2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo đã được đề cập đến dưới nhiều góc
độ khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo dưới góc độ công
tác xã hội mới được đề cập đến trong một số công trình:
Xóa đói giảm nghèo và vai trò của nhân viên công tác xã hội (Poverty
eradication and the role for social workers) của Nairobi (tháng 01 năm 2010)
chỉ ra tác động của nghèo đói tới đời sống của người dân, đặc biệt là các
nhóm dễ bị tổn thương; đồng thời đưa ra 3 phương pháp tiếp cận để xóa đói
giảm nghèo là:
- Tham vấn và sự tham gia của các cá nhân, gia đình và các nhóm dân
cư trong các tình huống nghèo. Đây được coi là những yếu tố quan trọng
trong xóa đói giảm nghèo.
- Lập kế hoạch và thực hiện các biện pháp, các dự án nhằm giảm bớt
nghèo đói, hỗ trợ họ tăng sự tự tin vào bản thân là phương pháp phổ biến mà
nhân viên công tác xã hội đã từng sử dụng trong quá khứ.
3
- Nhấn mạnh đến vai trò của các phương pháp và hợp tác quốc tế, nhấn
mạnh đến vai trò của nhân viên công tác xã hội trong xóa đói giảm nghèo. Ở
cấp độ vi mô, nhân viên xã hội làm việc để đối phó với đói nghèo đánh giá
được rủi ro, lầm việc một cách sáng tạo để giúp cá nhân, cộng đồng hiểu được
tình hình của họ dẫn đến thay đổi hành vi và môi trường sống. Phát triển cộng
đồng đòi hỏi kỹ năng phân tích cộng đồng, lập kế hoạch xã hội, tổ chức cộng
đồng và hoạt động xã hội giữ vai trò rất quan trọng.
Nhân viên xã hội làm việc với người nghèo và chứng kiến hành vi thay
đổi của họ. Trong phương pháp này, cộng đồng thực hành kết hợp làm việc
với các cá nhân, gia đình và có công việc cộng đồng, tập trung vào nguồn lực
và cơ hội tăng cường cùng với năng lực cá nhân để cá nhân phát hiện ra
nguyên nhân nghèo đói của họ. Đó là điều cần thiết để công tác xóa đói giảm
nghèo đạt hiệu quả [29].
Bài viết Vai trò của công tác xã hội trong các chương trình xóa đói
giảm nghèo ở Philippines: tư tưởng, chính sách và các ngành nghề (The role
of socail work in Philippines poverty – reduction program: ideology, policy
and the profession) xem xét vai trò của công tác xã hội trong 03 chương trình
xóa đói giảm nghèo ở Philippines, nhấn mạnh đến việc kiểm tra tập trung vào
các giá trị và nguyên tắc làm cơ sở cho việc thực hiện và môi quan hệ với
quan niệm cụ thể của công tác xã hội. Có ý kiến cho rằng, vai trò của công tác
xã hội trong các chương trình này phản ánh từ tư tưởng thống trị trong chính
sách xã hội của Philippines. Tính hợp pháp nhận thức của phương pháp tiếp
cận có liên quan đến mức độ mà họ thể hiện quan niệm chủ đạo của các vấn
đề xã hội và công tác xã hội, đặc trưng bởi sự tham gia của nhân viên và
khách hành tập trung với mục đích bằng sự thay đổi trong các cá nhân và môi
trường sống trực tiếp của mình [30].
4
Đói nghèo và bất bình đẳng tại Việt Nam: Trên bài viết này dựa trên
nhứng đánh giá về khí hậu, nông nghiệp và không gian để đánh giá tình hình
nghèo đói và sự bất bình đẳng ở Việt Nam (WB, 2004).
Vấn đề nghèo ở Việt Nam: Trong tác phảm này đã đưa ra những vấn đề
chung nhất về nghèo đói ở Việt Nam những tác động của nghèo đói lên đời
sống nhân dân và an sinh xã hội. Nhứng khía cạnh, những vấn đề của nghèo
đói (Bùi Thế Giang (dịch), 1996).
Nhìn chung trên đã đạt được kết quả góp phần đáng kể cho lĩnh vực
nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo và vai trò của công tác xã hội trong xóa
đói giảm nghèo.
2.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xóa đói giảm nghèo đã
được thực hiện ở nước ta, đáng chú ý là một số công trình sau:
Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam của Lê Xuân Bá và các
đồng nghiệp đã đưa ra được cái nhìn chung, tổng quát nhất về tình hình nghèo
đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam; chỉ rõ, vấn đề xóa đói giảm nghèo
luôn gắn bó và chịu ảnh hưởng của quan hệ giai cấp và các mối quan hệ xã
hội khác nhau. Công tác xóa đói giảm nghèo được nhìn nhận dưới nhiều góc
độ khác nhau. Bên cạnh việc đánh giá tình hình chung, tác phẩm còn đưa ra
một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giảm nghèo bền vững [2].
Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế và những số liệu thông kê, tác giả đã
đánh giá tình hình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Đồng
thời tác giả còn chỉ ra được tầm quan trọng của công tác xóa đói giảm nghèo
trong nền kinh tế thị trường [13].
Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay: tác phẩm đã
đánh giá được thực trạng nghèo đói ở nông thôn Việt Nam sau 3 năm dỡ bỏ
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm tỉ lệ 14% dân số cả nước.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước nhiều chính sách, chương trình, dự án đã được
triển khai nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo vùng DTTS, vùng miền núi, vùng
sâu, vùng xa.. công tác giảm nghèo luôn hướng tới cộng đồng, cộng đồng phải tham gia một cách tích cực
thì hiệu quả với đạt đến mức cao nhất. Tuy nhiên thực tế lại cho thấy rằng: sự tham gia của cộng đồng vào các
hoạt động giảm nghèo còn quá hạn chế. Vậy để giảm nghèo một cách bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số
thì Đảng, Nhà nước và các tổ chức có liên quan cần đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của người dân vào các
hoạt động giảm nghèo và lấy con người làm trung tâm của giảm nghèo.
Trước thực trạng chung đó, viê ̣c phát huy sự tham gia của người dân là vô cùng cần thiết, Thạch Thàch là một
huyện miền núi của tỉnh Thanh Hoá, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ nghèo đói còn cao so
với tỉnh cũng như so với cả nước, hiện tượng thiếu ăn, đứt bữa của người dân trong huyện còn nhiều. Và xã
Thành Minh là một xã còn nhiều khó khăn của huyện Thạch Thành chủ yếu có hai dân tộc sinh sống đó là
người Kinh và người Mường. Giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Từ những thành tựu to
lớn của công tác giảm nghèo đã góp phần tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội cho đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều hạn chế: thu nhập của người dân chủ yếu là xoay quanh mức cận
nghèo, kết quả giảm nghèo thì không được bền vững, đặc biệt với những vùng cao, vùng dân tộc thiểu số thì
giảm nghèo lại chưa đạt được kết quả như mong muốn. Vậy vấn đề đặt ra là phải làm cách nào để tăng cường
sự tham gia của người dân vào giảm nghèo, để họ tham gia một cách chủ động và đầy đủ. Xuất phát từ thực tế
đó tôi quyết định chọn đề tài: “THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA
của cộng đồng dân tộc thiểu số trong giảm nghèo trên địa bàn xã Cát Tân, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh
Hóa”. làm đề tài cho bài tiểu luận môn học CTXH với người nghèo, Và vấn đề đặt ra là phải làm cách nào để
tăng cường sự tham gia của người dân vào giảm nghèo, để họ tham gia một cách chủ động và đầy đủ hơn.
Mặc dù có nhiều cố gắng,xong bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót,rất mong sự góp ý của
cô và các bạn đọc để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC TRONG GIẢM NGHÈO
1.1. Những vấn đề chung về nghèo đói và khái niệm về sự tham gia của cộng đồng dân tộc trong
giảm nghèo
1.1.1. Một số khái niệm về người nghèo
Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư vẫn còn thiếu ăn, nhưng không đứt bữa, mặc không đủ ấm,
nhà ở chủ yếu là tranh tre, không có hoặc không đủ các điều kiện để phát triển sản xuất, tăng thu nhập và
đáp ứng các nhu cầu về học tập, chữa bệnh cũng như các nhu cầu xã hội khác.
Khái niệm chuẩn nghèo
Để đo lường nghèo hay xác định được người nghèo, phải đo lường được tất cả các khía cạnh về thu nhập, sự
thiếu hụt hay sự không thỏa mãn tất cả các nhu cầu cơ bản.
Ví dụ, thu nhập bình quân/tháng, nhu cầu tiếp cận thông tin ( điện thoại, tivi, radio), nhu cầu ăn (dinh
dưỡng, lương thực, thực phẩm,…), nhu cầu về mặc (đẹp, ấm,…), nhu cầu về ở (diện tích, chất lượng nhà ở),
…
Chuẩn nghèo quốc gia quy định và áp dụng thống nhất trên phạm vi toàn quốc và dùng để xác định hộ nghèo.
Chuẩn nghèo không cố định mà thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Ở Việt Nam, từ năm 2015 trở về trước, hộ nghèo được xác định là hộ gia đình có mức thu nhập thấp hơn hoặc
bằng chuẩn nghèo.
Từ 2016- 2020, người nghèo, hộ nghèo được xác định dựa trên cả tiêu chí về thu nhập và mức độ tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản. Cụ thể: Chuẩn nghèo theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ
tướng Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 là:
- Thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 500.000 đồng/người/tháng trở xuống.
- Nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống.
Khái niệm hộ nghèo, người nghèo
- Người nghèo: là những người có cuộc sống bấp bênh vì không được tiếp cận với các chính sách, dịch vụ.
Họ thiếu các điều kiện đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của con người về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành và chăm
sóc sức khỏe; tiếp cận với các kết cấu hạ tầng và các nguồn lực xã hội kém; thiếu tự tin và dễ tổn thương; ít có
điều kiện tham gia vào các quyết định của địa phương. Để xác định người nghèo cần căn cứ vào sổ chứng
nhận hộ nghèo. Người nghèo là người có tên trong sổ chứng nhận hộ nghèo/sổ theo dõi quản lý hộ
nghèo.
- Hộ nghèo theo Quyết định số 1614/QĐ-TTg ngày 15/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án
tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn
2016-2020 là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ chuẩn nghèo chính sách trở xuống, hoặc có thu
nhập bình quân đầu người/tháng cao hơn chuẩn nghèo chính sách nhưng thấp hơn chuẩn mức sống tối thiểu về
thiếu hụt từ 1/3 tổng số điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
1.1.2 Khái niệm về sự tham gia của cộng đồng dân tộc trong giảm nghèo
Khái niệm sự tham gia
Sự tham gia có nghĩa là cùng thực hiện một hoạt động nào đó. Hàng ngày con người “tham gia” vào sự
phát triển của địa phương thông qua hoạt động sống của cá nhân và gia đình, các hoạt động sinh kế và trách
nhiệm đối với cộng đồng. Không có một ví dụ đơn lẻ đúng đắn nào về sự tham gia. Tuy nhiên, việc kiểm soát
hoạt động và mức độ sự tham gia luôn là sự gắn kết một cách lâu dài, chủ động và có vai trò ngày càng cao
vào quá trình phát triển. Từ việc xác định vấn đề đến việc lập kế hoạch, thực hiện, giám sát, đánh giá các hoạt
động nhằm nâng cao đời sống cộng đồng vào bảo đảm sự phân chia công bằng lợi ích của sự phát triển.
*Sự tham gia của cộng đồng trong giảm nghèo
Ðịnh nghĩa thuật ngữ “Sự tham gia của cộng đồng” theo Clanrence Shubert là quá trình trong đó các
nhóm dân cư của cộng đồng tác động vào quá trình quy hoạch, thực hiện, quản lý sử dụng hoặc duy trì một
dịch vụ, trang thiết bị hay phạm vi hoạt động. Các hoạt động cá nhân không có tổ chức sẽ không được coi là
sự tham gia của cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng là một quá trình mà Chính phủ và cộng đồng cùng
nhận một số trách nhiệm cụ thể và tiến hành các hoạt động để cung cấp các dịch vụ đô thị cho tất cả cộng
đồng.Sự tham gia của cộng đồng là đảm bảo cho những người chịu ảnh hưởng của dự án được tham gia vào
việc quyết định dự án.Sự tham gia của cộng đồng là tìm và huy động các nguồn lực của cộng đồng, qua đó để
tăng lợi ích cho cộng đồng dân cư giảm các chi phí, tăng hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị cho nhà nước.
Sự tham gia của cộng đồng trong giảm nghèo bao gồm:
• Sự tham gia trong chương trình giảm nghèo: là các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng và các hoạt
động hỗ trợ phát triển của Chính Phủ.
• Sự tham gia trong phát triển kinh tế hộ: trồng trọt, chăn nuôi và các hoạt động đa đạng sinh kế khác(
làm thuê, làm công ăn lương…..)
• Sự tham gia trong tương trợ người nghèo: đổi công, cho công ….
• Sự tham gia trong giữ gìn phong tục tập quán, xóa bỏ hủ tục: tham gia các lễ hội…
1.1.3. Vai trò của sự tham gia của cộng đồng dân tộc trong giảm nghèo.
Qua nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng trong nền kinh tế thị trường, cộng đồng dân tộc
đóng vai trò quan trọng. Cộng đồng dân tộc đã và đang trở thành tác nhân tham gia quản lý xã hội, với các vai
trò nổi bật như cung cấp dịch vụ; điều hoà mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội; tự quản, bảo vệ quyền lợi
của các thành viên và xây dựng lòng tin.
Phát triển KT đóng vai trò nòng cốt cho sự phát triển của toàn xã hội, còn phát triển VHXH lại đóng vai
trò không thể thiếu của đời sống xã hội, nó đảm bảo cho đời sống tinh thần của mỗi thành viên trong xã hội; cả
các hoạt động phát triển KT và các hoạt động phát triển đều. Vì vậy để XĐGN nhanh và bền vững cần phát triển
đồng bộ cả KT và VH- XH. Tuy nhiên phát triển KT- VH- XH như thế nào cho hợp lý thì không chỉ cần một cá
nhân mà nó đòi hỏi sự tham gia của cả cộng đồng.
Trong các hoạt động phát triển KT của các chương trình giảm nghèo, cộng đồng các dân tộc là đối
tượng thụ hưởng, là mục tiêu nhắm tới của các các chương trình giảm nghèo do Nhà nước, địa phương thực
hiện. Khi thực thi thì cộng đồng các dân tộc có vai trò chủ yếu thực hiện và thụ hưởng. Cũng là yếu tố quan
trọng, quyết định trong thực hiện hiệu quả và thành công của các chương trình hay chính sách đó. Nếu không
có sự tham gia của cộng đồng hoặc họ chỉ đóng vai trò thụ hưởng trong chương trình, dự án hay các chính
sách đó thì sẽ thiếu đi mục đích hỗ trợ, lực lượng để thực hiện, và cũng không thể có kết quả cao, hoặc hỗ trợ
có thể sai lệch.
Các hoạt động chương trình, dự án nhằm vào những người nghèo trong cộng đồng các dân tộc, do vậy
cộng đồng các dân tộc vừa đóng vai trò là khách thể vừa đóng vai trò là chủ thể để các hoạt động này “tấn
công” vào đó nhằm tạo điều kiện cho họ đạt được các điều kiện sống về vật chất và tinh thần ở mức tối thiểu.
1.2. TỔNG QUAN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI
1.2.1 Sơ lược về tình trạng nghèo đói ở ViệtNam
Theo thống kê của Bộ LĐ-TBXH, cả nước có hơn 2,31 triệu hộ nghèo (chiếm tỉ lệ 9,79% so với tổng số hộ
dân cư trên toàn quốc) và hơn 1,24 triệu hộ cận nghèo (chiếm tỉ lệ 5,27%) theo chuẩn nghèo đa chiều giai
đoạn 2016 - 2020. Như vậy, việc áp dụng chuẩn nghèo đa chiều đã tăng tỉ lệ hộ nghèo từ dưới 5% năm 2015
lên hơn 9% năm 2016. Đây là kết quả tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2015 trên cơ sở tổng hợp báo
cáo của các địa phương
Theo kết quả điều tra, khu vực miền núi Tây Bắc có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước với 34,52%, tiếp
theo là Tây Nguyên và miền núi Đông Bắc với 20,74%. Đông Nam bộ có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước với
1,23%, tỉ lệ hộ nghèo của Đồng bằng sông Hồng cũng chỉ 4,76%.
Điện Biên (48,14%), Hà Giang (43,65%), Cao Bằng (42,53%)... là những tỉnh có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất cả
nước. Trong khi đó, Bình Dương là địa phương duy nhất không có hộ nghèo và cận nghèo theo chuẩn nghèo
mới. TPHCM cũng có tỉ lệ hộ nghèo (0,02%) và cận nghèo (0,2%) rất thấp. Đây là những địa phương có tỉ lệ
hộ nghèo thấp nhất cả nước.
Trên cơ sở phân tích hệ thống cơ sở dữ liệu hộ nghèo, hộ cận nghèo, đánh giá chi tiết về mức độ thiếu hụt các
dịch vụ xã hội cơ bản ở các địa phương, Bộ LĐ-TBXH sẽ phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu,
xây dựng phương án hỗ trợ cho các đối tượng theo hướng hỗ trợ, tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận
của các hộ gia đình đối với những chiều thiếu hụt.
Một số chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội chung cho đối tượng hộ nghèo trên toàn quốc như các chính
sách hỗ trợ tạo sinh kế, vay vốn tín dụng ưu đãi... vẫn sẽ được duy trì để các hộ gia đình có điều kiện bảo đảm
cuộc sống, nâng cao thu nhập, từ đó có thể tự nâng cao khả năng tiếp cận của hộ gia đình với các dịch vụ xã
hội cơ bản.
1.2.2.Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy sự tham gia của cộng đồng dân tộc
trong giảm nghèo
* Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI: khẳng định, giảm nghèo bền vững là một trọng tâm của Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của
người nghèo, trước hết là khu vực miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở
các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị - nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các
nhóm dân cư
* Pháp lệnh dân chủ cơ sở: Pháp lệnh này quy định những nội dung phải công khai để nhân dân biết; những
nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, khu phố, khối phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai nhiều chương trình quốc gia nhằm hỗ trợ XĐGN và nâng cao
đời sống cho cộng đồng các dân tộc thiểu số như: Chương trình 134, 135, 30a.... Nhưng cho đến nay, các
chương trình vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Nguyên nhân là còn ít có sự tham gia của chính
đồng bào trong việc đưa ra các quyết định và sự giám sát, đánh giá. Tuy nhiên bên cạnh đó phải kể đến những
địa phương thực hiện tốt những chương trình giảm nghèo này nhờ vào sự tham gia của cộng đồng các dân tộc
trong công tác XĐGN nói chung và hoạt động phát triển VHXH nói riêng.
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA của cộng đồng
dân tộc thiểu số trong giảm nghèo trên địa bàn xã Cát Tân
2.1 Khái quá trung về xã Cát Tân
2.1.1 Đặc điểm địa lý, địa hình
* Đặc điểm địa lý
Xã Cát Tân nằm ở phía tây bắc của huyện Như Xuân, cách trung tâm huyện khoảng 7 km về phía
Đông. Có chiều dài dọc theo Yên Cát – Cát Vân từ đầu xã đến cuối xã khoảng 5 km. có vị trí địa lý:
Từ 105º42´30´´ kinh độ phía Tây.
Đến 105º 44´ 42´´ kinh độ phía Đông.
Từ 19º 35´ 44´´ vỹ độ phía Nam
Đến 19º 16´ 37´´ vỹ độ phía Bắc.
Có gianh giới tiếp giáp với các xã như sau: phía Đông giáp xã Yên Lễ; phía Nam giáp xã Hóa Quỳ;
phía Tây giáp xã Cát Vân và phía Bắc giáp xã Thượng Ninh.
Vị trí địa lý của xã tương đối thuận lợi, có các tuyến đường liên xã đi đến các xã khác thuộc huyện và
mạng lưới các tuyến đường liên xã, liên thôn được phân bố khá hợp lý cho việc giao lưu trao đổi hàng hóa
cũng như đi lại của người dân. Với vị trí địa lý và giao thông thuận lợi nên xã Cát Tân có nhiều tiềm năng và
cơ hội để phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội.
* Đặc điểm địa hình
Xã Cát Tân có địa hình tương đối bằng phẳng, có độ cao trung bình tuyệt đối từ 300– 400 m, độ dốc
trung bình từ 15 - 20º. Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông, tạo ra những dải đất cao thấp xen kẽ nhau nhưng
độ chênh lệch không lớn tạo điều kiện thuận lợi cho viêc bố trí các loại cây trồng, vật nuôi, xây dựng cơ bản.
Thời tiết, khí hậu, thủy văn
+ Nhiệt độ: Tổng nhiệt độ hàng năm là 8500ºC - 8600ºC, biên độ nhiệt dao động từ: 12 - 13ºC, biên độ
ngày: 5,5 -6,0ºC. Những tháng có nhiệt độ cao là từ tháng 5 đến tháng 9, bình quân từ 28 – 29 ºC. Ngày có
nhiệt độ cao nhất chưa quá 41ºC. Những tháng có nhiệt độ thấp nhất là từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau.
+ Mưa: Tổng lượng mưa trong năm từ 1600mm – 1800mm, lượng mưa tập trung vào tháng 6 – 10
( chiếm 80% lượng mưa cả năm): tháng 9 có lượng mưa lớn nhất, lượng mưa ít nhất vào tháng 12 đến tháng 1
năm sau.
+ Độ ẩm không khí: Trung bình trong năm từ 80 – 86%, các tháng 2,3,4 có độ ẩm xấp xỉ 90%.
+ Gió: thông thường có 2 hướng gió chính, đó là gió mùa Tây Bắc và Đông Nam. Tốc độ gió trung
bình từ 1,8 – 2,2m/s. Ngoài ra còn có các đợt gió Tây Nam khô nóng và gió bão thường xuất hiện từ tháng 6
đến tháng 9 ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và sức khỏe con người.
+ Thiên tai: chủ yếu là hạn hán, gió bão, rét đậm, rét hại, sương muối gây nhiều thiệt hại cho sản xuất
và đời sống nhân dân.
Tóm lại: Các yếu tố khí hậu, thời tiết nhìn chung thuận lợi cho sinh trưởng, phát triển cây trồng vật nuôi. Đặc
biệt tổng nhiệt độ trong năm lớn, có thể trồng được nhiều loại cây trồng và trồng được nhiều vụ trong năm
nhất là đối với các loại cây hoa màu và các loại cây công nghiệp ngắn ngày.
Tài nguyên rừng, đất rừng
Xã Cát Tân có diện tích đất lâm nghiệp lớn khoảng 1.165,53 ha (chiếm 70,4% diện tích đất tự nhiên),
trong đó có 151,38 ha rừng phòng hộ và 1.114,15ha rừng sản xuất. Về cơ bản diện tích đất lâm nghiệp của xã
có rừng, với các loài cây lâm nghiệp quý như lim, lát hoa, ngoài ra còn có các loại cây keo, tràm, xà cừ, luồng,
nứa.... Trong những năm qua do ổn định được lương thực, đời sống nhân dân được cải thiện nên áp lực tác
động vào nguồn tài nguyên rừng đã giảm đi đáng kể, công tác bảo vệ rừng được quan tâm.
2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội
Xã Cát Tân có diện tích đất tự nhiên là 1.655,11ha, trong đó có hơn 2/3 là diện tích đất đồi núi.
Đất nông nghiệp của xã năm 2012 là 1.503,73 ha chiếm tỷ lệ 90,85% trên tổng diện tích đất tự nhiên.
Trong diện tích đất nông nghiệp, diện tích đất trồng lúa nước chỉ có 288,16 ha chiếm 19,16%, đất trồng cây
hàng năm chỉ có 324,23 ha chiếm 21,56% còn lại là đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng và một phần diện
tích mặt nước nuôi trồng thủy sản.
Đất nông nghiệp của xã năm 2012 là 1.503,73 ha chiếm tỷ lệ 90,85% trên tổng diện tích đất tự nhiên. Trong
diện tích đất nông nghiệp, diện tích đất trồng lúa nước chỉ có 288,16 ha chiếm 19,16%, đất trồng cây hàng
năm chỉ có 324,23 ha chiếm 21,56% còn lại là đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng và một phần diện tích
mặt nước nuôi trồng thủy sản. Năm 2013 có sự biến động nhẹ nhưng không đáng kể. Diện tích đất nông
nghiệp năm 2013 là 1.469,2 ha chiếm 88,76% và đến năm 2014 giảm nhẹ xuống 1447,80 ha chiếm 74,13%.
Diện tích đất phi nông nghiệp năm 2012 là 243,65 ha chiếm 14,72% đến năm 2013 tăng lên 244,20 ha chiếm
14,75%, đất khu dân cư năm 2013 là 112,79 ha chiếm 6,80% tăng 0,02% so với năm 2012. Đến năm 2013 có
những sự thay đổi nhẹ, không đáng kể, tuy nhiên ở năm này thì diện tích cây trồng hàng năm đã có sự thay đổi
khi mà chỉ còn 322,15 ha, tức là chỉ bằng 99,36% so với năm 2012 với diện tích 324,23 ha, đất phi nông
nghiệp và dân cư cũng thay đổi nhẹ theo hai hướng khác nhau. Nếu đất phi nông nghiệp tiếp tục giảm thì đât
dân cư lại tăng. Đó cũng là điều tất yếu trong quá trình phát triển.
2.2 Thực trạng sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số về các hoạt động giảm nghèo trên địa bàn xã
Cát Tân
2.2.1. Thành phần dân tộc, thực trạng nghèo đói tại xã Cát Tân
-Thành phần dân tộc tại xã Cát Tân
Có thể nói, thành phần dân tộc là cấu trúc bên trong cộng đồng, tạo nên cộng đồng dân cư, là yếu tố quyết
định đến sự tham gia của cộng đồng vào các chương trình, dự án giảm nghèo. Ở mỗi cộng đồng có các đặc
điểm về điều kiện kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán, trình độ nhận thức khác nhau dẫn tới sự tham gia của
cộng đồng cũng khác nhau
Theo ket qua thong ke cua so LDTBVXH, hiện nay trên địa bàn xã Cát Tân có 4 dân tộc hiện đang
sinh sống, trong đó dân tộc Thổ chiếm đa số 1395 người (chiếm 48,93%), còn lại là dân tộc kinh 918 người
(chiếm 32,20%), dân tộc Thái 195 người (chiếm 17,36%), dân tộc mường chiếm (1,51%). Có thể nhận thấy
tuy xã Cát tân là một địa bàn tương đối nhỏ, nhưng có thành phần dân tộc đa dạng, dân tộc thiểu số chiếm tỉ
trọng cao. Điều này ảnh hưởng đến thực hiện các chính sách, hay việc phân cấp quản lý hành chính, thực hiện
các chương trình, dự án triển khai, huy động sự tham gia.
Thực trạng nghèo đói tại xã Cát Tân
Xã Cát Tân là một xã nghèo của Huyện Như Xuân, một trong những huyện nghèo của cả nước. Trong
những năm qua xã luôn nhận được sự quan tâm từ phía chính quyền các cấp, nhiều chương trình, dự án đã
được thực hiện góp phần thiết thực vào công tác giảm nghèo.
Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30-01-2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
mức chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011 – 2015 , thì những hộ gia đình ở nông thôn có mức thu nhập bình quân
từ 400.000 đồng/người/tháng (4,80 triệu đồng/người/năm) trở xuống thì được coi là hộ nghèo. Ở khu vực
thành thị, những hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (6,00 triệu đồng/người/năm) trở
xuống thì được coi là hộ nghèo. Theo tiêu chí này, năm 2012 ở xã Cát Tân có tổng số hộ nghèo là 262 hộ, chiếm
khoảng 43.61% đây là một tỉ lệ khá cao, đòi hỏi chính quyền các cấp, người dân phải tích cực, chủ động giảm tỉ lệ
hộ nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Đến năm 2013 tỉ lệ hộ nghèo của xã giảm xuống 38,16% tương đương
với 5,45%, đến năm 2014 tỉ lệ hộ nghèo còn lại 32,93%, tương đương giảm 5,23%. Đây là một con số đáng
mừng khi mà trong 3 năm trở lại đây tỉ lệ hộ nghèo trong xã đều giảm khoảng 5%, cận nghèo mỗi năm giảm
khoảng 3%, Có được điều này là nhờ sự nỗ lực, vào cuộc của các cấp chính quyền địa phương, sự tham gia của
người dân, các chương trình dự án như; CT134, CT135, CT30a, CT xây dựng nông thôn mới…đã dần đi vào hiệu
quả.
Tuy nhiên tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn còn ở mức cao, hộ nghèo là 32,93%, cận nghèo là 27,21%
năm 2014, đây là một con số đáng lo ngại khi mà nhiều chương trình, dự án đã triển khai được một thời gian dài, tỉ
lệ hộ nghèo, cận nghèo, giảm hàng năm còn thấp, tỉ lệ tái nghèo còn ở mức cao mỗi năm trên 10% . Vì vậy cần đẩy
mạnh hơn nữa việc thực hiện các chương trình giảm nghèo, huy động sự tham gia của chính quyền địa phương, sự
tham gia của người dân, để công tác giảm nghèo diễn ra nhanh và bền vững.
Điều đáng nói ở đây là tính riêng trong năm 2014 thì trong tổng số 219 hộ nghèo trên toàn xã thì đã có
tới 116 hộ thuộc dân tộc Thổ và 52 hộ là dân tộc Thái (tức là hơn 76% tổng số hộ nghèo toàn xã), một con số
rất lớn. Chính vì vậy mà đề tài tập trung vào cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Cát Tân đối tượng tác động
nhiều nhất đến công tác giảm nghèo.
2.2.2 Thực trạng sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số trong giảm nghèo tại xã Cát Tân
-Các hoạt động của địa phương và nhà nước triển khai trong chương trình giảm nghèo
Trong hoạt động giảm nghèo tại xã Cát Tân, những năm vừa qua nhà nước đã và đang đầu tư, thực
hiện nhiều chính sách bao gồm: Chương trình 30a giảm nghèo nhanh và bên vững đối với 62 huyện nghèo;
chương trình 134 về hỗ trợ đất sản xuất, đất ở và nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số và gia đình
khó khăn; chương trình 167 về hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở; chương trình xây dựng nông thôn mới và một số
chương trình, dự án của các tổ chức khác. Các chương trình này bao gồm 2 hoạt động chính là xây dựng cơ sở
hạ tầng và các hoạt động hỗ trợ người nghèo.
+ Các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm: xây dựng trụ sở ủy ban nhân dân xã, đường, thủy
lợi, trạm điện…
+ Hoạt động hỗ trợ phát triển gồm: Miễn giảm học phí và hỗ trợ giáo dục, BHYT, nước SH, nhà ở, hỗ
trợ vốn, hỗ trợ đầu vào, tập huấn khuyến nông.Những hoạt động trên đây đã và đang thực hiện và đạt được kết
quả đáng ghi nhận, góp phần vào việc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống nhân dân trên
địa bàn xã, các hoạt động này phần nào giải quyết được nguyên nhân cơ bản của đói nghèo,huy động được
phần lớn nhân dân tham gia và đạt kết quả tích cực.
-Sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số trong hoạt động xây dựng CSHT
Xây dựng CSHT là cách hỗ trợ cơ bản nhất giúp địa phương phát triển sản xuất, kinh doanh và lưu
thông hàng hóa, nâng cao đời sống, nhu cầu sinh hoạt đi lại và giao lưu kinh tế của người dân, nhất là người
dân tộc thiểu số ít có điều kiện tiếp xúc với nhiều nguồn tin và sự phát triển bên ngoài. Chương trình hỗ trợ
xây dựng CSHT được Nhà nước hỗ trợ trong các CTMTQG được triển khai trên địa bàn xã Cát Tân bao gồm:
CT135, NQ30a, XD nông thôn mới. Sự tham gia của người dân vào các công trình này bao gồm ở các khâu:
biêt, xác định nhu cầu ưu tiên, lập kế hoạch, triển khai thực hiện, giám sát đánh giá hưởng lợi và quản lý.
Tuy nhiên ở một số khâu do không được yêu cầu tham gia nên trong phạm vi bài của mình tôi chỉ làm
rõ sự tham gia của người dân trong 4 khâu.
Theo so lieu thong ke nam2015,trong giai đoạn 2013-2014 tại địa bàn xã Cát Tân đã xây dựng 2 công
trình chủ yếu là đường nông thôn mới và trụ sở ủy ban nhân dân xã, do được phổ biến tuyên truyền tốt, các
công trình phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của người dân nên nhiều khâu tham gia với tỉ lệ tối đa 100% đây là
một con số đáng mừng, thể hiện sự đúng đắn của cán bộ trong việc xác định nhu cầu của người dân, huy động
sự tham gia của người dân, qua đó người dân cũng tham gia đầy đủ,tích cực. Cụ thể: ở cả 2 công trình là xây
dựng đường nông thôn mới và xây dựng trụ sở ủy ban nhân dân xã, mức độ tham gia trong các khâu biết, đóng
góp, và hưởng lợi ở cả 2 dân tộc Thổ và Thái đều có sự tham gia tối đa 100%, tuy nhiên thì ở khâu quản lý thì
thấp hơn, sự tham gia của người dân tộc Thổ vào quản lý đường nông thôn mới và trụ sở UBND xã chỉ đạt
25% và 0%, ở dân tộc Thái đạt 67% và 0%, qua đó đưa tỉ lệ chung tham gia biết,đóng góp, hưởng lợi đạt
100%, và 45% người dân tham gia quản ý đường nông thôn mới. Qua đó thấy rằng sự tham gia quản lý chưa
thực sự cao là do tâm lý người dân chưa thật sự quan tâm tới việc giữ gì những tài sản công, họ xem những
công trình công không phải của họ, trong khi đây là một khâu hết sức quan trọng, chỉ có sự chung tay tham gia
quản lý của người dân thì những công trình mới có tính bền vững, sự đầu tư của nhà nước mới mang lại hiệu
quả. Ta dễ nhận thấy có sự khác nhau về tỉ lệ tham gia của 2 dân tộc Thổ và Thái ở khâu quản lý trong công
trình đường nông thôn mới. Cụ thể: Tỉ lệ tham gia của dân tộc Thổ ở khâu này là 83% trong khi của dân tộc
Thái thấp hơn đạt 67%, sự khác nhau như vậy là do cộng đồng dân tộc Thổ có nhận thức cao hơn dân tộc Thái
trong việc giữ gìn tài sản công, trong khi chính quyền ở thôn cũng có các biện pháp quản lý, tuyên truyền sâu
rộng hơn. Điều đáng chú ý là trong khâu quản lý ở công trình trụ sở ủy ban nhân dân xã thì cả 2 dân tộc Thổ và
Thái đều không tham gia quản lý, điều này sẽ phải đáng để chính quyền địa phương lưu tâm hơn trong việc
phổ biến tuyên truyền để người dân tham gia, góp phần bảo vệ, giữ gìn công trình.
Về mức độ đóng góp của hộ, tại địa bàn xã từ năm 2012-2014 trên địa bàn xã tập trung nguồn lực xây
dựng cơ sở hạ tầng như trụ sở UBND xã, đường nông thông mới, trạm điện, tuy nhiên một số công trình được
xây dựng hoàn toàn bằng vốn từ nhà nước nên người dân không phải đóng góp, người dân chỉ đóng góp ở 2
công trình là trụ sở UBND xã, và đường nông thôn mới và chủ yếu đóng góp bằng tiền. Cụ thể: đối với dân tộc
Thái chủ yếu tập trung ở thôn Cát Thịnh, mỗi hộ dân đóng góp vào công trình đường nông thôn mới bắt buộc
là 250 nghìn đồng/ lao động , trụ sở UBND xã là 480 nghìn đồng / hộ, trong khi với dân tộc Thổ chủ yếu tập
trung trên địa bàn thôn Cát Lợi, mức đóng góp tương ứng là 250 nghìn đồng trên khẩu, và 480 nghìn đồng/ hộ.
Căn cứ vào thu nhập của người dân, mức độ cấp thiết, lợi ích của các công trình xây dựng tại địa bàn, qua khảo
sát ý kiến của người dân về mức độ đóng góp vào các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn. Điều này mang
đến những đánh giá khác nhau về mức độ tham gia đóng góp xây dựng công trình,
Qua bảng có thể thấy ý kiến của người dân về mức độ đóng góp xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
trên địa bàn phổ biến ở mức trung bình và cao, điều này cho thấy người dân còn găp nhiều khó khăn về kinh
tế, thu nhập người dân chủ yếu là làm nông nghiệp, họ chưa có nhiều điều kiện để tham gia nhiều vào các
công trình hạ tầng. Cụ thể: đối với dân tộc Thổ, có 63% số hộ được hỏi đánh giá mức đóng góp là trung bình,
trong khi chỉ có 13% số người dân được hỏi đánh giá ở mức cao, từ đó đưa đến đánh giá chung chủ yếu ở mức
trung bình là 48,33%, điều này cho thấy mức đóng góp 250 nghìn đồng/ hộ ở thôn Cát Lợi là hợp lý, phù hợp
với nguyện vọng của người dân. Đối với dân tộc Thái chủ yếu tập ở thôn Cát Thịnh, có tới 40% số hộ được
hỏi trả lời đóng góp ở mức cao so với điều kiện kinh tế gia đình, chỉ có 33% số hộ trả lời ở mức trung bình và
27% trả lời là ở mức thấp. Điều này cho thấy việc thôn yêu cầu đóng góp mức 250 nghìn đồng /lao động là
chưa thực sự hợp lý, người dân đang còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập hàng năm còn thấp, nhiều hộ nhất là
hộ nghèo chưa có điều kiện để đóng góp ở mức này. Việc này đòi hỏi chính quyền địa phương phải linh hoạt
hơn trong việc huy động sự tham gia đóng góp của người dân, ngoài ra việc chỉ đóng góp bằng tiền thay vì
huy động đóng góp bằng nhiều hình thức như bằng vật chất và lao động… cũng đem lại nhiều khó khăn cho
người dân, hơn nữa nên chia nhỏ các khoản đóng góp ra nhiều phần nhỏ, thu quanh năm, như vậy người dân
sẽ bớt khó khăn hơn thay vì tập trung vào một đợt.
Sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số vào các hoạt động hỗ trợ phát triển
Trên địa bàn xã Cát Tân hiện nay đang thực hiện các chính sách hỗ trợ như : miễn giảm học phí,
BHYT, nước SH, hỗ trợ về nhà ở, hỗ trợ đầu vào, cho vay vốn và tập huấn khuyến nông cho người dân,…sự
tham gia của cộng đồng các dân tộc là đảm bảo và mang ý nghĩa quyết định cho việc thành công của các chính
sách, góp phần vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo của đảng và nhà nước. Sự tham gia của các hộ vào từng khâu
của các chương trình hỗ trợ
Trong năm qua hoạt động kinh tế, tạo thu nhập của hộ chủ yếu của cả 2 dân tộc Thổ và Thái chủ yếu là hoạt
động trồng trọt và chăn nuôi, với 100% hoạt động trồng trọt cả 2 dân tộc này đều tham gia và 83.3% hoạt
động chăn nuôi ở dân tộc Thổ và 93.3% ở dân tộc Thái, mang lại giá trị cao, những loại cây trồng đang được
trồng tại địa phương như sắn, keo, lúa….trong khi những loại vật nuôi chủ yếu của địa phương là chăn nuôi
gà, lợn, trâu, bò, nuôi cá…. Thu nhập bình quân trên hộ ở dân tộc Thổ và Thái ở lĩnh vực trồng trọt lần lượt là
28,5 và 25,5 triệu đồng trên hộ, trong khi chăn nuôi tương ứng là 17,5 và 9,6 triệu đồng trên hộ, từ đó đưa đến
sự tham gia các hoạt động phát triển kinh tế tính chung cho cả 2 dân tộc ở mức cao, thu nhập khá cao như vậy
do người dân đã biết cách tận dụng đất, mở rộng diện tích sản xuất để tạo ra thu nhập. Ngoài những lĩnh vực
chính là trồng trọt và chăn nuôi thì người dân cũng tạo thêm thu nhập bằng các nghề khác như; kinh doanh
buôn bán, hay đi làm thuê, và chỉ số ít những hộ là công chức nhà nước.
Ở các ngành như trồng trọt, hay đi làm thuê, thu nhập trung bình mỗi hộ giữa 2 dân tộc Thổ và Thái không
khác nhau nhiều nhưng ở lĩnh vực chăn nuôi, kinh doanh buôn bán ta thấy dân tộc Thổ có mức thu nhập cao
hơn điều này là do dân tộc Thổ ở gần trung tâm xã, do gần thị trường tiêu thụ, nên thuận lợi cho phát triển
chăn nuôi, kinh doanh buôn bán
Do một số khâu như: lập kế hoạch, xác định nhu cầu…người dân không tham gia hoặc tham gia rất ít nên tôi
chỉ đề cập đến 4 khâu là: biết, triển khai thực hiện, hưởng lợi và quản lý. Qua bảng 4.5 cho thấy hầu hết các
chương trình dự án, số hộ trong xã đều biết, ở khâu này sự tham gia chiếm tỉ trọng cao, gần 100%. Điều đó thể
hiện sự tuyên truyền, phổ biến của cán bộ đến người dân rất tốt, người dân cũng quan tâm những chương trình
hỗ trợ đến với họ, việc này sẽ đảm bảo cho việc triển khai các khâu khác của chương trình, dự án được tốt
hơn. Tuy nhiên mức độ tham gia ở các khâu và giữa cộng đồng các dân tộc là khác nhau: cụ thể; Trong
chương trình bảo hiểm y tế, có tới 100% người ở cả 2 dân tộc là Thổ và Thái là biết và hưởng lợi. Đây là một
con số không quá bất ngờ khi xã Cát Tân là một xã nghèo thuộc chương trình 30a, 100% đều được cấp bảo
hiểm y tế miễn phí, đây là một chủ trương đúng đắn của đảng, nhà nước vì nếu không có bảo hiểm y tế thì
người dân sẽ hết sức khó khăn, khi chi phí khám chữa bệnh ngày càng tăng cao như hiện nay . Trong khâu
miễn giảm học phí, hiện nay giáo dục đào tạo là một trong những ưu tiên của đảng và nhà nước trong chương
trình giảm nghèo, để khuyến khích động viên con em đến trường, nhà nước đã miễn giảm học phí cho tất cả
các đối tượng nghèo, cận nghèo trên địa bàn xã ở cả 3 cấp 1,2 và 3, ngoài ra còn hỗ trợ mỗi con em 5 triệu
đồng/ năm, hỗ trợ 60kg gạo/1 học sinh, khi đi học. Tuy nhiên đây là một chủ trương theo ý kiến cá nhân tôi thì
chưa thực sự đúng đắn, nó không khuyến khích người các em nỗ lực hơn trong học tập, nhiều con em chỉ đi
học để được hỗ trợ, thay vì hỗ trợ trực tiếp, để khuyến khích con em đi học, nên hỗ trợ bằng cách mua trang
thiết bị học tập, phương tiện đi lại cho các em, tập trung hỗ trợ các em học giỏi để khuyến khích các em phấn
đấu hơn. Ngoài ra nên tập trung hỗ trợ các em có hoàn cảnh khó khăn để các em có điều kiện đến trường.
Ở các chương trình như hỗ trợ tập huấn, hỗ trợ đầu vào và hỗ trợ vốn tỉ lệ hộ hưởng lợi và triển khai thực hiện tương
đối cao và không khác nhau nhiều giữa các dân tộc, có gần 90% số hộ được hỗ trợ vốn, gần 50% hộ được hỗ trợ đầu
vào như: hỗ trợ giống vật nuôi (lợn, trâu, bò…), giống cây trồng ( lúa, keo, cao su….), có hơn 50% số hộ được hưởng
lợi từ các chương trình tập huấn của khuyến nông, chủ yếu là chương trình tập huấn của khuyến nông xã, đã mang lại
hiệu quả tích cực, góp phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo cho địa phương.
Ở một khía cạnh khác, sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số còn được thể hiện qua loại hộ theo thu nhập. Qua
đó có thể thấy hầu hết những chính sách hỗ trợ phát triển thì người dân đều biết, tỉ lệ rất cao, gần như là 100% trong
đó những hộ nghèo, cận nghèo, những nhóm hộ khác không có sự chênh lệnh nhiều, đây là hợp lý, khi mà những
chính sách XĐGN luôn được cán bộ triển khai thông qua các cuộc họp, hơn nữa người dân cũng biết được thông qua
nhiều kênh khác nhau, như qua loa phát thanh, hay qua những luồng thông tin trong cộng đồng. Ở trong khâu triển
khai kế hoạch, hay hưởng lợi do những hộ cận nghèo, hộ nghèo là những đối tượng thụ hưởng, vì vậy ở hầu hết các
khâu, những hộ này đều tham gia nhiều hơn, đặc biệt có một số khâu ở một số chương trình như hỗ trợ vốn, miễn
giảm học phí, tất cả mọi người dân đều hưởng lợi, còn trong chương trình tập huấn khuyến nông, có thể nói là một
chương trình nhằm giúp người dân tiếp cận với những kỹ thuật sản xuất mới, từ đó nâng cao nhận thức, kỹ năng của
người dân, từ đó nâng cao sức sản xuất, chất lượng của các giống vật nuôi, cây trồng, giúp xóa đói giảm nghèo thì tỉ
lệ này ở hộ nghèo và cận nghèo chỉ là 50%, trong khi những hộ khác có sự tham gia cao hơn, khi mà có 85% số hộ
tham gia tập huấn. Điều này cho thấy cần phải nâng cao hơn nữa sự tham gia của người dân không chỉ những nhóm
người hưởng lợi, mà còn huy động sự tham gia ở tất cả các nhóm hộ dân, trong khi phải đẩy mạnh tuyên truyền huy
động sự tham gia của những hộ nghèo, hộ cần nghèo, nhất là tham gia tập huấn, để công tác giảm nghèo được diễn ra
nhanh và bền vững.
Sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số trong hoạt động phát triển kinh tế hộ
Để đánh giá mức độ tham gia của người dân trong giảm nghèo, thì ta phải quan tâm đến sự tham gia trong
nhiều lĩnh vực, một trong những lĩnh vực quan trọng và có ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng là hoạt
động phát triển kinh tế của hộ, bao gồm các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, các hoạt động phát triển kinh tế
khác.
ta có thể thấy trong năm qua hoạt động kinh tế, tạo thu nhập của hộ chủ yếu của cả 2 dân tộc Thổ và Thái chủ
yếu là hoạt động trồng trọt và chăn nuôi, với 100% hoạt động trồng trọt cả 2 dân tộc này đều tham gia và
83.3% hoạt động chăn nuôi ở dân tộc Thổ và 93.3% ở dân tộc Thái, mang lại giá trị cao, những loại cây trồng
đang được trồng tại địa phương như sắn, keo, lúa….trong khi những loại vật nuôi chủ yếu của địa phương là
chăn nuôi gà, lợn, trâu, bò, nuôi cá…. Thu nhập bình quân trên hộ ở dân tộc Thổ và Thái ở lĩnh vực trồng trọt
lần lượt là 28,5 và 25,5 triệu đồng trên hộ, trong khi chăn nuôi tương ứng là 17,5 và 9,6 triệu đồng trên hộ, từ
đó đưa đến sự tham gia các hoạt động phát triển kinh tế tính chung cho cả 2 dân tộc ở mức cao, thu nhập khá
cao như vậy do người dân đã biết cách tận dụng đất, mở rộng diện tích sản xuất để tạo ra thu nhập. Ngoài
những lĩnh vực chính là trồng trọt và chăn nuôi thì người dân cũng tạo thêm thu nhập bằng các nghề khác như;
kinh doanh buôn bán, hay đi làm thuê, và chỉ số ít những hộ là công chức nhà nước.
Ở các ngành như trồng trọt, hay đi làm thuê, thu nhập trung bình mỗi hộ giữa 2 dân tộc Thổ và Thái không
khác nhau nhiều nhưng ở lĩnh vực chăn nuôi, kinh doanh buôn bán ta thấy dân tộc Thổ có mức thu nhập cao
hơn điều này là do dân tộc Thổ ở gần trung tâm xã, do gần thị trường tiêu thụ, nên thuận lợi cho phát triển
chăn nuôi, kinh doanh buôn bán.
Sự tham gia của cộng đồng dân tộc Thiểu số trong tương trợ cộng đồng
Đây là những hoạt động do cộng đồng tổ chức nhằm giúp đỡ nhau, mang ý nghĩa “tương thân tương ái, lá lành
đùm lá rách”. Những hoạt động đó không chỉ giúp đỡ người nghèo vượt qua khó khăn, mà nó còn trở thành
nét đẹp văn hóa trong cộng đồng và là những việc làm đáng được khích lệ, biểu dương. Qua khảo sát thực tế
cho thấy các hoạt động đó trong cộng đồng dân tộc Thổ và Thái tại xã Cát Tân bao gồm: hoạt động hỗ trợ khi
thiếu đói, hỗ trợ vốn, đổi công/cho công,…
Qua điều tra thực tế cho thấy trong tổng số 30 hộ được hỏi ở dân tộc Thổ và 30 hộ được hỏi ở dân tộc Thái thì
có 76,7 số dân tộc Thổ và 93,3% số hộ dân tộc Thái là có trao đổi, đổi công, tỉ lệ chung là 85%, đây là một
con số khá cao thể hiện sự chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cộng đồng khi tham gia lao động sản xuất. Những công
việc trao đổi công như; đổi công trồng sắn, trồng keo, gieo cấy… đã trở thành một phong trào trong cộng
đồng, góp phần tạo nên tính gắn kết cao, làm phong phú thêm đời sống tinh thần nhân dân. Ngoài ra tỉ lệ đổi
công cao như vậy là do vào những mùa vụ, họ phải tập trung giúp đỡ lẫn nhau vừa tăng tình đoàn kết, vừa có
thể trao đổi kinh nghiệm canh tác cũng như giảm chi phí thuê nhân công.
Hoạt động hỗ trợ vốn cho nhà khác, chủ yếu là anh em, hàng xóm, láng giềng cũng chiếm một tỉ lệ khá cao
trong cộng đồng, khi mà đời sống linh tế của cộng đồng còn nhiều khó khăn, nhưng vẫn thể hiện tấm lòng
tương thân tương ái trong cộng đồng, các hoạt động hỗ trợ vốn bao gồm 2 hình thức là cho mượn và cho vay,
ở đây cộng đồng chủ yếu là cho vay với lãi suất thấp. Qua điều tra cho thấy có tới 50% dân tộc Thổ và 56,7%
dân tộc Thái, mức chung là 53,33% có hỗ trợ vốn cho cộng đồng, chủ yếu là vay với lãi suất 0.3%/tháng, và
thời hạn không cố định, nhưng nhiều gia đình quen biết, hay gặp khó khăn đột xuất, như tiền đi đám cưới, ốm
đau thì cộng đồng sẵn sàng cho vay không lãi, đây là một hoạt động tương thiết thực giúp cộng đồng giải
quyết khó khăn khi gặp phải trong cuộc sống.
Ngoài hoạt động hỗ trợ vốn thì hoạt động hỗ trợ lương thực cũng diễn ra phổ biến, hỗ trợ lương thực ở đây là
cho và cho vay, nhưng chủ yếu là cho vay, khi một hộ thiếu đói thì sẽ đi vay lương thực từ các hộ khác, đến
mùa thì sẽ trả lại. Qua điều tra cho thấy, hiện nay những hộ bị thiếu đói chủ yếu là những hộ nghèo, những hộ
ít đất sản xuất, đông người ăn theo và những hộ bị rủi ro trong sản xuất, tuy nhiên số hộ đói chỉ chiếm 13%
trong cộng đồng dân tộc Thổ và 20% trong cộng đồng dân tộc Thái, số tháng thiếu ăn cũng không kéo dài, chỉ
từ 2 – 3 tháng trong năm. Tuy nhiên do đời sống kinh tế của cộng đồng ở đây chưa cao, họ chưa có nhiều điều
kiện để giúp đỡ cộng đồng nên tỉ lệ hỗ trợ vốn, hỗ trợ lương thực trong cộng đồng còn khá thấp.
2.2.3 Những thuận lợi, khó khăn trong việc huy động sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số trong giảm
nghèo tại xã Cát Tân
2.2.3.1Những thuận lợi trong việc huy động sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiếu số trên địa bàn
Cơ chế chính sách của của đảng, nhà nước: xã Cát Tân hiện nay là một trong những xã được quan tâm cao
nhất của Đảng, Nhà nước và của huyện Như Xuân. Hiện nay có nhiều chương trình dự án trong CTMTQG về
giảm nghèo đã và đang triển khai như: chương trình hỗ trợ miễn giảm học phí, chương trình hỗ trợ vốn sản xuất,
nước sạch, nhà ở…những chương trình này đã mang lại những kết quả tích cực và góp phần lớn vào công tác xóa
đói giảm nghèo, bên cạnh đó địa phương được quan tâm cao nhất về phân bổ cán bộ, đào tạo cán bộ, cũng như
nâng cao năng lực, khả năng tuyên truyền vận động để thúc đẩy sự tham gia hơn nữa của cộng đồng dân tộc thiểu
số tại địa bàn.
Phong tục truyền thống, văn hóa, lối sống cộng đồng: trên địa bàn xã Cát Tân chủ yếu là cộng đồng dân tộc
Thái, Thổ…vẫn còn lưu giữ được những phong tục truyền thống, quan hệ hàng xóm láng giềng thân thiết vẫn được duy
trì, tính tương trợ cộng đồng, giúp đỡ nhau vẫn được lưu giữ. Vì vậy góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyên
truyền phổ biến các chính sách của Đảng, Nhà nước đến công đồng, cũng như huy động được đông đảo người dân tham
gia.
Ý thức tham gia cộng đồng: do đặc điểm cộng đồng dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa thấp và có điều kiện
kinh tế khó khăn, họ luôn coi cán bộ là người hướng dẫn, có thể giúp họ thoát nghèo, hỗ trợ họ khi gặp khó khăn.
Cũng chính vì vậy, cán bộ nói gì họ đều lắng nghe, làm theo những gì mà cán bộ hướng dẫn. Đây là một thuận lợi
không nhỏ trong việc triển khai, thực hiện các chương trình dự án hỗ trợ giảm nghèo.
2.2.3.2 Những khó khăn trong việc huy động sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiếu số trên địa bàn
Điều kiện kinh tế của cộng đồng còn khó khăn: Hiện nay trên địa bàn xã Cát Tân chủ yếu là hộ nghèo, cận
nghèo, thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp, đời sống khó khăn. Họ chỉ có thể duy trì cuộc sống hằng ngày, chưa có
những khoản tiền dư để có thể đóng góp vào các chương trình, dự án giảm nghèo, vì vậy có tình trạng nhà nước hỗ
trợ giống đến 50% nhưng cũng không có tiền đóng góp để nhận, nhiều khoản tiền đóng góp chủ yếu là vay mượn.
Chính vì vậy việc huy động sự tham gia của người dân vào các chương trình, dự án là rất khó khăn.
Trình độ văn hóa, dân trí của cộng đồng thấp: hiện nay trên địa bàn xã Cát Tân chủ yếu là những người biết
đọc biết viết, số người trình độ đại học, cao đẳng trên địa bàn còn thấp, ngoài ra do địa bàn ở cách xa trung tâm huyện
nên việc tiếp thu với nguồn thông tin hạn chế vì vậy việc nhận thức của người dân về các vấn đề xã hội, nắm bắt các kỹ
thuật sản xuất còn hạn chế, thậm chí ỉ lại vào sự tuyên truyền phổ biến của cán bộ. Chính vì vậy gây khó khăn cho việc
huy động sự tham gia của người dân, cũng như cản trở sự vươn lên thoát nghèo của họ.
Năng lực cán bộ còn hạn chế: hiện nay năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN trên địa bàn còn hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, số lượng thiếu, chất lượng thấp., lại kiêm nhiệm nhiều việc, trình độ chuyên
môn thấp, khả năng tiếp cận với cái mới, tính nhạy bén chưa cao, thiếu sự sáng tạo, đổi mới. Chính vì vậy gây khó
khăn cho việc tuyên truyền phổ biến, truyền tải thông tin, chưa tạo được nhiều lòng tin trong nhân dân. vì vậy gây
cản trở cho việc tham gia của người dân trên địa bàn.
2.2.4.Đánh giá sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số trong giảm nghèo tại xã Cát Tân
2.2.4.1Đánh giá sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Cát Tân
Qua những số liệu, những phân tích ở các phần trên cho thấy, hiện nay trên địa bàn xã Cát Tân, cộng đồng dân
tộc thiểu số nơi đây chủ yếu tham gia một cách bị động, họ chỉ tham gia khi được yêu cầu, hay những chương
trình dự án liên quan trực tiếp đến họ. Điều này cho thấy ý thức cộng đồng chưa cao, họ chưa tự giác tham
gia, thâm chí khi tham gia còn sợ sẽ tốn tiền bạc, thời gian. Nguyên nhân là do cộng đồng dân tộc nơi đây còn
nhiều khó khăn về thu nhập, hơn nữa ý thức cộng đồng chưa cao, họ cho rằng những việc như lập kế hoạch,
quản lý…là việc của cán bộ, người dân chỉ thực hiện những hoạt động đó, ngoài ra cán bộ cũng chưa thực sự
vận động, tuyên truyền, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia cũng là một nguyên nhân khiến người
dân tham gia hạn chế. Bằng phương pháp chấm điểm mức độ tham gia là: 0 – không tham gia, 1 – tham gia
nhưng bị động, 2 – tham gia chủ động, tôi cho rằng mức độ tham gia của cả 2 dân tộc Thổ và Thái là mức 1.
2.2.4.2Đánh giá của cán bộ địa phương về sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn xã Cát Tân
Qua khảo sát về ý kiến cán bộ xã, hiện nay trong các chương trình dự án, việc huy động sự tham gia của cộng
đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn rất khó khăn, nhất là việc huy động đóng góp vào các chương trình, dự án,
hay công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn, người dân thường rất chậm trễ trong việc đóng góp,
thường thì cán bộ phải thường xuyên đến tận hộ gia đình, để vận động người dân đóng góp. Trong chương
trình hỗ trợ phân bón cho người dân, mặc dù chương trình đã hỗ trợ 25% giá trị phân bón, và cho vay đến cuối
vụ, tuy nhiên người dân không chịu nhận, vì tâm lý sợ không có tiền trả và thói quen gieo cấy lạc hậu, được
hay mất là do trời, hay trong dự án trồng cây cao su đầu năm 2013, mặc dù hỗ trợ 50%, tiền giống, phân bón,
tuy nhiên đến nay hầu hết người dân chưa đóng góp đầy đủ. Trong các cuộc họp do thôn, xã tổ chức, người
dân chỉ tham gia mang tính hình thức, bị động, không hay đưa ra ý kiến, tỉ lệ vắng mặt trong các cuộc họp rất
lớn, họ chỉ tham gia khi các chương trình, dự án biết trước mình là đối tượng thụ hưởng.
2.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu sốtrong giảm
nghèo
2.2.1 Các giải pháp nhằm phát huy vai trò của cộng đồng dân tộc thiểu số tham gia vào các hoạt động
giảm nghèo tại xã Cát Tân
-Nâng cao năng lực, ý thức của các thành viên cộng đồng
Một trong những nguyên nhân người dân không tham gia hay tham gia không tích cực trong các hoạt động
giảm nghèo là do trình độ nhận thức của họ thấp, nên họ không hiểu về những chính sách giảm nghèo, không
biết cách tham gia. Vì vậy cấp ủy, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội từ trung ương
đến địa phương cần quán triệt, tuyên truyền để cán bộ, nhân dân hiểu rõ vai trò, vị trí, tiềm năng to lớn địa bàn
dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, để từ đó nhận thức đầy đủ các
quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và chủ động thực hiện hiệu quả
Cần nâng cao trình độ dân trí cho cộng đồng, thông qua các lớp đào tạo tập huấn kiến thức giúp người dân
tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật, chủ động áp dụng vào sản xuất. Tạo điều kiện cho cộng đồng nắm rõ
và dễ dàng tiếp cận với những điều kiện sản xuất mới, phương thức sản xuất mới giúp người dân chủ động
linh hoạt hơn trong sản xuất nhằm nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống.
Cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân tộc
Có thể nói một trong những nguyên nhân khiến cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Cát Tân chưa thực sự tham
gia vào công cuộc giảm nghèo là do điều kiện kinh tế còn khó khăn. Họ chưa có đủ nguồn lực để tham gia,
đặc biệt là tham gia đóng góp vào xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng. vì vậy cần:
Thực hiện tốt các chương trình dự án giảm nghèo đang triển khai tại địa bàn đồng thời tăng cường
nguồn ngân sách đầu tư cho phát triển kinh tế.
Có các biện pháp giải quyết, hỗ trợ cộng đồng giải quyết việc làm như; đào tạo nghề, xuất khẩu lao
động…
Nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông, đưa những giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện
địa phương để nâng cao hiệu quả sản xuất, ngoài ra còn nâng cao công tác dự báo thị trường, thời tiết, khí hậu,
đất đai…kịp thời và hiệu quả.
Các giải pháp khác
Xóa bỏ các tệ nạn xã hội như; cờ bạc, trộm cắp, uống rượu bê tha, những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu
như cúng bái, ma chay…nhằm giúp người dân yên tâm sản xuất, tập trung nguồn lực vào các hoạt động phát
triển kinh tế.
2.2.2 Những giải pháp về cơ chế chính sách nhằm huy động sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số
trong các hoạt động giảm nghèo
Cải thiện chính sách
Cộng đồng chỉ có thể tham gia một cách tích cực vào các hoạt động giảm nghèo khi được tạo điều kiện thuận
lợi. Đặc biệt là điều kiện về chính sách. Vì vậy đổi mới việc xây dựng và thực hiện chính sách là hết sức cần
thiết. Các cấp chính quyền địa phương cần khẩn trương rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh chính sách đã
ban hành để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc thiểu số và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai
đoạn mới. Trong quá trình thực hiện, công khai các chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư để nhân dân
vùng dân tộc thiểu số biết, tham gia quản lý, giám sát, góp ý; tăng cường kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn
thành các mục tiêu của chính sách đã ban hành, để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, xây dựng chính sách cho phù
hợp. Ngoài ra cần:
- Xác định nhu cầu thực sự của dân trước khi ban hành một chương trình, một chính sách cụ thể
- Tổ chức hợp lý đội ngũ cán bộ triển khai chính sách
- Tăng cường, giám sát chặt chẽ tất cả các khâu trong các hoạt động, đặc biệt quản lý chặt chẽ mục đích sử
dụng nguồn hỗ trợ của người dân
- Đơn giản hóa thủ tục, hình thức đóng góp, phân bổ thời gian đóng góp cho hợp lý để góp phần nâng cao sự
tham gia của người dân
Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ địa phương
Qua thực tế ta thấy được rằng các hoạt động giảm nghèo được triển khai tốt hay không sự tham gia của cộng
đồng trong các hoạt động như thế nào phụ thuộc rất lớn vào năng lực quản lý của cán bộ địa phương. Vậy đội
ngũ cán bộ cơ sở cần được:
- Tăng cường đạo tạo tập huấn nhằm nâng cao trình đô chuyên môn, kỹ năng quản lý, điều hành, giám sát các
hoạt động của chương trình giảm nghèo nói riêng và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nói
chung.
- Nâng cao khả năng tiếp cận, truyền đạt kiến thức đến cộng đồng đế người dân hiểu và đồng thuận tham gia các
hoạt động xóa đói giảm nghèo nói chung và hoạt động văn hóa – xã hội nói riêng trên địa bàn. Đồng thời thường
xuyên tiếp cận cộng đồng, lắng nghe ý kiến cộng đồng để có thể hiểu và nắm bắt những tâm tư nguyện vọng của
người dân, ý kiến tham gia của người dân trong mọi hoạt động của địa phương, trên cơ sở đó cán bộ lãnh đạo
xây dựng kế hoạch phát triển sao cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của cộng đồng cũng như phù hợp điều
kiện của địa phương.
- Tăng cường chính sách khuyến khích người về công tác tại huyện xã, vùng khó khăn: Nâng mức phụ cấp
khu vực cho các cán bộ; Thực hiện chính sách cử tuyển người đang công tác tại địa phương đi học về phục vụ
địa phương; có chế độ phụ cấp và công tác phí phù hợp cho các cộng tác viên XĐGN tại thôn/bản.
- Phát huy vai trò cầu nối giữa cộng đồng người dân với các tổ chức đoàn thể ngoài cộng đồng như: hội nông
dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến bính, đoàn thanh niên, Uỷ ban mặt trận tổ quốc… để có thể tham gia, phối hợp
trực tiếp hỗ trợ, giúp đỡ cộng đồng
CÁC GIẢI PHÁP KHÁC:Là một xã vùng cao, điều kiện CSHT khó khăn, hạn hán, bão gió thường xuyên
xảy ra đã và đang gây ra rất nhiều bất lợi cho việc tham gia vào các hoạt động giảm nghèo của cộng đồng dân
tộc thiểu số. Đặc biệt là vấn đề giao thông đi lại, những tuyến đường ở đây chủ yếu là đường đất và rất nhỏ.
Vậy việc mà người dân, cơ quan, chính quyền các cấp cần làm đó là:
- Tập chung sửa chữa và nâng cao chất lượng CSHT đặc biệt là hệ thống đường giao thông vào các thôn (hiện
nay chủ yếu là đường đất, mùa mưa thì trơn trượt, còn mùa khô thì lại rất bụi ảnh hưởng rất không tốt đến sức
khỏe người dân)
- Lập quỹ để hỗ trợ người dân khi họ gặp thiên tai
- Tăng cường các buổi họp dân, hội nghị để cả dân và cán bộ có nhiều thời gian trao đổi hơn
- Tìm kiếm và kêu gọi các nguồn hỗ trợ khác: ngoài sự hỗ trợ từ Nhà nước thì các hỗ trợ đến từ bên ngoài
của các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các nguồn tài trợ khác, có đóng góp không nhỏ cho
hoạt động giảm nghèo và ảnh hưởng nhất định tới sự tham gia của cộng đồng các dân tộc vào các hoạt
động giảm nghèo.
Tuy nhiên, số lượng các dự án, chương trình hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, tổ chức kinh tế trong nước còn ít về
số lượng, nhỏ bé về quy mô đầu tư. Đặc biệt tại địa bàn xã Cát Tân thì các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài gần như
là chưa có. Vì vậy, các cấp chính quyền địa phương cần tích cực tìm kiếm, kêu gọi các nguồn hỗ trợ từ các tổ
chức khác, đặc biệt là các doanh nghiệp gần đó và các tổ chức phi chính phủ.
PHẦN III:ĐỀ XUẤT VÀ KHUẾN NGHỊ
3.1.Đề xuất
Đối với hoạt động hỗ trợ xây dựng CSHT cần ưu tiên những hạ tầng thiếu và quan trọng nhất, huy
động nguồn lực cộng đồng có khả năng đóng góp và sẵn sàng, nên phân định mức đối với đối tượng huy động.
Tiếp đó là giải pháp nâng cao năng lực thông qua việc tăng cường tập huấn khuyến nông, đào tạo, dạy
nghề và tạo việc làm. Khuyến khích, động viên con em đồng bào dân tộc Mường bằng việc hỗ trợ thêm chi
phí ăn ở, đi lại, đồ dùng, ngoài phần hỗ trợ học phí.
Khi cho vay vốn ưu đãi, cần xem xét nhu cầu vốn, thời gian, lãi suất và định hướng sử dụng vốn phù
hợp với đặc thù kinh tế hộ, sản xuất nông nghiệp. Xét đối tượng vay đảm bảo “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”. Đơn giản thủ tục, tránh tiêu cực và ảnh hưởng tình cảm.
Tập huấn khuyến nông cần xác định đúng nhu cầu, lĩnh vực và đối tượng cần tập huấn. Đảm bảo đúng,
đủ và kịp thời. Khuyến khích cộng đồng tham gia đủ các bước, xác định nhu cầu, lập kế hoạch, triển khai thực
hiện, giám sát đánh giá và hưởng lợi.
Đối với hoạt động hỗ trợ đầu vào sản xuất, cần có biện pháp phát triển lâu dài, tránh tạo tâm lý ỷ lại
chỉ “làm thế nào để được hỗ trợ” mà không có tính ứng dụng.
Tuyên truyền rộng rãi các mục tiêu, kế hoạch và dự kiến kết quả để cộng đồng tham gia các chương
trình giảm nghèo.
Cung cấp thông tin, tăng cường lien kết, cung cấp vật tư tạo điều kiện phù hợp cho từng cộng đồng
dân tộc, từng địa phương.
3.2 Khuyến nghị
3.2.1. Với Nhà nước
Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các CT, DA đang có, cần rà soát lại việc thực hiện, triển khai, các vấn đề
vướng mắc, những mặt yếu kém của các trương trình giảm nghèo . Cần tăng cường các hỗ trợ PTKT, XĐGN
cho các vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa . Hỗ trợ cơ bản cho đối tượng chính là hộ nghèo, dân tộc
thiểu số, những người gặp rủi ro, người không có khả năng cải thiện đời sống của mình xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn của họ - tức là hỗ trợ cái họ cần thiết nhất. Quá trình hình thành chính sách cần phải có khảo sát nhu
cầu của người được thụ hưởng chính sách, cần xem bản thân họ cần cái gì để PTKT, cũng như cải thiện đời
sống của mình, hỗ trợ này mang tính công bằng xã hội. Kế hoạch thực hiện các CT, DA hay chính sách giảm
nghèo cần được lập cụ thể, chi tiết đến từng đối tượng, lồng ghép nguồn hỗ trợ với khả năng đóng góp của
cộng đồng. Hỗ trợ của Nhà nước không phải là chìa khóa vạn năng, cần có kế hoạch tài chính và kế hoạch
nguồn lực huy động nguồn lực từ cộng đồng thì hiệu quả hỗ trợ sẽ cao hơn. Trong đó chú trọng đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng nhất là hạ tầng giao thông, kinh tế cho địa phương đó. Hỗ trợ phát triển sản xuất không nên
cung cấp theo kiểu cứu đói, bảo trợ, cần phải để người dân tự có kế sinh nhai của mình và hỗ trợ họ làm tốt
hơn. Nên đảm bảo toàn bộ người nghèo, dân tộc thiểu số được hưởng chế độ chăm sóc y tế, giáo dục, đời sống
toàn diện, chính sách dành cho họ nên phù hợp với điều kiện mà không đánh đồng với nhóm hộ khác.
3.2.2. Với Chính quyền địa phương các cấp
* Đối với cấp xã, thôn: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ và các tổ chức kinh
tế, chính trị - xã hội về mục đích, vai trò và ý nghĩa của việc huy động sự tham gia của cộng đồng vào các
hoạt động kinh tế để giảm nghèo. Đồng thời tăng cường năng lực cho các tổ chức đoàn thể ở các xã để họ có
khả năng huy động hội viên tham gia một cách chủ động, tích cực.
* Đối với cộng đồng: Phải nhận thức đúng đắn xóa đói giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm của cộng đồng
mà phải có sự nỗ lực tự giác vươn lên của chính bản thân hộ nghèo. Không ngừng học hỏi kinh nghiệm sản
xuất, cách thức làm ăn hay, đạt hiệu quả; Phát huy tính tự lực, tự chủ, không ỷ lại vào sự trợ giúp, tự vươn lên
trong sản xuất đời sống bằng chính sức lao động của mình để thoát khỏi cảnh đói nghèo; Cần phải tham gia
tích cực hơn nữa vào các chương trình triển khai ở địa phương.
Kết luận
Sau nhiều nỗ lực của đảng và nhà nước, sự vào cuộc của các cấp, các ngành và chính quyền địa phương đã và đang
triển khai nhiều chương trình, dự án như; CT134, CT135, CT 30a, XD nông thôn mới…..tỉ lệ hộ nghèo nước ta
năm 2015 giảm xuống còn 6%, bộ mặt nông thôn đã có nhiều sự thay đổi. đây là một thành quả đáng mừng. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành công đạt được thì còn nhiều vấn đề tồn tại như kết quả giảm nghèo chưa vững chắc,
tỷ lệ hộ nghèo còn cao, mức trợ cấp còn thấp, đời sống của đối tượng còn nhiều khó khăn, đặc biệt nguy cơ tái
nghèo đang ở mức cao. Mặt khác, một số chính sách còn bất cập, không phù hợp với tình hình thực tế nhưng
chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. .Quá trình khảo sát thực tế tại Cát Tân cho thấy: đây là xã khó khăn về
điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, đặc thù là nơi tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, các CT, DA nhằm
hỗ trợ giảm nghèo được triển khai thì lại chưa mang lại kết quả cao, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó
khăn, các vấn đề xã hội còn tồn tại. Kinh tế xã hội hiện nay có nhiều khởi sắc, tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo vẫn
còn cao, có nhiều hoạt động phát triển kinh tế của hộ, của địa phương và trong các chương trình mục tiêu quốc
gia để giảm nghèo, tuy nhiên vẫn chưa huy động được tối đa sự tham gia của cộng đồng.
Qua thực trạng trên,ta có thể nhận thấy rằng yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến kết quả của các hoạt động giảm
nghèo đó là sự tham gia của người dân vào các hoạt động đó.Tuy nhiên ở đây, sự tham gia của người dân còn
quá hạn chế, thậm trí chính bản thân họ cũng chưa tha thiết với việc phát triển kinh tế của chính họ, cũng không
có nhu cầu hay tâm lý giảm nghèo, hộ luôn trông chờ vào hỗ trợ của nhà nước, có một số hộ còn tìm mọi cách
để trở thành hộ nghèo. Ngoài hoạt động phát triển kinh tế hộ cộng đồng còn tham gia các hoạt động giữ gìn
phong tục tập quán, các hoạt động tương trợ để giảm nghèo nhưng thực tế cho thấy kết quả giảm nghèo vẫn còn
rất thấp.Sự tham gia của cộng đồng còn nhiều hạn chế do rất nhiều nguyên nhân, trong đó trình độ thấp và điều
kiện kinh tế khó khăn là hai nguyên nhân chính làm giảm sự tham gia của người dân vào các hoạt động giảm
nghèo. Sau khi nghiên cứu thực tế trên địa bàn xã, khóa luận đưa ra một số giải pháp để làm tăng sự tham gia
của cộng đồng dân tộc Thiểu số trong các hoạt động giảm nghèo. Trong đó giải pháp về nâng cao trình độ dân
trí cho cộng đồng là giải pháp quan trọng nhất, bởi có tới gần 100% người dân không thể tham gia vào các
khâu lập kế hoach,giám sát, quản lý của các chương trình mục tiêu quốc gia. Vậy vấn để đặt ra là phải nâng
cao trình độ dân trí để cộng đồng có thể hiểu và tham gia vào tất cả các khâu, tất cả các hoạt động giảm nghèo
lúc đó thì các hoạt động giảm nghèo mới đem lại hiệu quả cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ : Về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo
2. Quyết định Số 135/1998/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền
núi và vùng sâu, vùng xa của Thủ tướng chính phủ
3. Quyết định số 09/2011/QĐ – TTg ngày 30/01/2011 về ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015
4. Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của UBND xã Cát Tân qua các năm 2014, 2015 và 2016.
5. Báo cáo tổng kết Chương trình 135, Quyết định 167 của Thủ tướng Chính phủ, các năm 2013, 2014 và 2015
6. Dự thảo đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cậu cận huyết trong đồng bào dân tộc thiểu số năm của Ủy
Ban Tộc, 2014
7. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, 2010
8. Đỗ Kim Chung, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn hỗ trợ giảm nghèo và đầu tư công cho giảm nghèo. Tạp chí khoa
học và phát triển 2010; tập 8; số 4:708-718, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
9. Đỗ Kim Chung (2011), Bài giảng môn Kế hoạch và chiến lược phát triển, Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội
10. Phạm Bảo Dương (2010), Một vài suy nghĩ đổi mới cơ chế thực hiện chính sách giảm nghèo. Tạp chí kinh tế và dự
báo, Số 15/2010 (479), tr 10-13
11. Hoàng Thị Thảo (2004),“Những giải pháp chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo cho hộ nông dân ở huyện Kim Bảng,
tỉnh Hà Nam”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội.
12. Tuyết Hoa NiêkDăm (2008), “Thực trạng và giải pháp kinh tế xã hội chủ yếu phát triển bền vững cộng đồng các
dân tộc ít người tại chỗ vùng đệm vườn quốc gia Yok Đôn huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk”, Luận án tiến sỹ khoa học
kinh tế, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
13. Lưu Thị Tho (2012),“Nghiên cứu sự tham gia của cộng đồng các dân tộc về hoạt động phát triển kinh tế trong các
chương trình giảm nghèo: trường hợp nghiên cứu tại Xín Mần(Hà Giang) và Đà Bắc(Hòa Bình)” , Luận văn Thạc sĩ
kinh tế, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
14. Phan Vũ Tuyết Mai (2012) “Nghiên cứu sự tham gia của cộng đồng các dân tộc về các hoạt động Văn Hóa – Xã
Hội trong các chương trình giảm nghèo: trường hợp nghiên cứu tại Đà Bắc( Hòa Bình) và Sơn Động( Bắc Giang)” ,
Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
15. Khái niệm dân tộc thiểu số wikipedia.org
16. Trương Văn Tuyển, 2007, Phát triển cộng đồng. Giáo trình của Trường Đại học Nông Lâm Huế, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, 2005.
17.( Setty, 1991) định nghĩa về sự tham gia của cộng đồng. Nguồn: http://tailieu.vn/doc/de-tai-su-tham-gia-cua-congdong-534734.html
- Xem thêm -