ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ TUYẾT NHUNG
CÊP D¦ìNG SAU LY H¤N
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ TUYẾT NHUNG
CÊP D¦ìNG SAU LY H¤N
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HÀ THỊ MAI HIÊN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Tuyết Nhung
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP DƯỠNG SAU
LY HÔN .............................................................................................. 6
1.1.
Khái niệm cấp dưỡng và đặc điểm của quan hệ cấp dưỡng .......... 6
1.2.
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của cấp dưỡng sau ly hôn ......... 11
1.3.
Cơ sở xã hội và nội dung điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng
sau ly hôn........................................................................................... 15
1.3.1. Cơ sở xã hội điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn.............. 15
1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn ................... 19
1.4.
Lược sử quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn ..... 20
1.4.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ............................ 20
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 ............................................... 22
1.4.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay ......................................................... 26
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 29
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN .... 30
2.1.
Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng........................................ 30
2.2.
Mức cấp dưỡng ................................................................................. 37
2.3.
Thời hạn và phương thức thực hiện cấp dưỡng ............................ 39
2.4.
Thay đổi việc thực hiện cấp dưỡng ................................................. 43
2.5.
Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn ..................................... 45
2.6.
Vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ............................ 48
2.7.
Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ............... 51
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 51
Chương 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ VẤN
ĐỀ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN ................................................... 52
3.1.
Nhận xét chung ................................................................................. 52
3.2.
Thực tiễn giải quyết các trường hợp cấp dưỡng sau ly hôn......... 55
3.2.1. Về mức cấp dưỡng ............................................................................. 55
3.2.2. Về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ...................................... 61
3.2.3. Về thời điểm kết thúc cấp dưỡng nuôi con ........................................ 63
3.2.4. Về tạm ngừng cấp dưỡng ................................................................... 67
3.2.5. Trường hợp cấp dưỡng của bố dượng, mẹ kế cho con riêng của
vợ hoặc con riêng của chồng khi ly hôn............................................. 70
3.3.
Một số kiến nghị về cấp dưỡng sau ly hôn ..................................... 72
3.3.1. Mức cấp dưỡng................................................................................... 72
3.3.2. Thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con .............................................. 73
3.3.3. Tạm ngừng cấp dưỡng........................................................................ 74
3.3.4. Trường hợp cấp dưỡng giữa bố dượng hoặc mẹ kế với con riêng
của vợ hoặc chồng .............................................................................. 75
3.3.5. Cách tính số tiền bồi thường cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly
hôn mà một người bị tai nạn .............................................................. 76
3.3.6. Vấn đề về tổ chức, thực hiện và áp dụng pháp luật ........................... 78
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Bảng 3.1: Tổng số án ly hôn được giải quyết từ năm 2008 đến năm 2014
Trang
52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, vì vậy muốn xã hội tốt thì trước tiên và
cốt yếu là phải xác lập được một gia đình hạnh phúc. Song nếu như kết hôn là
một hiện tượng xã hội bình thường nhằm xác lập nên tế bào của xã hội, thì ly
hôn có thể coi là hiện tượng bất bình thường nhưng không thể thiếu được khi
quan hệ hôn nhân thực sự tan vỡ. Trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn
ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Gia đình tan nát, con cái là người gánh chịu
nhiều thiệt thòi nhất bởi không nhận được sự quan tâm, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục cùng một lúc của cả cha và mẹ. Vì vậy, để đảm bảo cuộc
sống bình thường của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng
không có khả năng lao động thì vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn được đặt ra là
hoàn toàn hợp lý. Hôn nhân tan vỡ, vợ chồng không thể nương tựa, chia sẻ
với nhau, theo nguyên tắc quan hệ nhân thân giữa vợ chồng cũng chấm dứt
theo nhưng quan hệ tài sản trong đó có quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
không hẳn đã chấm dứt, khi một bên vợ hoặc chồng gặp khó khăn, có yêu cầu
cấp dưỡng thì người vợ hoặc chồng cũ có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng
của họ, điều này hoàn toàn phù hợp với truyền thống của người Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn tại Tòa án, đã xảy ra không ít
trường hợp vợ hoặc chồng bỏ mặc không quan tâm, không cấp dưỡng cho
chồng hoặc vợ cũ khi người chồng hoặc vợ cũ rơi vào hoàn cảnh khó khăn,
túng thiếu hay vợ chồng sau khi ly hôn không quan tâm đến cuộc sống của
con cái, bỏ mặc, không thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng đối với con. Trước
thực tiễn như vậy thì việc giải quyết vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn là rất cấp
thiết và đáp ứng nhu cầu trực tiếp của các bên, qua đó góp phần hoàn thiện
các quy định pháp luật về cấp dưỡng để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên
1
trong quan hệ cấp dưỡng. Đây chính là lý do tôi quyết định chọn đề tài “Cấp
dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm Luận văn thạc sĩ
luật học của mình. Trong khuôn khổ luận văn, tôi không đề cập một cách cụ
thể tất cả vấn đề liên quan đến cấp dưỡng mà chỉ trình bày một số vấn đề cấp
dưỡng trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Qua đó đưa ra các phân tích, đánh
giá nhằm góp phần xây dựng đề tài khoa học và hoàn thiện pháp luật về vấn
đề cấp dưỡng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu pháp luật về Cấp dưỡng sau ly hôn là mảng đề tài khá quan
trọng trong pháp luật hôn nhân và gia đình, tuy nhiên, mới chỉ có một số công
trình khoa học nghiên cứu vấn đề này một cách riêng lẻ, hầu hết mới chỉ
nghiên cứu vấn đề này như là một phần của hậu quả pháp lý của ly hôn hoặc
là một trường hợp trong vấn đề cấp dưỡng nói chung.
Một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều phạm vi và cấp độ khác
nhau, đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như sau:
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện
(2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, tập 1, NXB
Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Đinh Thị Mai Phương (2006) Bình luận khoa học
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn
Văn Cừ và Ngô Thị Hường (2002) Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Giáo trình
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
Ngoài ra còn một số Giáo trình và Bình luận khoa học về Luật Hôn
nhân và gia đình, hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân
tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về cấp dưỡng
nói chung và cấp dưỡng sau ly hôn nói riêng, ít đề cập đến thực tiễn việc áp
dụng và thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề nêu trên.
2
Nhóm luận văn chuyên ngành Luật: Một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu như: Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2000, Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Viết Thái (năm
2013); Quan hệ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, Luận
văn tốt nghiệp của Lê Thạch Hương (năm 2008); Bảo vệ quyền lợi của con
khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp của Hồ Thị Nga (năm 2007)…
Tóm lại, cho đến nay mới chỉ có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
vấn đề cấp dưỡng nói chung hoặc hậu quả pháp lý của ly hôn nói chung, chưa
có một công trình nghiên cứu riêng về vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp
luật Việt Nam hiện nay.
Chính vì lý do đó, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu đầy đủ, toàn
diện vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn cho luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục đích chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về quan hệ cấp dưỡng, từ đó đi
sâu vào phân tích các trường hợp cần cấp dưỡng khi ly hôn.
- Đánh giá việc áp dụng pháp luật về cấp dưỡng trong quá trình giải
quyết ly hôn.
- Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật về cấp dưỡng chỉ ra được
những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật cũng như những khiếm
khuyết, sai sót trong công tác xét xử của toà án để đề xuất những kiến nghị,
nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác xét xử và quyền, lợi chính đáng
của vợ chồng, các con khi ly hôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề cấp dưỡng
khi ly hôn.
3
- Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật để giải quyết vấn đề cấp dưỡng
khi vợ chồng ly hôn qua thực tiễn công tác xét xử của toà án.
- Đánh giá hiệu quả của việc xét xử tại toà án về giải quyết vấn đề cấp
dưỡng khi vợ chồng ly hôn, phát hiện những vấn đề vướng mắc, bất cập trong
quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật khi xét xử
tại toà án và đề xuất các kiến nghị cần thiết.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề cấp
dưỡng sau ly hôn và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua
các Bản án của Tòa án.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 và một số văn bản khác có liên quan về cấp dưỡng
khi ly hôn. Đồng thời, nghiên cứu việc áp dụng pháp luật giải quyết vấn đề
cấp dưỡng khi ly hôn qua thực tiễn xét xử tại toà án qua các vụ án cụ thể
trong thời gian từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực đến
nay. Đề tài chỉ nghiên cứu về mặt nội dung của vấn đề cấp dưỡng khi ly hôn,
không đi sâu xem xét nghĩa vụ thi hành án cấp dưỡng và đưa ra một số biện
pháp để đảm bảo hiệu quả của Bản án cấp dưỡng trên thực tế.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước điều
chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp, thống kê, mô hình hoá và đồng thời nghiên cứu những báo cáo
công tác xét xử của toà án, các bản án của toà án giải quyết vấn đề cấp dưỡng
khi ly hôn, các bài viết, tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.
4
7. Dự kiến kết quả nghiên cứu của đề tài
Đề tài chú trọng nghiên cứu làm rõ các quy định pháp luật hiện hành về
vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn, đồng thời, đánh giá việc áp dụng pháp luật về
vấn đề này qua công tác xét xử của tòa án từ khi Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 có hiệu lực đến nay. Qua đó phát hiện những vướng mắc, bất cập
trong các quy định của pháp luật cũng như những khiếm khuyết, sai sót trong
quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn. Trên
cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất một số kiến nghị có cơ sở để
giải quyết những vướng mắc, bất cập đó cũng như các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về vấn đề cấp dưỡng khi ly hôn để việc giải quyết vấn đề này khi ly
hôn một cách có hiệu quả, tiết kiệm được thời gian, chi phí và đảm bảo được
quyền, lợi ích trước hết của trẻ em và của vợ chồng.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về cấp dưỡng sau ly hôn.
Chương 2. Nội dung pháp luật Việt Nam hiện nay về cấp dưỡng sau
ly hôn.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn và
một số giải pháp tăng cường hiệu quả pháp luật về cấp
dưỡng sau ly hôn ở Việt Nam hiện nay.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN
1.1. Khái niệm cấp dưỡng và đặc điểm của quan hệ cấp dưỡng
Cấp dưỡng là một thuật ngữ thể hiện việc một người chu cấp tiền bạc
hoặc tài sản cho người có nhu cầu được nuôi dưỡng trên cơ sở giữa họ có
quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Quan hệ cấp dưỡng chỉ phát
sinh giữa các chủ thể gắn bó với nhau bởi tình cảm gia đình. Do đó, quan hệ
cấp dưỡng là quan hệ đặc trưng của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Từ khi ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay, vấn đề
hôn nhân và gia đình luôn là mối quan tâm Đảng và Nhà nước ta. Nhiều văn
kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước về gia đình đã được ban hành trong
những năm qua: Hiến pháp Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm
1991 cũng như trong các văn kiện của Đảng về chính sách xã hội đã nhấn
mạnh đến vai trò của gia đình như là tế bào của xã hội và là nhân tố quan
trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Quan điểm và
chính sách này của Đảng và Nhà nước đã được thể chế hóa thành các quy định
pháp luật, Điều 64 - Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (năm 1992) - văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất khẳng định: “Gia đình là
tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình” [19, Điều 64]. Để
cụ thể hoá quy định này của Hiến pháp, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã
được ban hành, nhằm đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, phát
huy truyền thống và những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam,
xoá bỏ những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình như Luật
Hôn nhân và gia đình, Điều 41 - Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền
được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình.
6
Gia đin
̀ h là mô ̣t hin
̀ h thức tổ chức đời số ng cô ̣ng đồ ng của con người ,
mô ̣t thiế t chế văn hóa – xã hội đặc thù , đươ ̣c hiǹ h thành, tồ n ta ̣i và phát triể n
trên cơ sở của quan hê ̣ hôn nhân, quan hê ̣ huyế t thố ng, quan hê ̣ nuôi dưỡng và
giáo dục. Chính vì vậy mà giữa các thành viên trong gia đình luôn có sự gắn
bó chặt chẽ, sâu sắc về tình cảm và trách nhiệm đối với nhau. Để đảm bảo cho
gia đình tồn tại và phát triển thì các thành viên trong gia đình phải quan tâm,
chăm sóc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau. Khi Nhà nước và pháp luật xuất hiện,
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được điều chỉnh bởi các quy phạm
pháp luật, trên cơ sở bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước, của giai cấp cầm
quyền. Sự chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình
không chỉ là nhu cầu về đạo đức, mà còn là nghĩa vụ pháp lý được pháp luật
quy định cụ thể, rõ ràng.
Như vậy, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau không chỉ là quyền mà còn là
trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt, cha mẹ phải có nghĩa
vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ con cái. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghĩa
vụ nuôi dưỡng cũng có thể thực hiện được. Trong những hoàn cảnh nhất định,
người có nghĩa vụ nuôi dưỡng có thể không có điều kiện thực hiện nghĩa vụ
nuôi dưỡng như khi họ phải đi công tác xa, bị bệnh nặng kéo dài, phải chấp
hành hình phạt tù… Để đảm bảo cuộc sống bình thường của người được nuôi
dưỡng, trong những trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra.
Khái niệm cấp dưỡng không thay đổi từ Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại Khoản 11- Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, khoản 24 – Điều 3 – Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014. Từ quy định trên có thể hiểu: Cấp dưỡng là việc một
người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết
thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên,
7
là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu.
Đây là định nghĩa chính thức đầu tiên được ghi nhận trong đạo luật.
Mặc dù, ở nước ta quan hệ cấp dưỡng đã được đề cập đến từ khá lâu, từ thời
kỳ phong kiến, Pháp thuộc đến khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ra đời
với các quy định về cấp dưỡng ngày càng cụ thể hơn, đa dạng hơn nhưng vẫn
còn mang tính chung chung, khái quát. Đến Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, 2014 đã khắc phục được hạn chế này và là một bước tiến dài trong quá
trình bổ sung, hoàn thiện chế định cấp dưỡng cả về cơ sở pháp lý và lý luận.
Trước hết phải nói đến việc lần đầu tiên đưa ra khái niệm cấp dưỡng và sau
đó là dành một chương riêng để quy định về các vấn đề liên qua đến cấp
dưỡng. Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước ta và cho thấy
tầm quan trọng của chế định này trong cuộc sống. Khái niệm về cấp dưỡng đã
nêu được những nội dung chủ yếu của quan hệ cấp dưỡng như: đối tượng
được cấp dưỡng, điều kiện cấp dưỡng, mục đích của việc cấp dưỡng… Có thể
nói đây là định nghĩa khá bao quát về cấp dưỡng dưới góc độ pháp lý.
Từ khái niệm cấp dưỡng có thể thấy quan hệ cấp dưỡng có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn với
nhân thân của mỗi bên trong quan hệ cấp dưỡng. Điều đó thể hiện ở chỗ:
người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định
nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho người được cấp dưỡng. Đây là
quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân của các bên trong quan hệ cấp dưỡng (bên
có nghĩa vụ cấp dưỡng và bên được cấp dưỡng), vì vậy nghĩa vụ cấp dưỡng là
nghĩa vụ không được chuyển giao cho người khác mà phải do chính người có
nghĩa vụ thực hiện và việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phải được thực
hiện cho người có quyền được cấp dưỡng. Điều này đã được quy định tại
8
khoản 1 - Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và khoản 1 - Điều 107
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế
bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác” [24, Điều 107].
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ được phát sinh khi các chủ thể trong quan hệ thỏa
mãn những điều kiện nhất định. Khi nghĩa vụ này xuất hiện, người phải cấp
dưỡng hay thậm chí người được cấp dưỡng không được đơn phương hoặc
thỏa thuận việc thay thế nghĩa vụ cấp dưỡng bằng nghĩa vụ khác. Có nghĩa là
bên có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ dung nghĩa vụ khác để thay
thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng như là bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm;
hoặc cũng không thể sử dụng chúng làm cơ sở đảm bảo cho những nghĩa vụ
khác, đồng thời chủ thể trên cũng không thể chuyển giao nghĩa vụ này cho bất
cứ ai. Nếu như một người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người khác thì phải tự
mình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng không thể chuyển giao nghĩa vụ cấp
dưỡng của mình cho bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thay cho mình,
ngay cả người được cấp dưỡng cũng không được chuyển giao quyền của mình
cho người khác vì nghĩa vụ cấp dưỡng gắn liền với nhân than của chủ thể trên
cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.
Tính không thể chuyển giao và tính không thể thay thế của nghĩa vụ
cấp dưỡng đã được ghi nhận tại Điều 381, 379 – Bộ luật Dân sự năm 2005 về
việc không thể chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng bằng việc thay thế nghĩa vụ
khác và không thể bù trừ nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ bù trừ là nghĩa
vụ cấp dưỡng. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Bên có quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế
quyền theo thỏa thuận, trừ những trường hợp sau đây: a. Quyền cấp dưỡng,
quyền bồi thường thiệt hại…” [21, Điều 309].
- Quan hệ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình
trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Luật Hôn nhân và gia đình
9
năm 2000 quy định “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và
con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa
vợ chồng theo quy định của Luật này” [20, Điều 50, Khoản 1]. Như vậy, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã xác định rõ phạm vi chủ thể của quan hệ
cấp dưỡng đó là cấp dưỡng giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau,
giữa ông bà và cháu. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung thêm
chủ thể của quan hệ cấp dưỡng đó là giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu
ruột tại Khoản 1 – Điều 107. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 mới chỉ
quy định việc cấp dưỡng giữa những người có quan hệ đương nhiên về pháp
luật, trong khi đó tập quán và truyền thống văn hóa, đạo đức của gia đình Việt
Nam thường đề cao trách nhiệm của những người có quan hệ thân thích với
nhau theo quan điểm: “sểnh cha còn chú, sểnh mẹ bú dì”. Đây là một điểm
mới phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, đó là truyền thống
tương thân tương ái của dân tộc ta và thực tiễn cuộc sống. Chính từ đặc điểm
này mà quan hệ cấp dưỡng thường hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở
đạo đức và quan hệ ruột thịt giữa con người với nhau theo phong tục, tập
quán. Sau đó quan hệ cấp dưỡng mới được điểu chỉnh bởi quy phạm pháp luật
và trở thành quan hệ pháp luật.
- Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản song không mang tính đền bù
ngang giá. Do yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể, nên nghĩa vụ cấp
dưỡng được thực hiện một cách tự nguyện, không tính toán đến giá trị tài sản
đã cấp dưỡng, không đòi hỏi người cấp dưỡng sẽ phải hoàn lại một số tiền
tương ứng. Mặt khác, không phải lúc nào nghĩa vụ cấp dưỡng cũng đặt ra, chỉ
trong trường hợp nhất định và với điều kiện nhất định, nghĩa vụ cấp dưỡng
mới phát sinh. Vì vậy, quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù tương
đương, không có tính tuyệt đối và không diễn ra đồng thời. Ví dụ: cha mẹ
phải cấp dưỡng cho con khi con chưa thành niên nhưng con chỉ phải cấp
dưỡng cho cha mẹ khi con đã thành niên và có khả năng lao động.
10
- Nghĩa vụ cấp dưỡng vừa mang tính đạo lý, vừa mang tính pháp lý
được đảm bảo thực hiện bằng lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội và cả các
biện pháp cưỡng chế thi hành. Bởi lẽ, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa
các thành viên trong gia đình trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng (giữa cha mẹ và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà với các
cháu; giữa vợ chồng…). Giữa các thành viên trong gia đình luôn có mối quan
hệ tình cảm khăng khít, khó tách rời. Khi các thành viên trong gia đình không
thể trực tiếp quan tâm, chăm sóc nhau, thì họ thực hiện nghĩa vụ này thông
qua việc cấp dưỡng. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuất phát từ
lương tâm, đạo đức và dư luận xã hội. Khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn
tránh trách nhiệm cấp dưỡng của mình lúc này biện pháp cưỡng chế mới đặt
ra. Đồng thời, để nâng cao ý thức, trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ
cấp dưỡng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 đã quy định vấn đề cấp dưỡng như một chế định quan trọng
cần thiết để điểu chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình.
- Quan hệ cấp dưỡng là một quan hệ phái sinh, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ
phát sinh trong những điều kiện nhất định, tức là khi quan hệ nuôi dưỡng
không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ thì lúc đó quan hệ cấp
dưỡng mới xuất hiện. Khi đó nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh nhằm đáp ứng nhu
cầu vật chất tối thiểu cần thiết cho cuộc sống của người được cấp dưỡng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của cấp dưỡng sau ly hôn
Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp đã nảy sinh từ rất sớm trong
xã hội có giai cấp. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, ly hôn là một
mặt của quan hệ hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt
không thể thiếu của quan hệ hôn nhân. Khi đời sống tình cảm yêu thương
giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích hôn nhân không
11
đạt được thì vấn đề ly hôn được đặt ra nhằm giải phóng cho vợ chồng, con cái
và các thành viên trong gia đình thoát khỏi những xung đột, bế tắc trong đời
sống chung. Vì khi hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, thực chất quan hệ vợ
chồng đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa thì mối quan hệ của các thành viên trong
gia đình không còn tốt đẹp như trước thì ly hôn là tất yếu xảy ra.
Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn
chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm
hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là
kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của
mình. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự
tan vỡ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hôn của vợ chồng
không có nghĩa là giải quyết ly hôn tùy tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ
chồng muốn sao làm vậy mà bằng pháp luật. Bởi trong quan hệ hôn nhân
không chỉ có lợi ích riêng của vợ chồng mà còn có lợi ích của Nhà nước và xã
hội thể hiện qua những chức năng cơ bản của gia đình – tế bào của xã hội và
lợi ích của con cái – thành viên của gia đình và của xã hội. Như vậy, Nhà
nước bằng việc quy định những điều kiện để cho phép vợ chồng ly hôn, đặt ra
những căn cứ để giải quyết ly hôn, từ đó Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào
những quy định, căn cứ đó để công nhận hoặc quyết định ly hôn. Bằng những
hoạt động này, Nhà nước kiểm soát việc ly hôn, tránh tình trạng ly hôn tùy
tiện nhằm đảm bảo lợi ích của gia đình và không ảnh hưởng tới chức năng của
gia đình là tế bào của xã hội.
Hơn nữa, trong những năm gần đây, cuộc sống ngày càng đa dạng, phát
triển, hiện đại, kéo theo đó là nhu cầu của con người ngày càng cao trong cả
đời sống vật chất và tình cảm, yêu cầu của mỗi người đối với người khác, đặc
biệt là đối vợ hoặc chồng có sự khác biệt rất lớn đối với quan niệm của con
người thời xưa. Hiện nay, quan niệm về bình đẳng giới dần được công nhận
12
và là một phần của cuộc sống thường ngày, quan niệm “phu xướng phụ tùy”
không còn quá chi phối trong mối quan hệ gia đình. Chính vì vậy, khi xung
đột gia đình xảy ra, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được thì ly hôn là
tất yếu xảy ra.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, quyền ly hôn đã được
khẳng định trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất đó là Hiến pháp,
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nam, nữ có quyề n kế t hôn, ly hôn. Hôn nhân
theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau” [23, Điều 36]. Khái niệm ly hôn được quy định tại Luật
Hôn nhân và gia đình 2000 quy định: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân
do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng
hoặc cả hai vợ chồng” [20, Điều 8, Khoản 8]. Khoản 14, Điều 3 - Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 cũng đưa ra khái niệm ly hôn như sau: “Ly hôn là
việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án” [24, Điều 3]. Về bản chất hai khái niệm này là giống nhau, đều
khẳng định việc ly hôn là kết quả của hành vi có ý chí của vợ, chồng và được
pháp luật công nhận việc chấm dứt quan hệ vợ chồng thể hiện qua bản án,
quyết định của Tòa án.
Việc ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng tất yếu sẽ
kéo theo những hậu quả pháp lý cần được thỏa thuận hoặc Tòa án giải quyết.
Những hậu quả pháp lý đó là những nội dung cần được giải quyết khi chấm
dứt hôn nhân liên quan đến quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản của vợ và
chồng, quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với
con cái… Xuất phát từ lợi ích của gia đình, quyền và lợi ích chính đáng của
vợ chồng, các con, sự ổn định của các quan hệ hôn nhân và gia đình, việc quy
định bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn giúp Tòa án nhân dân các
cấp có đủ cơ sở pháp lý để điều tra, tìm hiểu kỹ nguyên nhân dẫn tới những
13
mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư, tình cảm của người trong cuộc để có thể giải
quyết ly hôn chính xác đảm bảo quyền lợi của các bên, của gia đình và xã hội.
Nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong những hậu quả pháp lý của việc ly
hôn liên quan đến quan hệ giữa cha mẹ với con cái và quan hệ tài sản giữa vợ
cũ với chồng cũ.
Như vậy, từ khái niệm cấp dưỡng nói chung, ta có thể hiểu cấp dưỡng
sau ly hôn như sau: Cấp dưỡng sau ly hôn là việc một người có nghĩa vụ đóng
góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của vợ hoặc chồng
sau khi ly hôn mà gặp khó khăn, túng thiếu hoặc của con chưa thành niên, đã
thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình mà không sống chung với cha hoặc mẹ khi cha mẹ ly hôn.
Là một trường hợp của quan hệ cấp dưỡng nói chung nên cấp dưỡng
sau ly hôn cũng có những đặc điểm cơ bản của quan hệ cấp dưỡng nói
chung như:
- Là một loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn với nhân thân của mỗi
bên trong quan hệ cấp dưỡng, nên nó là nghĩa vụ không được chuyển giao
cho người khác mà phải do chính người có nghĩa vụ thực hiện và việc thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phải được thực hiện cho người có quyền
được cấp dưỡng.
- Là quan hệ tài sản song không mang tính đền bù ngang giá.
- Nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn vừa mang tính đạo lý, vừa mang tính
pháp lý được đảm bảo thực hiện bằng lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội và
cả các biện pháp cưỡng chế thi hành.
- Là một quan hệ phái sinh, chỉ phát sinh trong những điều kiện nhất định.
Luật Hôn nhân và gia đình nhằm mục đích cao nhất là góp phần xây
dựng gia đình hạnh phúc, hòa thuận và điều đó cần thiết cho sự phát triển bền
vững của xã hội. Các quy định của luật có tác dụng phòng ngừa và xử lý
14
- Xem thêm -