Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật th...

Tài liệu Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân

.PDF
53
135
88

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT ---------- LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CĂN CỨ TÍNH THUẾ THU NHẬP TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG CỦA CÁ NHÂN CƯ TRÚ TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Giảng viên hướng dẫn: Th.s: Nguyễn Minh Tâm Sinh viên thực hiện: Sơn Chúc Phương MSSV: 5095643 Lớp: Luật tư pháp 3 - K35 Cần Thơ, tháng 11/2012 NHẬN XÉT CỦA GIẢO VIÊN HƯỚNG DẨN …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… …………………………..…………………………..…………………………..…………………………..….………………… MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................... Error! Bookmark not defined. 1. Đặt vấn đề .............................................................. Error! Bookmark not defined. 2. Phạm vi nghiên cứu ............................................... Error! Bookmark not defined. 3. Mục tiêu nghiên cứu .............................................. Error! Bookmark not defined. 4. Phương pháp nghiên cứu ...................................... Error! Bookmark not defined. 5. Cấu trúc luận văn.................................................. Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG CỦA CÁ NHÂN CƯ TRÚ TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN............ Error! Bookmark not defined. 1.1. Khái quát về luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN)Error! Bookmark not defined. 1.1.1. Lịch sử phát triển của luât thuế thu nhập cá nhân .... Error! Bookmark not defined. 1.1.2. Khái niệm luật thuế thu nhập cá nhân .......... Error! Bookmark not defined. 1.1.3. Đặc điểm của luật thuế thu nhập cá nhân..... Error! Bookmark not defined. 1.1.4. Vai trò luật thuế thu nhập cá nhân ............... Error! Bookmark not defined. 1.2. Khái quát về thu nhập từ tiền lương, tiền công đối với cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân ....................................... Error! Bookmark not defined. 1.2.1. Khái niệm thu nhập từ tiền lương, tiền công Error! Bookmark not defined. 1.2.2. Đặc điểm thu nhập từ tiền lương, tiền công. Error! Bookmark not defined. 1.2.3. Vai trò và chức năng thu nhập từ tiền lương, tiền côngError! Bookmark not defined. CHƯƠNG II. CĂN CỨ TÍNH THUẾ (CCTT) ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG CỦA CÁ NHÂN CƯ TRÚ TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN.......................................................... Error! Bookmark not defined. 2.1. Thu nhập chịu thuế (TNCT) từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trúError! Bookmark not defined. 2.1.1. Cá nhân cư trú ............................................ Error! Bookmark not defined. 2.1.2. Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền côngError! Bookmark not defined. 2.1.2.1. Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công ........................................................................... Error! Bookmark not defined. 2.1.2.2. Các khoản phụ cấp, trợ cấp ................... Error! Bookmark not defined. 2.1.2.3. Tiền thù lao dưới các hình thức ............. Error! Bookmark not defined. 2.1.2.4. Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát hội đồng quản lý và các tổ chức.......... Error! Bookmark not defined. 2.1.2.5. Các khoản lợi ích mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc không bằng tiền ........................................................... Error! Bookmark not defined. 2.1.2.6. Tiền thưởng ........................................... Error! Bookmark not defined. 2.2. Các khoản giảm trừ ........................................... Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Giảm trừ gia cảnh ....................................... Error! Bookmark not defined. 2.2.1.1. Khái niệm giảm trừ gia cảnh ................. Error! Bookmark not defined. 2.2.1.2. Mức giảm trừ gia cảnh .......................... Error! Bookmark not defined. 2.2.1.3. Nguyên tắc tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc.....................29 2.2.1.4. Đối tượng là người phụ thuộc, mức thu nhập để xác định là người phụ thuộc ...............................................................................................................29 2.2.2. Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạoError! Bookmark not defined. 2.3. Biểu thuế, thuế suất và cách tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công ............................................................................ Error! Bookmark not defined. 2.3.1. Biểu thuế, thuế suất đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công......... Error! Bookmark not defined. 2.3.2. Cách tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền côngError! Bookmark not defined. CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤTError! Bookmark not defined. 3.1. Mức thu nhập làm căn cứ xác định người phụ thuộc .....Error! Bookmark not defined. 3.2. Mức giảm trừ gia cảnh ....................................... Error! Bookmark not defined. 3.3. Biểu thuế lũy tiến từng phần.........................................................................41 3.4. Bài toán áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần và mức giảm trừ mới . Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN ..............................................................................................................49 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân LỜI MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Những quy luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng phút điều chỉnh nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng quốc gia và bản thân mỗi chúng ta. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hoá nền kinh tế đang dần chứng tỏ là một quy luật của loài người tiến bộ. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với môi trường bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải cách về thuế luôn đươc các quốc gia chú trọng. Đối với Việt Nam sau khi được gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Organization - WTO) thì những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách sẽ là một điều không thể tránh khỏi. Thuế là một vấn đề nhạy cảm ở khắp mọi nơi trên thế giới không riêng gì Việt Nam, thế nhưng tính trên dân số hơn 80 triệu người đa số người dân chỉ quen trả thuế gián thu qua tiêu sài mua hàng hoá, ít người phải đóng thuế lợi tức. Chính vì thế bản dự thảo Luật thuế TNCN đã được bộ tài chính công bố ngày 05/09/2006, Quốc hội xem xét thông qua vào năm 2007 và có hiệu lực thi hành từ năm 2009. Trong thời gian gần đây hệ thống thuế nước ta đã có rất nhiều thay đổi nhằm thích nghi với điều kiện mới. Pháp lệnh Thuế TNCN ra đời năm 1991, cho đến nay qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung và đến thời gian hiện tại Chính Phủ đang nghiên cứu xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm phù hợp với qui luật xã hội, đó là một trong những minh chứng cho công cuộc cải cách thuế của Việt Nam. Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng. Nó đã ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát triển rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế và ngày càng khằng định được vai trò, chức năng là một nguồn thu quan trong trong ngân sách nhà nước và là công cụ góp phần đảm bảo công bằng xã hội một cách đắc lực. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn chỉnh Luật thuế TNCN là một việc làm cần thiết từ bây giờ. Bởi vậy, mong muốn được tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về thuế, em đã chọn đề tài: “Căn cứ tính thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong Luật thuế thu nhập cá nhân Việt Nam ”. Em mong muốn sau đề tài này em sẽ bổ sung được GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 1 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân hoàn chỉnh hơn về các kiến thức thuế TNCN nói chung và thuế TNCN ở Việt Nam nói riêng. 2. Phạm vi nghiên cứu Từ những kiến thức đã được học và tìm hiểu về các quy định của pháp luật, người viết xác định khi nghiên cứu đề tài này là sự khởi đầu của quá trình nghiên cứu pháp luật. Các quy định của pháp luật về căn cứ tính thuế TNCN là đối tượng nghiên cứu trong đề tài này. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết tập trung nghiên cứu về các quy định của pháp luật hiện hành về căn cứ tính thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong Luật Thuế TNCN đồng thời tìm hiểu về những vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật, từ đó có những đề xuất cụ thể hơn. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là để tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về Căn cứ tính thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong Luật thuế TNCN. Qua đó, việc tìm hiểu đề tài sẽ làm rõ thêm những điểm tiến bộ, đồng thời cho thấy những vấn đề còn tồn tại trong pháp luật hiện hành về nội dung nghiên cứu. Từ đó, người viết mong muốn đóng góp một số ý kiến (nếu có) nhằm góp phần hoàn thiện căn cứ tính thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong Luật thuế TNCN. 4. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, người viết chú trọng tìm hiểu về các quy định của pháp luật trong phạm vi nghiên cứu. Từ những quy định của pháp luật, người viết phân tích từng quy định cụ thể và đối chiếu với thực tiễn để từ đó đánh giá mức độ ứng dụng của pháp luật vào cuộc sống xã hội. Trong phạm vi hẹp của đề tài, người viết chọn phương pháp tổng hợp các phương pháp để nghiên cứu như: phương pháp phân tích câu chữ, phương pháp thu thập, thống kê, trích lọc các bài bình luận, phân tích liên quan đến Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong Luật thuế TNCN . 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài “Căn cứ tính thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong Luật thuế thu nhập cá nhân” người viết cấu trúc luận văn thành ba chương như sau: Chương I: Khái quát chung về thu nhập từ tiền lương, tiền công đối với cá nhân của cá nhân cư trú trong Luật thuế thu nhập cá nhân. Chương II: Căn cứ tính thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công đối với cá nhân của cá nhân cư trú trong Luật thuế thu nhập cá nhân. Chương III: Thực trạng và ý kiến đề xuất. GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 2 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, người viết đã trải qua khoảng thời gian học tập và nghiên cứu các văn bản luật, các tài liệu, sách báo, tạp chí có liên quan. Tất cả những nội dung trên đều được thực hiện nhờ công lao rất lớn của Quý Thầy, Cô đã giảng dạy trong nhà trường. Người viết muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Quý Thầy, Cô đã giảng dạy ở các Bộ môn trong cả khóa học, đặc biệt là Ths. Nguyễn Minh Tâm người đã đặt nền tảng ban đầu cho sự nghiên cứu này, người đã hướng dẫn người viết chu đáo và nhiệt tình trong thời gian qua. Người viết cũng bày tỏ lòng cảm ơn đối với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp... đã có những hỗ trợ rất thiết thực cho cả quá trình học tập và nghiên cứu cho đến ngày hôm nay. Xin trân trọng cảm ơn! GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 3 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG CỦA CÁ NHÂN CƯ TRÚ TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1.1 Khái quát về luật thuế thu nhập cá nhân 1.1.1. Lịch sử phát triển của luât thuế thu nhập cá nhân 1 Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển như Hà Lan, Anh, Pháp… vào đầu tiên ở vương quốc Anh, vào năm 1797, thuế TNCN được đưa vào thực hiện dưới hình thức khoảng thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến chống Napoleong ( Pháp ), được hoàn chỉnh và chính thức áp dụng năm từ 1942. Mức thuế TNCN được áp dụng ở Anh thời bấy giờ là 0,8333% đánh trên những khoản thu vượt quá 60 bảng Anh và tăng đến 10% đánh trên những khoản thu nhập vượt quá 200 bảng Anh. Thuế TNCN sau đó đã lan rộng và được một số quốc gia công nhận như Nhật Bản (1887), Mỹ ( 1913), Pháp (1914), Trung Quốc ( 1936)… Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, thuế TNCN ở Việt Nam có nguồn gốc từ rất lâu, từ thời kỳ chế độ Phong kiến. Điều này chứng tỏ thuế TNCN không chỉ có ý nghĩa đối với xã hội có nền kinh tế phát triển mà kể cả xã hội có nền kinh tế đang và chậm phát triển. Tuy nhiên ở mổi thời kì tùy vào đặc điểm của xã hội mà thuế TNCN có tên gọi và hình thức thể hiện khác nhau. Dưới thời kì Phong kiến thì nền kinh tế xã hội còn ở trình độ thấp và 90% dân số ở nước ta là nông thôn, hệ thống thuế cũng chưa phát triển hoàn chỉnh, xã hội thời kì đó chỉ tồn tại hai thứ thuế đó là thuế ruộng đất và thuế thân. Thuế thân thời bấy giờ thực chất là thuế TNCN, được ban hành từ thời Trần năm 1378. Loại thuế này được áp dụng cho tất cả công dân là nam giới từ 18 tuổi trở lên với mức là 3 tiền/ suất ( tương đương với 54kg thóc) và loại thuế đánh trên đầu người này gọi là thuế đinh.Thuế thân không phân biệt người có thu nhập cao hay thấp, cho dù là gia đình địa chủ hay là nông dân nghèo khổ đều nộp thuế như nhau. Mức thuế suất được thay đổi liên tục qua các triều đại vua cụ thể như: nhà Lê (1470) điều chỉnh mức thuế thân là 49kg thóc/ suất, thời Lê Trịnh (1964) là 64 kg thóc/ suất..Do sự bất hợp lý này nên dưới chế độ phong kiến thuế thân là một hình thức bóc lột giai cấp và là nổi kinh hoàng của đại bộ phận tầng lớp nông dân hơn là thể hiện vai trò điều chỉnh khoảng cách về TNCN và hạn chế sự bất công trong phân phối xã hội. Từ năm 1945, sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám, sắc lệnh đầu tiên về thuế được Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành ngày 07/9/1945 xóa bỏ những bất công của chính sách thuế khóa nặng nề thời kì đô hộ của thực dân Pháp theo đó thuế thân được bãi bỏ vĩnh viễn. 1 Phan Thị Cúc, Trần Phước, Nguyễn Thị Mỷ Linh – giáo trình thuế - nhà xuất bản thống kê năm 2007, trang GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 4 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, thuế lợi tức được áp dụng ở niền Nam Việt Nam theo quy định của chính quyền ngụy Sài Gòn và phân chia làm hai nhánh: thuế lợi tức cho cá nhân (hiện thân của thuế TNCN) và thuế lợi chức cho pháp nhân ( hiện thân của thuế thu nhập doanh nghiệp). Ở miền Bắc thu nhập dân cư còn thấp, thu nhập cầu tối thiểu được cung cấp theo chế độ tem, phiếu có tính định lượng nên nhà nước chưa có điều kiện áp dụng luật thuế TNCN. Năm 1975 khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nhà nước bắt tay vào khôi phục nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Dưới cơ chế kinh tế việc phân phối chủ yếu bằng hiện vật và không có điều kiện để tính toán thuế thu TNCN, do đó thuế lợi tức dành cho thể nhân đã áp dụng cho miền Nam trước đó cũng bãi bỏ. Công cuộc cải cách kinh tế bắt đầu năm 1986 với mục tiêu chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập chung sang cơ chế thị trường và có sự điều tiết của nhà nước. Do ảnh hưởng của cơ chế thị trường và chính sách mở cửa khuyến khích đầu tư nước ngoài, sự phát triển của nền kinh tế, trong xã hội xuất hiện một bộ phận dân cư có thu nhập cao và xã hội bắt đầu xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo. Chính vì thế mà tháng 12 năm 1990 Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao lần đầu tiên được ban hành nhằm điều chỉnh khoảng cách thu nhập của cá nhân và han chế những bất công trong phân phối thu nhập xã hội và tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước (NSNN). Từ khi ra đời đến nay pháp lệnh thuế thu nhập cao đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần vào các năm: 1992; 1993; 1994; 1997; 1999; 2001; 2004 và nội dung chủ yếu của các lần sửa đổi này là xoay quanh vấn đề mức khởi điểm chịu thuế, thuế suất và các vấn đề quản lí thuế để làm sao cho luật thuế TNCN thực sự phát huy vai trò là công cụ điều tiết thu nhập góp phần thực hiện công bằng xã hội và nâng cao quản lí thuế. Một trong những nội dung điều chỉnh chính sách, pháp luật thuế hiện hành đó là nghiên cứu xây dưng và ban hành Luật thuế TNCN ở Việt Nam thay thế cho thuế thu nhập đối với người có thu hập cao. Luật thuế TNCN đã được kì họp thứ hai năm 2007, Quốc hội khóa XII thông qua và có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2009. 1.1.2. Khái niệm luật thuế thu nhập cá nhân Thuế TNCN là loại thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá nhân nhằm thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân vào NSNN và có thể được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc khuyến khích làm việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay không thu thuế đối với các khoản thu nhập từ kinh doanh hay tiền lương, tiền công, đầu tư 2… Thuế TNCN là một trong những sắc thuế không thể thiếu của các quốc gia có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường để thực hiện công bằng xã hội. Các nước có nền 2 Lê Thị Nguyệt Châu, giáo trình luật thuế, trường Đại học Cần Thơ năm 2007, trang 22. GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 5 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân kinh tế thị trường đều lựa chọn hệ thống thuế gồm nhiều sắc thuế để thỏa mãn được các yêu cầu đặt ra, nhằm ổn định nguồn thu cho NSNN và đảm bảo công bằng xã hội. Trong đó thuế TNCN là loại thuế trực thu được Nhà nước sử dụng như một công cụ hiện hữu để điều hòa, phân phối lại thu nhập, thực hiện công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, quá trình phân phối thu nhập luôn không bình đẳng, có trường hợp người nghèo lại càng nghèo và giàu thì càng giàu, hình thành nên hai thế cực ngày càng xa nhau, nguy cơ tạo ra sự đối lập của các tầng lớp dân cư dẫn đến xã hội mất ổn định. Mặt khác thành quả phát triển kinh tế là sự nổ lực của các cộng đồng, do đó nhà nước hiện đại trong nền kinh tế thị trường với chức năng can thiệp, điều chỉnh kinh tế, thiết lập khuôn khổ pháp luật, buột phải sử dụng thuế TNCN với biểu thuế lũy tiến từng phần để lập lại trong phân phối thu nhập, ổn định kinh tế, xã hội. Thông qua thuế TNCN người có thu nhập cao thì đóng thuế cao, người có thu nhập thấp sẽ đóng thuế ít hơn hoặc không phải đóng thuế. Tác dụng điều chỉnh, phân phối thu nhập của thuế được biểu hiện trong phạm vi rộng lớn ở cả hai mặt thu và chi. Nhà nước đóng vai trò trung tâm phân phối thu nhập của những người có thu nhập cao một mặt nhằm huy động thu nhập của những người có thu nhập cao để chi cho các chương trình phúc lợi, công cộng – xã hội. Mặt khác bớt một phần thu nhập của tầng lớp giàu có sang cho các tầng lớp nghèo khó có mức sống thấp. Thuế TNCN trên thế giới thông thường đánh vào cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh. Thuế này được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miển, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt. Mục đích của việc ban hành thuế TNCN Sự ra đời của luật thuế TNCN bắt nguồn từ hai yêu cầu chính là thực hiện công bằng xã hội và phát triển nguồn thu NSNN phục vụ cho yêu cầu chi tiêu ngày càng nhiều của nhà nước. Chính vì vậy mục đích của việc áp dụng luật thuế TNCN không nằm ngoài hai yêu cầu sau: Tạo nguồn tài chính cho NSNN: thuế TNCN có diện chịu thuế rộng cùng với sự phát triển kinh tế thu nhập của cá nhân trong xã hội ngày càng phát triển và tất nhiên là khả năng huy động thuế ngày càng lớn. Thực hiện công bằng xã hội: với biểu thuế lũy tiến từng phần, cá nhân có mức thu nhập đến mức chịu thuế mới nộp thuế và và có thu nhập càng cao thì chịu thuế suất càng cao góp phần tạo sự công bằng xã hội cả chiều dọc lẩn chiều ngang. Ngoài ra, luật thuế TNCN đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư để khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng. Mức động viên thuế TNCN phù hợp với khả năng thu nhập của mổi người. GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 6 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân Việc ban hành và áp dụng Luật thuế TNCN có tính đến những bước đi phù hợp với tình hình nước ta và thông lệ quốc tế; kế thừa có chọn lọc chính sách hiện hành. Để phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới, việc xây dựng, ban hành và áp dụng Luật thuế TNCN cần phải có lộ trình, bước đi thích hợp phù hợp với thực tiển ở Việt Nam, thông lệ quốc tế và kế thừa có chọn lọc những quy định trong chính sách thuế hiện hành.3 1.1.3. Đặc điểm của luật thuế thu nhập cá nhân Sự ra đời của Luật thuế TNCN bắt nguồn từ hai yếu tố cơ bản đó là thể hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội và nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế TNCN có những đặc điểm sau: - Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế và Nhà nước thu tiền thuế trực tiếp của các chủ thể trong nền kinh tế. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng nộp thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế TNCN không thể nào chuyển giao gánh nặng về thuế cho người khác tại thời điểm đánh thuế vì vậy người lập thuế cần nhận rỏ về gánh nặng này. - Thuế TNCN tạo ra nguồn thu lớn cho NSNN của các quốc gia, đặt biệt đối với các nước phát triển vì vậy là loại thuế có diện thu thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: thứ nhất, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập có trong nước hay nước ngoài; thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm công nhân ở nước sở tại và những người cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức quy định của pháp Luật thuế TNCN - Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế thu nhập doanh nghiệp ( TNDN) ở chổ có tính chất tất yếu gắn với chính sách xã hội của mổi quốc gia cho dù quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng một chính sách thuế có tính trung lập không nhằm nhiều mục tiêu khác nhau. Thể hiện nó luôn quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như khoản thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi mang tính nhân đạo xã hội … - Biểu thuế TNCN thường là biểu thuế lũy tiến từng phần trên thu nhập chịu thuế (TNCT), nghĩa là số thuế phải nộp tăng lên một cách lũy tiến theo mức TNCT tăng thêm của các cá nhân.Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội, người có thu nhập cao hơn 3 Bộ Tài Chính , sự cần thiết và mục tiêu, yêu cầu xây dựng luật thuế TNCN tạp chí tài chính tháng 10/2006, trang 09. GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 7 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân thì trước và sau khi nộp thuế họ vẩn có một khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế. - Thuế TNCN có góc độ kỷ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội. Việc quản lí thuế cần nguồn nhân lực có trình độ cao, chi phí quản lí thuế lớn. Cơ quan quản lí thuế phải nắm được các nguồn thu nhập của người chịu thuế, thời hạn cư trú của họ ở Việt Nam… - TNCT được xác định tùy theo quy định cụ thể của mỗi quốc gia, thông thường là tổng thu nhập của một năm hoặc là phần thu nhập sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập đó và các khoản chiết trừ hoàn cảnh của từng cá nhân. Việc sử dụng biểu thuế lũy tiến từng phần và TNCT phản ánh đúng khả năng kinh tế của người nộp thuế, đảm bảo công bằng xã hội đồng thời khuyến khích mọi người tích cực lao động, gia tăng thu nhập làm giàu cho gia đình và xã hội. - Nhà nước có thể sử dụng loại thuế này để khuyến khích làm việc hay nghỉ ngơi thông qua biểu thuế. Ví dụ như nhà nước có thế khuyến khích người lao động làm thêm giờ giúp tăng thêm thu nhập cho họ và nhà nước sử dụng chính sách đánh thuế với mức nhẹ lên khoản thu nhập đó và có thể khuyến khích nghỉ ngơi bằng cách đánh thuế nặng lên khoản thu nhập đó. 1.1.4. Vai trò luật thuế thu nhập cá nhân Từ sự nhìn nhận theo các góc độ trên, có thể thấy vai trò của thuế TNCN như sau: - Thuế TNCN là một công cụ cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để kiểm soát thu nhập dân cư, Nhà nước phải sử dụng cả hai cơ chế quản lí tiền lương tiền công, chế độ báo cáo quyết toán kinh doanh …và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN, tuy ban đầu có thể chưa chính xác nhưng sẽ là căn cứ để thống kê thu nhập dân cư để phục vụ chương trình mục tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định chính sách phát triển phù hợp tính tuân thủ pháp luật, pháp chế xã hội được nâng lên. Vai trò thực hiện công bằng xã hội thể hiện ở chổ trong mỗi quốc gia, thu nhập mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như khả năng và trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên, các yếu tố nói trên của mỗi cá nhân thường không giống nhau nên đã tạo ra thu nhập khác nhau về thu nhập của mỗi người. Chính sự khác nhau ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã dùng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau trong đó luật thuế TNCN được xem như một công cụ hữu hiệu để điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội. Thông qua các cơ chế và công cụ quản lí đó mà Nhà nước sẽ có giải pháp để điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư làm cho tổng cầu của xã hội giảm hoặc tăng, từ đó có GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 8 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân tác dụng co hẹp hay kích thích kinh tế phát triển. Đó chính là vai trò quản lí điều tiết nền kinh tế mà chính sách thuế TNCN góp phần tác động đáng kể. - Thuế TNCN ngày càng trở thành nguồn thu đáng kể của NSNN, dù không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực hiện phát triển chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là việc tạo lập và phát triển nguồn thu vững chắc cho NSNN. Cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và phát triển, thu nhập quốc doanh đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy động nguồn thu cho NSNN thông qua thuế TNCN sẽ ngày càng tăng và ngày càng dồi dào. Thực tế tỉ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu Ngân sách của nhiều quốc gia đã phản ánh tiến trình đó, tại các nước khối ASEAN tỉ trọng thu thuế TNCN đạt 5 – 10% tổng thu Ngân sách, các nước phát triển đạt tới 1- 16%, có nước đạt đến 30- 40% tổng thu NSNN như ở Anh và Mỷ… Tại Việt Nam, tiếp cận chính sách thu còn phân tán ở nhiều sắc thuế nhưng cũng có kết quả tăng trưởng thu khá lớn, năm 2007 thu hơn 7000 tỷ đồng, năm 2009 tăng gấp đôi lên 14.300 tỷ đồng, năm 2010 tăng gần 25.000 tỷ đồng.4 - Xây dựng và phát triển, hoàn thiện chính sách thuế TNCN là góp phần hoàn thiện chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu bền vững và hội nhập kinh tế thế giới. Việc ban hành Luật thuế TNCN là bước thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng về lĩnh vực tài chính tiền tệ đồng thời là bước đi phù hợp lộ trình cải cách thuế theo mục tiêu chiến lược đã hoạch định.5 1.2. Khái quát về thu nhập từ tiền lương, tiền công đối với cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân 1.2.1. Khái niệm thu nhập từ tiền lương, tiền công "Thu nhập " là các khoản thu được từ đầu tư như lợi nhuận, cổ tức, lãi, tiền hoa hồng… và có thể hiểu thu nhập là tổng số tiền mà một người, một gia đình, một tổ chức, một doanh nghiệp hay một pháp nhân kiếm được trong một ngày, một tuần hay một tháng. Trong thực tế, khái niệm và cơ cấu tiền lương rất đa dạng ở các nước trên thế giới. tiền lương có thể có nhiều tên gọi khác nhau như thù lao lao động, thu nhập lao động… Ở Pháp sự trả công được hiểu là tiền lương, hoặc lương bổng cơ bản, bình thường hay tối thiểu và mọi thứ lợi ích, phụ khoản khác, được trả trực tiếp hay gián tiếp bằng tiền hay bằng hiện vật, mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo việc làm của người lao động. 4 Báo tuổi trẻ, thứ 4 ngày 09 tháng 11 năm 2011, trang 17 5 Phan Thị Cúc, Trần Phước, Nguyễn Thị Mỷ Linh – giáo trình thuế - nhà xuất bản thống kê năm 2007 GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 9 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân Đài Loan, tiền lương chỉ mọi khoản thù lao mà người công nhân được nhận do làm việc; bất luận là dùng tiền lương, lương bổng, phụ cấp có tính chất lương, tiền thưởng hoặc dùng mọi danh nghĩa khác để trả cho họ theo giờ, ngày, tháng, theo sản phẩm. Nhật Bản, tiền lương, bất luận được gọi là tiền lương, lương bổng, tiền được chia lãi hoặc bằng những tên gọi khác, là chỉ thù lao lao động mà người sử dụng lao động chi trả cho công nhân. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất luận tên gọi hay cánh tính thế nào, mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc bằng pháp luật, pháp quy quốc gia, do người sử dụng lao động phải trả cho người lao động theo một hợp đồng lao động bằng văn bản hay bằng miệng, cho một công việc đã thực hiện hay sẽ phải thực hiện. Bản chất của tiền lương cũng thay đổi theo điều kiện, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và nhận thức của con người. Trước đây tiền lương thường được coi là giá cả của sức lao động trong nền kinh tế thị trường. Giờ đây với việc áp dụng quản trị nguồn nhân lực vào trong doanh nghiệp, tiền lương không phải đơn thuần chỉ là giá cả của sức lao động nửa. Quan hệ giữa người sử dụng sức lao động và người lao động đã có sự thay đổi căn bản. Và việc áp dụng nguồn nhân lực này vào trong doanh nghiệp, quan hệ này có thể chuyển từ hình thức bóc lột, mua bán hàng hóa sang hình thức quan hệ hợp tác song phương, đôi bên cùng có lợi. Ở Việt Nam, hiện nay có sự phân biệt các yếu tố trong tổng thu nhập của người lao động từ công việc: tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng và phúc lợi. Theo quan điểm cải cách tiền lương năm 1993, tiền lương là giá cả sức lao động, được hình thành thông qua thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị trường. Tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định. 6 Như vậy, tiền lương, tiền công được hiểu là số tiền mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động của họ thanh toán lại tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã tiêu hao trong quá trình tạo ra của cải cho xã hội. 1.2.2. Đặc điểm thu nhập từ tiền lương, tiền công Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), việc đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ là một mục tiêu quan trọng. Do vậy tiền lương không bị hạ thấp một cách quá đáng hoặc quá linh hoạt, trái lại, nó dừng ở một mức vừa phải và có tính ổn định và tiền lương, tiền công có những đặc điểm sau7: 6 7 Điều 55 Bộ luật Lao động Việt Nam 1994, sủa đổi, bổ sung năm 2007. Lí luận chung về tiền lương thu nhập, Học viện Tài chính Quốc gia ngày 23 tháng 8 năm 2010, trang 6. GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 10 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiền lương, tiền công có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức tăng lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề để tăng tiền lương, thu nhập, nâng cao mức sống của người làm công ăn lương và do vậy lợi nhuận phải được thực hiện trên cơ sở tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, không dựa trên việc khai, bóc lột sức lao động. - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc tăng tiền lương, tiền công cần thiết phải đạt được trên cơ sở tăng cường mối liên kết giữa lao động và quản lý, tiến tới sự kết hợp hài hoà của các lợi ích, trên cơ sở các bên cùng có lợi, cùng chia sẽ lợi ích. - Phân phối tiền lương, tiền công và thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phản ánh sự chênh lệch về số lượng và chất lượng lao động thực hiện. Tiền lương không đơn thuần thể hiện chi phí đầu vào, mà còn thể hiện cả kết quả của đầu ra. - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước tham gia một cách tích cực và chủ động vào quá trình phân phối (bao gồm phân phối lần đầu và phân phối lại). Tuy nhiên, Nhà nước thực hiện sự phân chia tiền lương, tiền công thông qua hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế, xã hội vừa bảo đảm hạn chế sự bóc lột và tiêu cực trong kinh doanh của người chủ đồng thời khuyến khích lợi ích chính đáng, tính tích cực, sáng tạo của họ. - Việc làm, an toàn việc làm và an sinh xã hội là mối quan tâm của người lao động, do đó mức tiền lương, tiền công cần phải đủ lớn để duy trì cuộc sống của họ trong ngày hôm nay và cho cả khi họ không có sức lao động. Nói cách khác, tiền lương cần bao gồm cả tiền lương cơ bản và một phần cho an sinh xã hội phòng khi thất nghiệp. Về thực chất tiền lương này cao hơn so với tiền lương của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. - Tiền lương, tiền công bị chi phối không những bởi quy luật giá trị, quy luật cung cầu lao động mà còn bị chi phối bởi các qui luật kinh tế khác, trong đó có qui luật về mức sống tối thiểu. - Tiền lương, tiền công có tính bảo đảm cao, không những bảo đảm mức sống cho người lao động trong quá trình làm việc mà còn bảo đảm cho họ có mức sống khi suy giãm sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn. - Tiền lương, tiền công dựa trên điều kiện lao động tốt, các tiêu chuẩn lao động và chế độ làm việc ngày càng được hoàn thiện. - Tiền lương, tiền công linh hoạt tương đối, không những thể hiện giá trị lao động mà cả hiệu suất lao động do sự tham gia của người lao động vào quá trình phân phối lần đầu và lần hai trong nội bộ doanh nghiệp. - Mức tiền lương, tiền công tăng dựa trên sự khai thác các yếu tố tiềm năng trong sản xuất. Tiền lương là kết quả của mối liên kết quản lý lao động, không dựa vào sự chiếm đoạt của người sử dụng lao động đối với người lao động. 1.2.3. Vai trò và chức năng thu nhập từ tiền lương, tiền công GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 11 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân Tiền lương, tiền công là nguồn thu nhập chính của người lao động, là yếu tố để đảm bảo tái sản xuất sức lao động, một bộ phận đặc biệt của sản xuất xã hội. Vì vậy, tiền lương, tiền công đóng vai trò quyết định trong việc ổn định và phát triển kinh tế gia đình. Ở đây, trước hết tiền lương, tiền công phải đảm bảo những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của người lao động như ăn, ở, đi lại… Tức là tiền lương, tiền công phải đủ để duy trì cuộc sống tối thiểu của người lao động. Chỉ có khi được như vậy, tiền lương, tiền công mới thực sự có vai trò quan trọng kích thích lao động, và nâng cao trách nhiệm của người lao động đối với quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Đồng thời, chế độ tiền lương, tiền công phải phù hợp với sức lao động đã hao phí sẽ đem lại sự lạc quan và và tin tưởng vào doanh nghiệp, vào chế độ họ đang sống. Tiền lương, tiền công trong nền kinh tế thị trường được gắn với những vai trò sau: Trước hết tiền lương, tiền công có vai trò đối với sự sống của con người lao động, từ đó trở thành đòn bẩy kinh tế để nó phát huy nội lực tối đa hoàn thành công việc. Khi người lao động được hưởng thu nhập xứng đáng với công sức của họ đã bỏ ra thì lúc đó với bất kỳ công việc gì họ cũng sẽ làm. Như vậy có thể nói tiền lương đã góp phần quan trọng giúp nhà tổ chức điều phối công việc dễ dàng thuận lợi. Trong doanh nghiệp việc sử dụng công cụ tiền lương, tiền công ngoài mục đích tạo vật chất cho người lao động, tiền lương, tiền công còn có ý nghĩa lớn trong việc theo dõi kiểm tra và giám sát người lao động. Tiền lương,tiền công được sử dụng như là thước đo hiệu quả công việc bản thân tiền lương, tiền công là một bộ phận cấu thành bên chi phí sản xuất, chi phí bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp. Vì vậy, nó là yếu tố nằm trong giá thành sản phẩm. Do đó, tiền lương, tiền công cũng ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Với nhũng vai trò to lớn như trên của tiền lương trong sản xuất và đời sống thì việc lựa chọn hình thức trả lương phù hợp với điều kiện, đặc thù sản xuất của từng ngành, từng doanh nghiêp sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy người lao động quan tâm đến kết quả lao động, hiệu quả sản xuất của kinh doanh. Đây luôn luôn là vấn đề nóng bỏng trong tất cả các doanh nghiệp một chế độ tiền lương lý tưởng vừa đảm bảo lợi ích người lao động, người sử dụng lao động và toàn xã hội. Con người có một vị trí quan trọng trong quá trình sản xuất, con người là yếu tố cấu thành, vận hành nên tổ chức sản xuất. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế đã kết luận: động cơ lao động bắt nguồn từ hệ thống nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người, họ lao động với mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân, của xã hội. Nhu cầu của con người ngày càng phong phú, đa dạng có thể nói nhu cầu của con người là không có giới hạn và tiền lương, tiền công có những chức năng sau: Tiền lương đảm bảo đủ chi phí để tái sản xuất sức lao động. Theo Các Mác "Tiền lương không chỉ nuôi sống bản thân người công nhân mà còn phải dư đủ để nuôi sống gia đình anh ta, tiền lương phải đảm bảo để duy trì sức lao động”. GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 12 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân Đảm bảo vai trò kích thích của tiền lương. Vì động cơ của tiền lương, người lao động phải có trách nhiệm đối với công việc, tiền lương phải tạo được sự say mê công việc, không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, kiến thức chuyên môn, kỷ năng. Đảm bảo vai trò điều phối lao động. Với tiền lương được thỏa đáng người lao động sẽ tự nguyện đảm nhận mọi công việc được giao phù hợp với khả năng của bản thân mình. Vai trò quản lý lao động của tiền lương, Doanh nghiệp sử dụng công cụ tiền lương không chỉ với mục đích tạo điều kiện vật chất cho người lao động mà còn mục đích khác nữa là thông qua trả lương để theo dõi lao động, kiểm tra, giám sát người lao động, đánh giá chất lượng người lao động, đảm bảo tiền lương chi trả có hiệu quả.. GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 13 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân CHƯƠNG II. CĂN CỨ TÍNH THUẾ ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG CỦA CÁ NHÂN CƯ TRÚ TRONG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 2.1. Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú Theo quy định của pháp luật “công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật” 8. Đây là nghĩa vụ của mỗi công dân, chúng ta hảy góp một phần công sức của mình vào Ngân sách nhà nước, giúp đất nước phát triển và tạo phúc lợi xã hội…Điều 3 luật Thuế TNCN quy định các khoản thu nhập chịu thuế (TNCT), trước hết ta hảy làm rỏ thế nào là TNCT? TNCT là thu nhập mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nộp thuế tương đương với mức thu nhập đó theo quy định của pháp luật. Ở đây với phạm vi nghiên cứu của đề tài người viết chỉ bàn về TNCT từ thu nhập tiền lương, tiền công được quy định ở khoản 2, điều 3 Luật thuế TNCN. 2.1.1. Cá nhân cư trú Trước hết ta sẽ làm rõ thế nào là cá nhân cư trú? Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong hai điều kiện sau đây, quy định tại khoản 1, mục I, phần A Thông tư 84/2008/TT- BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân (sau đây gọi là Thông tư 84/2008/TT- BTC). Thứ nhất, có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, trong đó, ngày đến và ngày đi được tính là 01 (một) ngày. Ngày đến và ngày đi được xác định căn cứ vào chứng thực của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) của cá nhân đó khi đến và khi rời Việt Nam. Trường hợp nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày thì được tính chung là một ngày cư trú. Trường hợp cá nhân có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch, ta có thể hiểu rằng vấn đề này được tính từ ngày đầu tiên của năm (ngày 01 tháng 01) và kết thúc là cuối năm (ngày 31 tháng 12) trong năm. Ví dụ, năm 2009 Tổng công ty xây dựng của Trung Quốc ở Việt Nam thắng thầu, nhận xây dựng những cây cầu từ Cần Thơ đến Cà Mau. Ngày 01 tháng 01 năm 2010 công ty xây dựng Trung Quốc mời cá nhân A mang quốc tịch Nhật là chuyên gia tư vấn xây dựng sang Việt Nam làm việc, trong thời gian ở Việt Nam cá nhân A đã đến và sống rất nhiều tỉnh từ Cần Thơ đến Cà Mau. Sau khi hoàn tất công việc tư vấn, ngày 30 tháng 11 năm 2010 A đã trở về Nhật. Như vậy A đã trở thành cá nhân cư trú vì A đã thỏa điều kiện là có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trong năm trở lên. 8 Điều 80 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 14 SVTH: Sơn Chúc Phương Căn cứ tính thuế thu nhập tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú trong luật thuế thu nhập cá nhân Thứ hai, có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau: * Có nơi ở đăng ký thường trú theo quy định của pháp luật về cư trú: Đối với công dân Việt Nam: nơi ở đăng ký thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký cư trú theo quy định của Luật cư trú. Đối với người nước ngoài: nơi ở thường xuyên của người nước ngoài là nơi đăng ký và được ghi trong Thẻ thường trú hoặc Thẻ tạm trú do cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an cấp. * Có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế, cụ thể như sau: Cá nhân chưa hoặc không có nơi ở được đăng ký thường trú, hoặc không được cấp Thẻ thường trú, Thẻ tạm trú theo hướng dẫn nêu trên, nhưng có tổng số ngày thuê nhà theo hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế cũng thuộc đối tượng là cá nhân cư trú, kể cả trường hợp thuê ở nhiều nơi. Nhà thuê để ở bao gồm cả trường hợp ở khách sạn, ở nhà khách, nhà nghỉ, nhà trọ, ở nơi làm việc, ở trụ sở cơ quan,... không phân biệt cá nhân tự thuê hay người sử dụng lao động thuê cho người lao động. 2.1.2. Thu nhập chịu thuế (TNCT) từ tiền lương, tiền công 2.1.2.1. Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công Tiền lương, tiền công được hiểu là số tiền mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động, họ được thanh toán lại tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã tiêu hao trong quá trình tạo ra của cải cho xã hội. Trong xã hội, tiền lương, tiền công là vấn đề khá phổ biến, nó gắn liền với người người sử dụng lao động và người lao động. Trong doanh nghiệp, người sử dụng lao động họ luôn cân nhắc trong việc trả lương cho người lao động, nếu họ trả lương cao cho người lao động mà tổng doanh thu doanh nghiệp cao thì rất bình thường. Nhưng nếu họ trả lương cho người lao động cao nhưng tổng doanh thu của doanh nghiệp thấp thì đó là cả vấn đề và ngược lại nếu trả lương thấp cho người lao động thì có thể người lao động sẽ không tồn tại trong doanh nghiệp hoặc nếu tồn tại thì năng suất công việc có hiệu quả cao không? Còn phía người lao động, họ luôn mong muốn được hưởng lương cao, có tính công bằng và những phúc lợi xã hội khác…vì đó là sự sống của họ, vì thu nhập đó nó nuôi sống bản thân và gia đình họ. Để đảm bảo cuộc sống của người lao động luật thuế TNCN hiện hành đã quy định rỏ về mức TNCT mà người tạo ra thu nhập phải nộp thuế. 2.1.2.2. Các khoản phụ cấp, trợ cấp GVHD: Th.s Nguyễn Minh Tâm 15 SVTH: Sơn Chúc Phương
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan