kiểu câu được dùng thường xuyên trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong tác phẩm văn chương. 1.2. Dưới ánh sáng của ngữ dụng học, kiểu câu có hình thức nghi vấn không chỉ được dùng để hỏi (tức hành vi ngôn ngữ trực tiếp) mà còn được dùng với nhiều mục đích khác như để chào, cầu khiến, bộc lộ thái độ,v.v...(tức hành vi ngôn ngữ gián tiếp). Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ nói đến. Song, câu có hình thức nghi vấn có thể được dùng để thực hiện những hành vi ngôn ngữ nào? Đến nay vẫn chưa có một số liệu cụ thể và cũng như chưa có một công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về vấn đề này. 1.3. Nguyễn Công Hoan là một tác giả xuất sắc trong dòng văn học hiện thực nước nhà. Ông bắt đầu cầm bút viết văn vào khoảng những năm 1920-1923 và tự khẳng định được mình một cách mạnh mẽ và vững chắc vào khoảng những năm 1929-1931 trở đi. Ngay từ những truyện ngắn đầu tay, Nguyễn Công Hoan đã chú ý lấy đề tài trong những chuyện đáng cười, đáng khinh, đáng ghét và đáng thương trong xã hội lúc bấy giờ. Và trong cả quá trình sáng tác về sau này, đó là loại đề tài hầu như duy nhất mà ông theo đuổi và ngày càng mở rộng phạm vi quan sát, đối tượng miêu tả và nội dung đả kích. Nguyễn Công Hoan đã dùng ngòi bút của mình vạch ra tất cả những sự thật đen tối của một chế độ xã hội tàn nhẫn và mục nát, chế độ thực dân phong kiến. Song các tác phẩm của ông nổi tiếng và thu hút người đọc không phải chỉ vì nội dung phản ánh hiện thực mà còn vì cái tài sử dụng ngôn ngữ của nhà văn. Có thể nói câu có hình thức nghi vấn được Nguyễn Công Hoan sử dụng khá nhiều và đa dạng. Nó đã góp phần tạo nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm và phong cách của tác giả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn 1.4. Cũng như trong giao tiếp nói chung, trong văn của Nguyễn Công Hoan nói riêng, câu có hình thức nghi vấn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Chọn đề tài Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan để nghiên cứu, chúng tôi muốn làm rõ thêm kiểu câu này về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn sử dụng. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1. Về tình hình nghiên cứu hành vi hỏi và câu nghi vấn Trong giao tiếp, hỏi là một dạng hành vi ngôn ngữ rất phổ biến, một thành tố tham gia thường xuyên vào cấu trúc hội thoại. Mặt khác, nhờ sự tác động của ngữ cảnh và thông qua những sự chuyển hoá khác nhau mà câu nghi vấn có thể thực hiện những chức năng giao tiếp, những hành vi tại lời rất đa dạng. Chính vì thế mà trong ngôn ngữ học cần chú ý nghiên cứu câu nghi vấn và hành vi hỏi. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu về câu nghi vấn và hành vi hỏi đáng chú ý như sau: 1. Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, NXB Đại học quốc gia HN, 2008; 2. Nguyễn Thị Thìn, Câu nghi vấn tiếng Việt, một số kiểu câu nghi vấn không dùng để hỏi, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, 1994; 3. Nguyễn Thị Lương, Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, HN,1996; 4. Lê Đông, Ngữ nghĩa- Ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, HN, 1996; 5.Nguyễn Đăng Sửu, Câu hỏi tiếng Anh trong sự đối chiếu với tiếng Việt, Luận án TS Ngữ Văn, HN, 2002. 6. Lê Anh Xuân, Câu trả lời gián tiếp có nghĩa hàm ẩn cho câu hỏi chính danh, Luận án TS Ngữ văn, HN, 2004. Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, còn có thể kể đến một số bài tạp chí, một số khoá luận tốt nghiệp Đại học như: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Câu trả lời và câu đáp của câu hỏi, Lê Đông, Ngôn Ngữ số phụ, 1985; - Cách tổ chức câu hỏi trong tiếng Kơho, Tạ Văn Thông trong Những vấn đề ngôn ngữ phương Đông, Viện ngôn ngữ học, 1985; - Thử tìm hiểu phát ngôn hỏi và phát ngôn trả lời trong sự tương tác lẫn nhau giữa chúng trên bình diện giao tiếp, Nguyễn Chí Hoà, ngôn ngữ số 1, 1993; - Vai trò của thông tin tiền giả định trong cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ dụng của câu hỏi, Lê Đông, Ngôn ngữ số 2, 1994; - Một vài đặc điểm chung của câu nghi vấn (qua ngôn liệu một số ngôn ngữ), Nguyễn Đăng Sửu, Kỉ yếu hội thảo ngữ học trẻ, 1998; - Một số tiểu từ tình thái đứng cuối câu dùng để hỏi, Nguyễn Thị Tuyết Mai trong Những vấn đề ngôn ngữ học, Kỉ yếu hội nghị khoa học, 2001, Viện ngôn ngữ học; - Câu hỏi trong truyện ngắn Nam Cao, Nguyễn Thị Hồng Nhung, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa ngôn ngữ học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, 2005... Có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về hành vi hỏi và câu nghi vấn đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu dừng lại ở việc tìm hiểu câu nghi vấn được dùng với mục đích trực tiếp hoặc mới chỉ đề cập đến một khía cạnh của hành vi hỏi trong khi câu nghi vấn còn nhằm diễn đạt nhiều mục đích khác nhau. Đặc biệt, việc nghiên cứu về câu nghi vấn trong những tác phẩm văn học cụ thể chưa được chú ý một cách đầy đủ. 2.2. Về tình hình nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Công Hoan Nguyễn Công Hoan là một nhà văn hiện thực lớn, với một khối lượng sáng tác đồ sộ, có một vị trí quan trọng trong lịch sử Văn học Việt Nam hiện đại. Từ khi xuất hiện trên văn đàn đến nay, ông luôn được sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu, phê bình cũng như của nhiều thế hệ bạn đọc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 5 http://www.lrc-tnu.edu.vn Điểm lại tình hình nghiên cứu, tư liệu của chúng tôi cho thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu: 1. Nguyễn An, Nguyễn Công Hoan (1903-1977), in trong Nhà văn của các em , Nxb Văn học, HN, 1996; 2. Hoàng Hữu Các, Về việc giảng dạy các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan trong nhà trường, in trong Nguyễn Công Hoan, nhà văn hiện thực lớn, NXB Hội nhà văn, HN, 1993; 3. Nguyễn Minh Châu, Nhà văn Nguyễn Công Hoan, Văn nghệ số 40, 1985; 4. Trương Chính, Đọc Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, Tuần báo văn nghệ số 48, 1985; 5. Phan Cự Đệ, Nguyễn Công Hoan - Trong Văn học Việt Nam 19301945 (tập II), Nxb Giáo dục, HN, 1961; 6. Phan Cự Đệ, Nguyễn Công Hoan - Trong Nhà văn Việt Nam 19451975 (tập II), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1983; 7. Lê Thị Đức Hạnh, Vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn trong truyện của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng, Tạp chí văn học số 6, 1970; 8. Lê Thị Đức Hạnh , Sáng tác của Nguyễn Công Hoan sau Cách mạng, Tạp chí văn học số 6, 1971; 9. Lê Thị Đức Hạnh, Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Tạp chí văn học, 1975; 10. Hội nhà văn, Nguyễn Công Hoan, nhà văn (1903-1977), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, HN, 1997; 11. Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Công Hoan, Từ điển văn học (tập II), Nxb Khoa học xã hội, HN, 1984; 12. Hoàng Như Mai, Có nhiều tác giả Nguyễn Công Hoan trong một Nguyễn Công Hoan, Lời nói đầu Bóng người qua, Nxb Văn nghệ, TPHCM, 1988; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn 13. Nguyễn Đăng Mạnh, Đọc lại truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, HN, 1983... Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tạp chí và khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan cùng với các tác phẩm của ông. Có thể khẳng định lại một lần nữa rằng: Nguyễn Công Hoan là một nhà văn lớn. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác và các tác phẩm văn học của ông đã được giới nghiên cứu, phê bình văn học đặc biệt quan tâm song việc nghiên cứu về câu nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan thì chưa thực sự được quan tâm. Như vậy, vấn đề nghiên cứu về câu nghi vấn cũng như về tác giả Nguyễn Công Hoan đã và đang thu hút sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Những công trình nghiên cứu đã công bố về Nguyễn Công Hoan phần lớn mới chỉ dừng lại ở việc sưu tầm các tác phẩm của ông hoặc phê bình một số tác phẩm của tác giả. Có những công trình chỉ chọn một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Công Hoan để tìm hiểu. Có thể nói, chưa có công trình nào nghiên cứu về câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan một cách toàn diện. Chọn đề tài Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan để nghiên cứu, chúng tôi muốn làm rõ thêm kiểu câu này về mặt lý thuyết cũng như thực tế sử dụng. Hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ một phần làm sáng tỏ thêm về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan, mặt khác nó có thể làm tư liệu tham khảo cho những ai muốn nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan nói chung và câu có hình thức nghi vấn trong văn Nguyễn Công Hoan nói riêng. 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kiểu câu có hình thức nghi vấn được sử dụng trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn 3.2. Phạm vi nghiên cứu Có thể nghiên cứu câu có hình thức nghi vấn trong văn Nguyễn Công Hoan về nhiều phương diện, nhưng luận văn này giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau: - Về đối tượng khảo sát: Luận văn giới hạn phạm vi khảo sát là cuốn Truyện ngắn chọn lọc của Nguyễn Công Hoan - Nxb Văn học, 2005 và cuốn tiểu thuyết Bước Đường Cùng - Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2006. -Về nội dung nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đối tượng về 2 phương diện: cấu trúc hình thức, ngữ nghĩa và hành vi ngôn ngữ. 4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này người viết nhằm mục đích làm rõ thêm kiểu câu có hình thức nghi vấn về mặt lý luận cũng như thực tiễn sử dụng, từ đó có thể giúp cho bản thân và người đọc có cái nhìn đúng đắn khi nghiên cứu và giảng dạy về kiểu câu phân loại theo mục đích nói. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đặt ra, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết làm căn cứ lý luận cho đề tài; - Khảo sát tư liệu, phân loại tư liệu theo từng tiêu chí; - Miêu tả, phân tích tư liệu theo các nhóm đã phân loại; - Tổng kết các kết quả nghiên cứu rút ra từ việc miêu tả, phân tích ngữ liệu; - Trình bày quan điểm của người viết về đối tượng nghiên cứu. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn 5.1. Phƣơng pháp thống kê - phân loại Phương pháp nghiên cứu này dùng để khảo sát và phân loại tư liệu, cụ thể là khảo sát các câu có có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và phân loại chúng. 5.2. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp Phương pháp nghiên cứu này dùng để miêu tả, phân tích tư liệu và tổng kết các kết quả nghiên cứu. 5.3. Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu Phương pháp nghiên cứu này dùng để so sánh, đối chiếu các tiểu loại đối tượng về tần số sử dụng và giá trị biểu đạt. 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN 6.1. Về mặt lý luận - Luận văn góp phần làm rõ thêm về các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp được thể hiện dưới hình thức hành vi hỏi. Nói khác đi, câu có hình thức nghi vấn có khả năng dùng để thực hiện những hành vi ở lời gián tiếp. - Việc nghiên cứu câu nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan còn có ý nghĩa trong việc chỉ ra những nét riêng biệt trong việc sử dụng ngôn từ của Nguyễn Công Hoan so với các nhà văn khác. Từ đó, làm rõ phong cách nhà văn. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả của luận văn sẽ giúp cho việc hiểu, giảng dạy các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan trong nhà trường đạt hiệu quả hơn, làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến nhà văn Nguyễn Công Hoan và câu có hình thức nghi vấn. Đây cũng có thể xem như là một cơ sở cho những công trình nghiên cứu tiếp theo về câu nghi vấn và về tác giả Nguyễn Công Hoan. 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết Chƣơng 2: Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan xét về mặt cấu tạo ngữ pháp Chƣơng 3: Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan xét về phương diện dụng học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn NỘI DUNG Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT Chương này trình bày một số lý thuyết được luận văn dùng làm căn cứ để xử lý đối tượng nghiên cứu. Cụ thể đó là lý thuyết về câu và lý thuyết về ngữ dụng học. 1.1. Một số vấn đề lý thuyết về câu 1.1.1. Định nghĩa câu Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có được cách định nghĩa câu nào thoả mãn tất cả hoặc hầu hết các nhà ngữ pháp. Có khá nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nêu lên định nghĩa câu. Trong đó phải kể đến định nghĩa câu của Nguyễn Hiến Lê trong Để hiểu văn phạm Việt Nam, của Hữu Quỳnh trong Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại, của Diệp Quang Ban trong Ngữ pháp tiếng Việt và của Uỷ ban khoa học xã hội. Vấn đề định nghĩa câu phụ thuộc vào góc nhìn của nhà nghiên cứu, vào mục đích nghiên cứu và giảng dạy cũng như học tập ngữ pháp. Ở đây chúng tôi theo định nghĩa của tác giả Diệp Quang Ban vì đó là cơ sở quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Diệp Quang Ban dựa vào 4 tiêu chí: hình thức, nội dung, chức năng và lĩnh vực nghiên cứu đã nêu lên định nghĩa về câu như sau: "Câu là đơn vị của nghiên cứu ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt, tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ" ( Ngữ pháp tiếng Việt, tập hai, Nxb Giáo dục, trang 106). 1.1.2. Vấn đề phân loại câu theo mục đích nói Có nhiều tiêu chí để phân loại câu như: phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp, phân loại câu theo mối quan hệ với hiện thực, phân loại câu theo mục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn đích nói. Ở đây, xin đi sâu vào vấn đề phân loại câu theo mục đích nói vì đó là cơ sở lý thuyết liên quan trực tiếp đến việc xử lý đề tài. Phân loại câu theo mục đích nói là cách nhìn có tính chất truyền thống về câu trong hoạt động của nó. Căn cứ vào mục đích nói, người ta phân thành 4 kiểu câu, đó là: - Câu tường thuật (còn gọi là câu kể); - Câu nghi vấn (còn gọi là câu hỏi); - Câu mệnh lệnh (còn gọi là câu cầu khiến); - Câu cảm thán (còn gọi là câu cảm). Có nhiều ý kiến cho rằng không nên tách câu cảm thán ra thành kiểu riêng vì 3 kiểu câu kia đều có thể cảm thán khi đưa vào chúng những mức độ tình cảm khác nhau. Quan điểm này có thể thích hợp với những thứ tiếng nào đó, còn đối với tiếng Việt, ngoài ngữ điệu, câu cảm thám còn có một bộ phận tiểu từ, phụ từ chuyên dụng, hoặc có thêm cách cấu tạo đặc thù phân biệt được với những kiểu câu khác. Vì vậy không nên nhấn chìm câu cảm thán vào những kiểu câu khác. 1.1.3. Sơ lƣợc về câu nghi vấn a. Khái niệm Câu nghi vấn là loại câu thường được dùng để nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi và chờ đợi trả lời, giải thích của người tiếp nhận câu đó. Về mặt hình thức, câu nghi vấn cũng có những dấu hiệu đặc trưng nhất định. Câu nghi vấn tiếng Việt được cấu tạo nhờ các phương tiện sau đây (trong sự đối chiếu với câu tường thuật): - Các đại từ nghi vấn; - Kết từ "hay" (với ý nghĩa lựa chọn); - Các phụ từ nghi vấn; - Các tiểu từ chuyên dụng; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Ngữ điệu thuần tuý (những trường hợp không có các phương tiện nêu trên). b. Phân loại câu nghi vấn Có nhiều tiêu chí để phân loại câu nghi vấn. Dựa vào các phương tiện cấu tạo câu nghi vấn, tác giả Diệp Quang Ban phân loại câu nghi vấn thành bốn kiểu nhỏ. Đó là: * Câu nghi vấn có đại từ nghi vấn Câu nghi vấn có đại từ nghi vấn là câu nghi vấn được dùng để hỏi vào những thời điểm xác định trong câu, điểm hỏi là điểm chứa đại từ nghi vấn. Do đó, ngay cả khi câu bị tách ra khỏi tình huống nói và ngữ cảnh cũng có thể nhận biết được điểm hỏi. Có thể gọi đây là câu nghi vấn rõ trọng điểm. Những đại từ nghi vấn thường gặp là: + Ai: hỏi về người; + Gì: hỏi về vật và về tính chất (nội dung) của người, con vật, sự vật; + Nào: hỏi về tính chất (có thể hàm ý lựa chọn); + (Như) thế nào: hỏi về tính chất (miêu tả) của người, sự vật và về cách thức của đặc trưng (hành động, trạng thái, tính chất, quan hệ); + Mấy: hỏi về số lượng; + Bao giờ: hỏi về thời điểm; + Bao lâu: hỏi về thời hạn; + Đâu: hỏi về vị trí và phương hướng. Trong câu nghi vấn tiếng Việt, vị trí của đại từ nghi vấn là vị trí của từ mà nó thay thế ở câu tường thuật, thường đại từ nghi vấn không được đưa lên đầu câu như ở câu nghi vấn của nhiều ngôn ngữ khác. Ví dụ: Bao giờ anh đi? (- Ngày mai tôi đi.) * Câu nghi vấn có kết từ "hay" và câu nghi vấn có phụ từ nghi vấn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn Câu nghi vấn có kết từ "hay" dùng để hỏi có hạn chế trong khả năng trả lời, một trong những đề nghị được đưa ra. Vì vậy kiểu câu nghi vấn này được gọi là câu nghi vấn lựa chọn. Nếu những khả năng đưa ra trong câu nghi vấn đều không được lựa chọn thì phải trả lời bằng câu bác bỏ toàn bộ chúng. Ví dụ, đối với câu hỏi "Anh mua sách hay vở?", có những khả năng lựa chọn sau: - Tôi mua sách. - Tôi mua vở. - Tôi mua cả sách lẫn vở. Và có thể bác bỏ như sau: - Tôi không mua sách cũng chẳng mua vở. Những khả năng đưa ra trong câu nghi vấn phải có liên hệ ý với nhau, đồng thời phải khác nhau. Nội dung điều được đưa ra lựa chọn là không hạn chế, miễn là đủ rõ nghĩa. Cách trình bày sự lựa chọn không phải bao giờ cũng hiển ngôn một cách đầy đủ mà thường bị cắt xén, tạo nên những biến dạng khá phức tạp. Biến dạng phổ biến và còn rõ nhất là trường hợp có mặt cặp phụ từ trái nghĩa và từ "hay" bị tỉnh lược làm thành những khuôn nghi vấn. Trong những khuôn này, từ "hay" dễ dàng được khôi phục. Các khuôn hay gặp là: - Có ... không? - Có phải ... không? - Đã ... chưa? - ... xong chưa? Câu nghi vấn thuộc bốn khuôn nêu trên khi không có kết từ "hay" và những câu nghi vấn có dạng dồn rút khuôn là câu nghi vấn có phụ từ nghi vấn, với tư cách là tiểu loại của câu nghi vấn lựa chọn. * Câu nghi vấn có tiểu từ chuyên dụng Câu nghi vấn có tiểu từ chuyên dụng, nếu không được dùng kèm với các phương tiện khác thì điểm hỏi trong câu sẽ rất mơ hồ khi câu đứng riêng. Vậy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn nên có thể gọi đây là kiểu câu nghi vấn không rõ trọng điểm. Ví dụ (1): Hôm qua anh đi Hà Nội à? Đối với câu nghi vấn trên có thể trả lời như sau: - Không, tôi đi Hà Nội từ tuần trước cơ. (trọng điểm hỏi: hôm qua) - Phải, tôi đi Hà Nội hôm qua. (trọng điểm hỏi: hôm qua) - Không, anh ấy đi Hà Nội (trọng điểm hỏi: anh) - Không, tôi đi Thái Nguyên (trọng điểm hỏi: Hà Nội) Những tiểu từ chuyên dụng thường gặp là: à, ừ, nhé, nhỉ, hả, chứ, chớ, ạ… * Câu nghi vấn dùng ngữ điệu Việc sử dụng ngữ điệu để phân biệt câu theo mục đích nói là rất hạn chế vì tiếng Việt là một ngôn ngữ có nhiều thanh điệu. Cách sử dụng câu nghi vấn chỉ thuần tuý dựa vào ngữ điệu được chấp nhận rộng rãi là trong câu hỏi có ý tương phản mở đầu bằng kết từ còn. Đặc trưng ngữ điệu của kiểu câu này là sự nâng cao giọng ở phần cuối câu. Ví dụ (2): - Còn cậu ta? - Còn nguy cơ thứ ba? - Còn tin vui? Dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa, tác giả Cao Xuân Hạo chia câu nghi vấn thành hai loại nhỏ là: * Câu nghi vấn chính danh: Là câu chỉ có giá trị ngôn trung là hỏi để yêu cầu một lời giải đáp. Hỏi người khác hoặc hỏi chính mình để được trả lời hoặc tự giải đáp, gọi tắt là câu hỏi. * Câu nghi vấn có giá trị ngôn trung khác: Câu hỏi chỉ là hình thức để người nghe tự biết ra cái việc phải đáp ứng. Hình thức câu nghi vấn còn có nhiều giá trị ngôn trung khác, từ khẳng định, phủ định, bác bỏ, chối cãi, ngờ vực đến thanh minh, hy vọng một cách mong manh, phân vân, lo lắng, cảm thán, cầu khiến... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 15 http://www.lrc-tnu.edu.vn Một số tác giả dựa vào tiêu chí khả năng, chia câu nghi vấn thành ba kiểu sau: * Câu nghi vấn có lựa chọn * Câu nghi vấn không có lựa chọn * Câu nghi vấn giả thiết Như vậy, câu nghi vấn là một trong những kiểu câu được phân loại theo mục đích nói. Câu nghi vấn thường chứa các từ ngữ nghi vấn như: ai, gì, nào, tại sao, đâu, bao giờ, bao nhiêu, à, ư, hả, chứ, (có)...không, (đã)... chưa hoặc có từ "hay" nối kết các vế lựa chọn. Chức năng chính của câu nghi vấn là dùng để hỏi. Ngoài ra, nó cũng có những chức năng khác như dùng để cầu khiến, để khẳng định, phủ định, đe doạ, bộc lộ tình cảm, cảm xúc...Dấu hiệu để nhận biết câu nghi vấn là các từ nghi vấn trong câu và dấu chấm hỏi được đặt ở cuối câu. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, nếu không dùng để hỏi thì câu nghi vấn có thể kết thúc bằng dấu chấm than, dấu chấm hoặc dấu chấm lửng. 1.2. Một số vấn đề lý thuyết về ngữ dụng học 1.2.1. Lý thuyết về hành vi ngôn ngữ a. Khái niệm hành vi ngôn ngữ Trong cuộc sống, con người sử dụng rất nhiều các hành động khác nhau để đạt được mục đích của mình. Một trong những hành động có mục đích của con người là hành động nói năng hay còn gọi là hành động nói hoặc hành vi ngôn ngữ. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên - Nxb Giáo dục, 1998) thì hành vi ngôn ngữ là "Một đoạn lời có mục đích nhất định thực hiện trong những điều kiện nhất định được tách biệt bằng các phương tiện trên ngữ điệu và hoàn chỉnh thống nhất cấu âm - âm học mà người nói, người nghe đều có liên hệ với một ý nghĩa như nhau, trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó". Như vậy, hành vi ngôn ngữ được thực hiện khi một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 16 http://www.lrc-tnu.edu.vn người nói (người viết) nói (viết) ra một phát ngôn cho người nghe (người đọc) trong một ngữ cảnh nhất định. Cụ thể, hành vi ngôn ngữ là hành động con người sử dụng ngôn ngữ để tạo ra một phát ngôn trong cuộc giao tiếp. Hành vi ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng, nó có khả năng làm thay đổi trạng thái, tâm lý, hành động… của người nghe, thậm chí của cả người nói. Theo Austin - nhà ngôn ngữ học người Anh, khi người nói (người viết) nói (viết) ra một phát ngôn thì trong đó phải sử dụng ba loại hành vi ngôn ngữ lớn, đó là hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời. Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu… để tạo ra một phát ngôn về hình thức và nội dung. Chẳng hạn, người nói (người viết) sử dụng các yếu tố ngữ âm, từ và kết hợp các từ theo một quy tắc nhất định để nói (viết) ra một phát ngôn thể hiện hành vi thông báo "Tôi mệt rồi!". Hành vi mượn lời là hành vi "mượn" phương tiện ngôn ngữ, nói cho đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc ở chính lời nói. Ví dụ, khi nghe một phát ngôn sai khiến "Đóng cửa lại!", người nghe có thể có những phản ứng để thực hiện sự sai khiến đó (đứng dậy đóng cửa) hoặc tỏ thái độ bực tức, càu nhàu, khó chịu… Đó chính là hiệu quả của hành vi mượn lời. Có những hiệu quả mượn lời là đích của một hành vi ở lời (đóng cửa là hiệu quả mượn lời của hành vi ở lời điều khiển) nhưng cũng có những hiệu quả không thuộc đích của hành vi ở lời (như gắt gỏng, khó chịu…khi nghe lệnh). Hành vi ở lời là những hành vi mà người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của hành vi ở lời là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Ví dụ, khi người nói (Sp1) phát ngôn: "Tôi hứa ngày mai tôi sẽ đến" thì hành vi "hứa" đã được xác lập và thực hiện. Sp1 đã bị ràng buộc vào trách nhiệm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 17 http://www.lrc-tnu.edu.vn phải thực hiện lời hứa của mình và người nghe (Sp2) có quyền chờ đợi kết quả của lời hứa đó. Như vậy hành vi "hứa" đã thay đổi tư cách pháp nhân của các nhân vật giao tiếp. Trong 3 loại hành vi ngôn ngữ trên, ngữ dụng học chủ yếu quan tâm đến hành vi ở lời. Lý thuyết hành vi ở lời cũng là một trong những căn cứ mà luận văn sẽ sử dụng để nghiên cứu. b. Phân loại hành vi ngôn ngữ Có nhiều cách khác nhau để phân loại hành vi ngôn ngữ. Dưới đây là một vài cách phân loại: * Cách phân loại của Austin Trước Austin, nhà triết học Wittgenstein đã nói tới hành vi ngôn ngữ với thuật ngữ "trò chơi ngôn ngữ" song ông cho rằng không thể phân loại được chúng. Ngược lại, Austin cho rằng có thể phân loại được các hành vi ngôn ngữ. Theo ông, có 5 phạm trù (5 lớp hành vi ngôn ngữ khác nhau), đó là: phán xử, hành sử, cam kết, trình bày và ứng xử. Cụ thể như sau: 1. Lớp hành vi phán xử: Đây là nhóm gồm những hành vi đưa ra những lời phán xét về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa vào lý lẽ vững chắc như: tính toán, miêu tả, phân tích, đánh giá, phân loại… 2. Lớp hành vi hành sử: Đây là những hành vi đưa ra những quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó như: ra lệnh, chỉ huy, khẩn cầu, giới thiệu, bế mạc, cảnh cáo, tuyên ngôn… 3. Lớp hành vi cam kết: Những hành vi này ràng buộc người nói vào một chuỗi những hành động nhất định như: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn, giao ước, đảm bảo, thề nguyền, thông qua các quy ước… 4. Lớp hành vi trình bày: Những hành vi này được dùng để trình bày các quan niệm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng từ như khẳng định, phủ định, từ chối, trả lời, phản bác, nhượng bộ, báo cáo các ý kiến… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 18 http://www.lrc-tnu.edu.vn 5. Lớp hành vi ứng xử: Đây là những hành vi phản ứng với cách xử sự của người khác, đối với sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành vi hay số phận của người khác như: xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, nguyền rủa, thách thức, nghi ngờ… Cách phân loại hành vi ngôn ngữ của Austin được xem về cơ bản là phân loại từ vựng các động từ ngữ vi tiếng Anh. Cách phân loại này vẫn còn nhiều bất cập vì tiêu chí phân loại không rõ ràng, các hành vi còn bị xếp chồng chéo giữa các lớp. Chẳng hạn hành vi miêu tả (describe) được xếp vào 2 lớp: lớp hành vi phán xét và lớp hành vi bày tỏ. Nó thuộc lớp hành vi phán xét vì đó là một sự đánh giá (chính thức hoặc không chính thức). Nó thuộc lớp hành vi bày tỏ vì đó là sự trình bày một vấn đề nào đó. * Cách phân loại của Searle Searle đã chỉ ra những hạn chế trong cách phân loại hành vi ngôn ngữ của Austin. Ông đã khắc phục những hạn chế này, ông cho rằng trước hết là phải phân loại các hành vi ở lời chứ không phải phân loại các động từ gọi tên chúng. Ông đã đưa ra cách phân loại khác dựa trên các tiêu chí rõ ràng, đó là 12 điểm khác biệt giữa các hành vi ngôn ngữ được dùng làm tiêu chí phân loại như sau: - Đích ở lời: là đích của các phát ngôn mà người nói hướng tới người nghe; - Hướng khớp ghép lời với hiện thực mà lời đề cập đến; - Trạng thái tâm lý được thể hiện qua phát ngôn; - Sức mạnh mà đích ở lời trình bày ra; - Tính quan yếu của mối liên hệ liên cá nhân giữa người nói và người nghe; - Định hướng của đích tại lời; - Sự khác biệt trong việc thiết lập quan hệ với thành phần còn lại của diễn ngôn; - Nội dung mệnh đề; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 19 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Sự khác biệt giữa những hành động luôn luôn là hành động phát ngôn với những hành động có thể thực hiện bằng lời hoặc không bằng lời; - Thể chế xã hội; - Động từ nói năng; - Phong cách thực hiện hành vi ở lời. Trong 12 tiêu chí mà Searle dùng làm căn cứ để phân biệt các loại hành vi ngôn ngữ, ông chỉ lấy 4 tiêu chí làm căn cứ chính, đó là: đích ở lời, hướng khớp ghép, trạng thái tâm lý và nội dung mệnh đề. Từ 4 tiêu chí này, Searle đã phân loại hành vi ngôn ngữ ra làm 5 lớp, mỗi lớp lại bao gồm một số hành vi cụ thể. Đó là các lớp: 1. Lớp hành vi tái hiện: Đích ở lời của lớp hành vi này là miêu tả lại một sự tình đang được nói đến, trách nhiệm của người nói đối với việc mình thông báo. Hướng khớp ghép là lời - hiện thực, trạng thái tâm lý là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh đề là một mệnh đề. Các mệnh đề này có thể đánh giá theo tiêu chuẩn đúng - sai logic. Lớp hành vi này bao gồm các hành động nói như: miêu tả, khẳng định, tường minh, minh hoạ… 2. Lớp hành vi điều khiển: Đích ở lời là đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện một hành động tương lai; hướng khớp ghép hiện thực - lời; trạng thái tâm lý là sự mong muốn của Sp1 và nội mệnh đề là hành động tương lai của Sp2. Lớp hành vi này bao gồm các hành động nói như: ra lệnh, hỏi, yêu cầu, cho phép… 3. Lớp hành vi cam kết: Đích ở lời là trách nhiệm phải thực hiện hành động tương lai mà Sp1 bị ràng buộc; hướng khớp ghép hiện thực - lời; trạng thái tâm lý là ý định của Sp1 và nội dung mệnh đề là hành động tương lai của Sp1. Lớp hành vi này bao gồm các hành động nói như: hứa hẹn, tặng, biếu… 4. Lớp hành vi biểu cảm: Đích ở lời là bày tỏ trạng thái tâm lý phù hợp với hành vi ở lời; trạng thái tâm lý thay đổi tuỳ theo từng loại hành vi; nội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 20 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan