CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG "SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC"
NĂM 2007
Tên công trình:
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT
TRONG "THANH HIÊN THI TẬP
VÀ "NAM TRUNG TẠP NGÂM" CỦA NGUYỄN DU
Thuộc nhóm ngành: XH2a
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG "SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC"
NĂM 2007
Tên công trình:
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT
TRONG "THANH HIÊN THI TẬP
VÀ "NAM TRUNG TẠP NGÂM" CỦA NGUYỄN DU
Thuộc nhóm ngành: XH2a
MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU ..................................................................................... 3
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ......................................................................................... 3
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ................................................................................................ 4
3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI ............................................................................................... 5
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................... 6
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI – KẾT CẤU ĐỀ TÀI ................................................ 6
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG ..................................................................................... 7
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................ 7
1. Thời đại - gia thế và cuộc đời Nguyễn Du ......................................................... 7
1.1. Thời đại Nguyễn Du ................................................................................... 7
1.2. Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du .................................................................. 8
2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du ................................................................................... 9
2.1. "Thanh Hiên thi tập" ................................................................................. 10
2.2. "Nam Trung tạp ngâm": ............................................................................ 10
2.3. "Bắc hành tạp lục" .................................................................................... 10
3. Cảm hứng nghệ thuật dƣới mắt các nhà lý luận............................................... 11
3.1. Khái niệm cảm hứng ................................................................................. 11
3.2. Cảm hứng nghệ thuật ................................................................................ 11
CHƢƠNG II: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG "THANH HIÊN THI TẬP"
VÀ "NAM TRUNG TẠP NGÂM" CỦA NGUYỄN DU ................................................... 13
Trang 1
1. Cảm hứng trữ tình ............................................................................................ 13
1.1. Buồn hận và cô độc ................................................................................... 13
1.2. Bức chân dung tự họa ............................................................................... 16
1.3. Nỗi nhớ quê hƣơng và ngƣời thân ............................................................ 18
1.4. Sự trôi nhanh của thời gian ....................................................................... 19
1.5. Cuộc đấu tranh giữ mình........................................................................... 21
2. Cảm hứng hiện thực ......................................................................................... 25
2.1. Những nghịch lý cuộc đời ......................................................................... 25
2.2. Danh lợi chốn quan trƣờng ....................................................................... 29
CHƢƠNG III: VÀI NÉT ĐẶC SẮC VỀ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN CẢM
HỨNG NGHỆ THUẬT ....................................................................................................... 31
1. Những biểu tƣợng nghệ thuật .......................................................................... 31
2. Giọng điệu nghệ thuật ...................................................................................... 38
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN ..................................................................................... 42
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 43
Trang 2
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Nhắc tới Nguyễn Du, ngƣời ta nghĩ ngay đến "Truyện Kiều" - một dấu son chói
lọi trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nhƣng sẽ thật thiếu sót nếu nhƣ chúng ta chỉ nhắc đến
"Truyện Kiều" mà quên dành cho thơ chữ Hán Nguyễn Du sự quan tâm và một vị trí xứng
đáng. Những áng thơ chữ Hán của ông đƣợc đánh giá là "mới lạ, độc đáo trong một nghìn
năm thơ chữ Hán của ông cha ta" cũng nhƣ so với mấy ngàn năm thơ chữ Hán của Trung
Quốc nữa [dẫn theo tr.3; 24].
"Về phương diện kết tinh nghệ thuật, thơ chữ Hán Nguyễn Du đã đạt đến trình độ cổ
điển, đỉnh cao của nền văn học trung đại Việt Nam ". Mặt khác "về tư tưởng, thơ chữ Hán
của ông như một khối trầm tích lớn, phần chìm cùa tảng băng trôi" [tr. 11; 1]. Nếu nhƣ ở
Truyện Kiều, tâm tình Nguyễn Du đƣợc bộc lộ gián tiếp, đƣợc ánh xạ qua sự kể chuyện
khách quan thì thơ chữ Hán đƣợc xem là nơi giải bày trực tiếp tấm lòng của ông, ghi dấu
trung thành những sự biến trong cuộc đời thăng trầm của nhà thơ.
Lựa chọn đề tài "Cảm hứng nghệ thuật trong "Thanh Hiên thi tập" và "Nam trung
tạp ngâm" của Nguyễn Du, ngƣời viết muốn nhận diện sâu sắc hơn về một bản sắc thơ độc
đáo đã chiêm một vị trí đặc biệt quan trọng trên văn đàn văn học dân tộc giai đoạn cuối thế
kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và tầm vóc tƣ tƣởng thơ chữ
Hán Nguyễn Du đã đóng góp lớn lao vào tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
1.2. Thực hiện đề tài này, ngƣời viêt bƣớc đầu làm quen với công việc nghiên cứu
khoa học - một công việc đòi hỏi tính nghiêm túc, khoa học cao. Mặt khác, bên cạnh "Truyện
Kiều", thơ chữ Hán Nguyễn Du đã đƣợc đƣa vào giảng dạy ở trƣờng phổ thông. Đây là lĩnh
vực còn mới mẻ và gây không ít khó khăn đối với giáo viên. Vì vậy việc thực hiện đề tài này
sẽ giúp ngƣời viết trang bị cho
Trang 3
mình những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết nhằm phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy ở
trƣờng phổ thông sau này.
1.3. Đề tài "Cảm hứng nghệ thuật trong "Thanh Hiên thi tập" và "Nam trung tạp
ngâm" của Nguyễn Du" thực sự đã gây hứng thú cho ngƣời viết ngay từ những buổi đâu tập
hợp tƣ liệu. Điều đó đã trở thành động lực trong suốt quá trình ngƣời viết thực hiện khoa
luận.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Về mảng thơ chữ Hán, ngƣời viết chỉ chú ý điểm qua những công trình nghiên cứu từ
sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
Năm 1965, một công trình nghiêm túc đáng đƣợc chú ý ra mắt vào dịp kỷ niệm 200
năm năm sinh Nguyễn Du. Đó là cuốn "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" do Lê Thƣớc, Trƣơng
Chính sƣu tầm, hiệu đính và chú thích với 249 bài thơ.
Đến năm 1978, cuốn sách trên đƣợc tái bản, nhà xuất bản Vãn học ấn hành. Trong
phần giới thiệu, Trƣơng Chính nhận xét: Thơ chữ Hán Nguyễn Du, "bài nào cũng chứa đựng
một lời tâm sự " và "bộc lộ thái độ sống của ông một cách rõ nét".
Nguyễn Lộc trong cuốn "Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ
XIX" có những nhận định xác đáng về tâm sự của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán: "Buồn
thương như một tiếng đàn réo rắt, não ruột vang lên trong hầu hết các thi phẩm của ông" [tr.
304; 10].
Năm 1960, Hoài Thanh trong bài viết "Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ
Hán" khẳng định: "Các điều rõ ràng là Nguyễn Du không bằng lòng với toàn bộ cuộc đời lúc
bấy giờ" [tr. 35; 5].
Năm 1966, trong một bài viết có tên "Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán"
đăng trên Tạp chí Văn học, Xuân Diệu tỏ ra sắc sảo khi cho rằng: "Chính thơ chữ Hán chứa
đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du" [tr.
44; 5].
Ở bài viết "Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán". Nguyễn
Huệ Chi đã chú ý đến mặt trữ tình trong cảm hứng nghệ thuật
Trang 4
Nguyễn Du: "Thơ chữ Hán khắc họa cái hình ảnh trữ tình của chỉnh Nguyễn Du, một hình
ảnh rất động trước mọi biến cổ của cuộc đời" [tr. 57; 5]. Nguyễn Huệ Chi dành sự quan tâm
đến một cảm hứng khác của Nguyễn Du là: "Xót thương cho một loại người có tài và có tình"
[tr. 71; 5].
Trong luận án "Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng và dị biệt về tư tưởng
nghệ thuật", Hoàng Trọng Quyền nhấn mạnh "cảm quan hiện thực" của Nguyễn Du trong
sáng tác chữ Hán, thể hiện ở hai khía cạnh của "cái nhìn hiện thực" là "cải nhìn từ những
nghịch lý" và "cải nhìn chiều kích".
Xét về phƣơng diện nghệ thuật, công trình nghiên cứu đáng lƣu ý là cuốn "Đặc điểm
nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du" của Lê Thu Yến. Công trình này tiến hành những khảo
sát cụ thể, những chất liệu minh họa và phân tích phạm trù: hình ảnh con ngƣời nghệ thuật,
không gian và thời gian nghệ thuật. Qua đó, tác giả Lê Thu Yến nhận thấy: "có rất nhiều
Nguyễn Du trong một Nguyễn Du".
Trên đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du có đề
cập hoặc có liên quan trực tiếp đến đề tài cảm hứng nghệ thuật. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu
kết quả của những ngƣời đi trƣớc, chúng tôi bắt đầu sắp xếp, hệ thống lại và phân tích rõ hơn
nhằm làm sáng tỏ yêu cầu của đề tài.
3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Do điều kiện thời gian và tài liệu hạn chế, chúng tôi chọn khảo sát các tác phẩm thơ
chữ Hán Nguyễn Du đƣợc trích trong cuốn "Nguyễn Du - tác phẩm và lịch sử văn bản" do
Nguyễn Thạch Giang và Trƣơng Chính biên khảo và chú giải, nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh
ấn hành, tái bản năm 2000. Đây là cuốn sách đƣợc đánh giá là có độ tin cậy cao. Ngƣời viết
tiến hành khảo sát thơ chữ Hán trong hai tập "Thanh Hiên thi tập" và "Nam trung tạp
ngâm" là chủ yếu, bên cạnh đó có xem xét đối chiếu một số bài thơ trong tập "Bắc Hành tạp
lục".
Cảm hứng nghệ thuật là một vấn đề thuộc phạm trù lý luận văn học. Cảm hứng nghệ
thuật đƣợc phân biệt ở hai dạng thức: Cảm hứng sáng tạo của nhà văn và cảm hứng tƣ tƣởng
của tác phẩm. Hai cảm hứng này liên quan chặt chẽ với nhau nhƣng không phải là một. Nói
tới cảm hứng sáng tạo của nhà văn là nói đến trạng thái tâm lý sáng tạo. Còn nói tới cảm
hứng tƣ tƣởng - cảm hứng chủ đạo -
Trang 5
cảm hứng nghệ thuật của tác phẩm là cảm hứng của nhà văn đƣợc truyền đến hệ thống hình
tƣợng mà họ miêu tả. Đề tài mà chúng tôi lựa chọn hƣớng đến mục tiêu tìm hiểu cảm hứng
này. Điều đó đồng nghĩa với việc nhận ra giá trị của sáng tác Nguyễn Du, tìm ra những lời
nhắn gửi đích thực của thi nhân cho hậu thế.
Thơ chữ Hán Nguyên Du không nói hết đƣợc tâm hồn ông, cần phải tổng hợp cả thơ
Nôm và thơ Hán mới có cái nhìn toàn diện và sâu sắc. Tuy nhiên trong đề tài này ngƣời viết
chỉ xét hai tập thơ chữ Hán thể hiện rõ nhất "những suy tư bạc tóc" của thi nhân.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi phối hợp vận dụng nhiều phƣơng pháp: phƣơng
pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp phân loại thống kê, phƣơng pháp so sánh liên
tƣởng, phƣơng pháp phối hợp đồng đại và lịch đại. Đồng thời, kết hợp các thao tác: diễn dịch,
quy nạp. Tất cả đều dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm lịch sử cụ thể.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI – KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Khoa luận đƣợc thực hiện trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của những
ngƣời đi trƣớc, ngƣời viết chỉ sắp xếp lại, hệ thống lại những luận điểm quan trọng. Bên cạnh
đó, ngƣời viết miêu tả sâu hơn, phân tích và lý giải thơ chữ Hán Nguyễn Du gắn liền với lý
luận văn học - vấn đề cảm hứng nghệ thuật, mà cụ thể hơn là cảm hửng nghệ thuật trong thơ
trữ tình trung đại.
Kết cấu phần NỘI DUNG của đề tài gồm 3 chƣơng:
Chƣơng I: Những vấn đề chung
1. Thời đại - gia thế và cuộc đời Nguyễn Du
2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du
3. Cảm hứng nghệ thuật dƣới mắt các nhà lý luận
Chƣơng II: Cảm hứng nghệ thuật trong "Thanh Hiên tập" và "Nam trung tạp ngâm"
1. Cảm hứng trữ tình
1.1. Buồn hận và cô độc
1.2. Bức chân dung tự họa
Trang 6
1.3. Nỗi nhớ quê hƣơng
1.4. Sự trôi nhanh của thời gian
1.5. Cuộc đấu tranh giữ mình
2. Cảm hứng thế sự
2.1. Những nghịch lý cuộc đời
2.2. Danh lợi chốn quan trƣờng
Chƣơng III: Vài nét đặc sắc về phƣơng thức biểu hiện cảm hứng nghệ thuật
1. Những biểu tƣợng nghệ thuật
2. Giọng điệu nghệ thuật
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Thời đại - gia thế và cuộc đời Nguyễn Du
1.1. Thời đại Nguyễn Du
Nguyễn Du sống trong một thời đại vô cùng rối ren: nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu
thế kỷ XIX.
1.1.1. Chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng
Xét trên bình diện hệ thống các sự kiện, bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam thời Lê
mạt - Nguyễn sơ đầy rẫy những biến động. Chế độ phong kiến tập quyền ngày càng lộ rõ
những ung nhọt, ngày càng lún sâu hơn vào những căn bệnh trầm kha. Đặc biệt là cuộc đối
đầu giữa hai dòng họ: họ Trịnh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong kéo dài hơn hai
thế kỷ (từ năm 1570 đến 1786).
1.1.2. Đời sống nhân dân cực khổ lầm than
Trăm họ, muôn dân thời này khốn đốn trăm bề. Chiến tranh, thiên tai và áp bức, thuế
khóa nặng nề khiến ngƣời dân không một ngày thấy mặt trời. Nạn đói lan tràn, "Việt sử thông
giảm cương mục" còn ghi lại cảnh tƣợng "Dân lưu vong bồng bế, dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy
đường (...). Người chết đói ngổn
Trang 7
ngang, người sống không còn một phần mười. Làng nào có tiếng là trù mật cũng chi còn năm
ba hộ mà thôi".
1.2. Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du
1.2.1. Gia thế
Nguyễn Du xuất thân từ một gia đình đại quý tộc, thuộc dòng họ nổi tiếng về đƣờng
khoa hoạn, nhiều ngƣời đỗ đạt, làm quan to. Dân gian thƣờng truyền tụng câu ca dao:
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan
Cha Nguyễn Du - ông Nguyễn Nghiễm thông minh học rộng, từng giữ chức tể tƣớng
trong triều Lê. Anh em Nguyễn Du đều đậu cao, làm quan to: Nguyễn Khản đậu tiến sĩ,
Nguyễn Triều trúng tam triều thi hội, giữ chức Trấn thủ Hƣng Hóa. Nguyễn Luyện trúng tam
trƣờng thi hƣơng, Nguyễn Tƣớc và Nguyễn Nễ trúng tứ trƣờng thi hƣơng.
Gia đình Nguyễn Du có bề dày lịch sử, về truyền thống văn học nghệ thuật nổi tiếng.
Ông nội Nguyễn Du - Nguyễn Quỳnh là ngƣời chú giải Kinh Dịch. Cha lại là một sử gia, làm
nhiều thơ văn. Anh cả Nguyễn Khản giỏi thơ Nêm, thƣờng hay xƣớng họa với chúa Trịnh
Sâm. Đặc biệt, Nguyễn Du chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ ngƣời mẹ trong những ngày còn thơ bé.
Mẹ ông là bà Trần Thị Tân (vợ thứ ba của Nguyên Nghiêm) vốn là một cô gái xứ Kinh Bắc
giỏi nghề hát xƣớng.
1.2.2. Cuộc đời Nguyễn Du
Nguyễn Du tên chữ là Tố Nhƣ, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1766 (có nơi ghi 1765) niên hiệu Cảnh Hƣng thứ 26 đời
vua Lê Hiển Tôn. Ông là con thứ bảy của Xuân quận công Nguyễn Nghiễm. Tuy đỗ thấp (thi
hƣơng ở Sơn Nam, đỗ tam trƣờng), nhƣng ông là ngƣời thông minh, học rộng, thông hiểu cả
tam giáo: Nho, Phật, Đạo. Cảnh sống sung túc từ thuở bé mau chóng chấm dứt trƣớc những
biến động của xã hội và gia đình. Năm Nguyễn Du mƣời tuổi, cha ông qua đời. Ba năm sau,
mẹ
Trang 8
Nguyễn Du cũng mất, bỏ lại ông và bốn anh em, chƣa một ai đến tuổi trƣởng thành. Mồ côi
cả cha lẫn mẹ, anh em Nguyễn Du phải đến nƣơng nhờ ở nhà anh cả khác mẹ là Nguyễn
Khản. Chiến tranh loạn lạc xảy ra, bản thân Nguyễn Du cũng trôi dạt, "mười năm gió bụi" với
biết bao nỗi niềm.
Ông tận mắt chúng kiến cảnh "thay đổi sơn hà", gia đình ly tán, anh em lƣu lạc mỗi
ngƣời một nơi. Khi Quang Trung tiến quân ra Bắc, Nguyễn Du từng chạy theo vua Lê Chiêu
Thống nhƣng không kịp. Bản thân ông cũng từng có lúc đau khổ gần nhƣ tuyệt vọng: trôi dạt
từ đầu sông đến cuối bể, cơm không đủ ăn, ốm không thuốc uống. Nhƣng cũng chính những
bƣớc đƣờng thƣơng đau ấy đã giúp ông thật sự có dịp hiểu biết quần chúng, sống gần quần
chúng - ngọn nguồn của mọi giá trị tinh thần cao quý của dân tộc.
Trong thời gian ở Thái Bình - quê vợ Nguyễn Du, gia phả chép rằng "Ông tập hợp
hào mục, tính việc phục quốc nhưng chí không thành". Khi ngƣời vợ họ Đoàn mất, ông về
quê Hà Tĩnh làm "người đi săn ở núi Hồng" (Hồng Sơn Liệp Hộ), "người câu cá ở biển
Nam" (Nam Hải điếu đồ). Năm 1796 ông có ý định vào Nam giúp Nguyễn Ánh nhƣng bị trấn
tƣớng của Tây Sơn ở Nghệ An là Nguyễn Thận bắt giam, sau đó đƣợc tha. Từ đó, Nguyễn Du
về ở hẳn ở làng Tiên Điền một thời gian dài. Đây là những năm Nguyễn Du ở "dưới chân núi
Hồng".
Năm 1802, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn. Tháng 8 năm ấy, Nguyễn Du đƣợc bổ
nhiệm làm tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam. Từ đó, Nguyễn Du đƣợc giữ
nhiều chức vụ khác nhau trong triều. Năm 1813, Nguyễn Du đƣợc thăng Cần chánh điện học
sĩ và đƣợc cử làm Chánh sứ Trung Quốc. Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi, định cử ông làm
Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa nhƣng chƣa kịp đi thì ông bị bệnh và mất đột ngột vào ngày
10 tháng 8 năm Đinh Thìn.
2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du
Theo sự xác định của hai ông Lê Thƣớc và Trƣơng Chính, những ngƣời biên soạn
cuốn "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" thì thơ chữ Hán Nguyễn Du đƣợc sáng tác liên tục trong
một thời gian dài từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến năm 49 tuổi (1814) trƣớc lúc chết
năm năm. Ba tập thơ chữ Hán của ông là:
Trang 9
- Thanh Hiên thi tập (Thanh Hiên tiền hậu tập)
- Nam Trung tạp ngâm
- Bắc hành tạp lục
Ở đề tài này, ngƣời viết tập trung tìm hiểu: "Thanh Hiên thi tập" và "Nam Trung tạp
ngâm".
2.1. "Thanh Hiên thi tập"
Gồm 78 bài thơ, sáng tác từ 1786 - 1804, giai đoạn từ năm Tây Sơn kéo quân ra Bắc
cho đến những năm kết thúc giai đoạn Nguyễn Du làm quan ở Bắc Hà. Tập thơ ghi lại tâm sự
của một con ngƣời đầy "hùng tâm", "tráng chi" nhƣng thời vận lỡ làng, cảnh ngộ gặp nhiều
điều bất nhƣ ý, đành ôm trong lòng mối u uất không cách gì giải tỏa đƣợc. Bao trùm tập thơ
là điệp khúc buồn thƣơng, u uẩn day dứt khôn khuây. Tập thơ đƣợc sáng tác trong 3 giai
đoạn:
- "Mười năm gió bụi" (1786 - cuối 1795)
- "Dưới chân núi Hồng" (1796 - 1802)
- "Làm quan ở Bắc Hà" (1802 - cuối 1804)
Có thể nói, đọc "Thanh Hiên thi tập" chúng ta nhìn thấy tâm hồn Nguyễn Du, con
ngƣời Nguyễn Du ở những góc chiếu rất khác nhau, đa dạng và phong phú.
2.2. "Nam Trung tạp ngâm":
"Nam Trung tạp ngâm" gồm 40 bài thơ, sáng tác từ năm 1805 - 1812, giai đoạn từ lúc
nhà thơ đƣợc thăng hàm Đông các điện học sĩ vào làm quan ở kinh đô Phú Xuân (gần bốn
năm) đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình (ba năm, năm tháng). Gửi gắm ở tập thơ
này là tâm sự của nhà thơ trong những ngày làm quan không lấy gì làm vui vẻ, thoải mái.
Quan trƣờng đây những rối ren, ganh đua, lòng ngƣời hiểm ác khiến nhà thơ của chúng ta
luôn phải cẩn thận giữ gìn.
2.3. "Bắc hành tạp lục"
Trang 10
"Bắc hành tạp lục" gồm 132 bài thơ, đƣợc sáng tác trong khoảng 1813 - 1814, khi đó
Nguyễn Du đƣợc nhà Nguyễn cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc tuế cống. Tập thơ ghi lại
những điều tai nghe mắt thấy trên đƣờng đi sứ, "mỗi một cảnh, mỗi một di tích, mỗi một con
người của quá khứ và hiện tại trên đất nước Trung Hoa như xác nhận thêm một lần nữa
những điều nhà thơ từng nghiền ngẫm, nung nấu" [tr. 320; 10].
3. Cảm hứng nghệ thuật dưới mắt các nhà lý luận
3.1. Khái niệm cảm hứng
Theo Từ điển Tiếng Việt, "Cảm hứng là trạng thái tâm lý đặc biệt khi sức chú ý được
tập trung cao độ, kết hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo
hoạt động có hiệu quả" [tr. 106; 14]. Song cần phân biệt cảm hứng thông thƣờng - cảm hứng
công việc với cảm hứng trong văn chƣơng - cảm hứng nghệ thuật. Phƣơng Lựu trong "Lý
luận văn học" phân biệt: "Cảm hứng có thể có trong tất cả các ngành sản xuất khi mà con
người lao động hoàn toàn tự nguyện theo những mục đích hoàn toàn phù hợp với lý tưởng và
khả năng của mình. Nhưng khác với thành phẩm của tất cả các ngành lao động khác, tác
phẩm văn học nghệ thuật còn chứa đựng tình cảm chủ quan của chủ thể sáng tạo"[tr. 209210; 12].
Một nhận định đáng để chúng ta lƣu tâm khi khảo sát về cảm hứng trong văn chƣơng
là nhận định của Hêghen: "Cảm hứng có ý nghĩa xã hội mới là cảm hứng chủ đạo cần có của
văn học".
3.2. Cảm hứng nghệ thuật
3.2.1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật
"Cảm hứng là một trạng thái căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căng thẳng
của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đã đạt đến sự hài hòa, kết tinh, sẽ cháy bùng
trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da diết bằng con đường
gần như trực giác, bản năng" [tr. 210; 12]. Còn "cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm
mãnh liệt, say đắm, xuyên
Trang 11
suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây
tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận" [tr. 38; 8].
Cảm hứng nghệ thuật là một phạm trù thuộc về lý luận văn học, nó có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp (pathos) tức là tình cảm sâu sắc, nồng nàn. Cảm hứng nghệ thuật bao giờ cũng
đậm đà, lắng lọc hơn những cảm hứng thông thƣờng. Đồng thời, cảm hứng này luôn gắn với
tƣ tƣởng và mang tính khuynh hƣớng rõ rệt. Cảm hứng nghệ thuật cũng là một yếu tố của nội
dung tác phẩm. Nó thống nhất các yếu tố khác nhƣ đề tài, chủ đề, tƣ tƣởng tác phẩm.
Cảm hứng nghệ thuật cũng là một yếu tố của nội dung tác phẩm, Nó thống nhất các
yếu tổ khác nhƣ đề tài, chủ đề, tƣ tƣởng tác phẩm, chi phối và quyết định hình tƣợng nghệ
thuật trong tác phẩm đó. Khảo sát cảm hứng nghệ thuật của một nhóm các sáng tác của cùng
một tác giả giúp ta hiểu thêm về phong cách tác giả đó và thế giới tâm hồn phong phú của họ.
3.2.2. Các loại cảm hứng nghệ thuật
Các loại cảm hứng thƣờng gắn bó với nhau, có thể chuyển hóa lẫn nhau, thâm nhập
vào nhau. Có thể kể ra một vài loại tiêu biểu nhƣ: cảm hứng nhân đạo, cảm hứng yêu nƣớc,
cảm hứng lãng mạn, cảm hứng trào phúng, cảm hứng về sự thật, cảm hứng hoài cổ, cảm hứng
bi kịch, cảm hứng anh hùng...
3.2.3. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ trung đại
Cảm hứng nghệ thuật là vô cùng đa dạng và phong phú. Song, trong thơ trung đại cảm
hứng nghệ thuật có thể tạm chia thành hai loại: cảm hứng trữ tình và cảm hứng thế sự. Cảm
hứng trữ tình đƣợc hiểu là tác phẩm phải phục tùng theo những quy luật tình cảm, phải khơi
dòng những cảm xúc nhân văn, nhân ái và đậm chất dân tộc. Cảm hứng trữ tình gắn liền với
tình cảm nhƣng đó không là thứ tình cảm tự nhiên mà trở thành một phẩm chất nghệ thuật,
luôn hƣớng đến sự hoàn thiện trong mỗi thực thể cuộc đời.
Còn cảm hứng thế sự là cảm hứng nảy sinh từ thực tế cuộc sống chuyện đời, chuyện
ngƣời. Vì thế, cảm hứng này mang một nội dung lịch sử cụ thể. Nó bao gồm khuynh hƣớng
triết học, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ đặc biệt là khuynh
Trang 12
hƣớng nhận thức và đánh giá. Nó liên quan chặt chẽ với quan niệm về thế giới, quan niệm về
nhân sinh, với tình cảm, nhân cách, thái độ của nhà thơ trƣớc những vấn đề xã hội nhƣ chiến
tranh, cách mạng, hòa bình, những vấn đề của con ngƣời nhƣ số phận, hạnh phúc...
Ngƣời viết lấy những kiến thức lý luận vừa nêu trên làm nền tảng để triển khai đề tài
"Cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Du qua "Thanh Hiên thi tập" và "Nam trung tạp ngâm"
một cách vững chắc và có cơ sở.
CHƢƠNG II: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG "THANH HIÊN
THI TẬP" VÀ "NAM TRUNG TẠP NGÂM" CỦA NGUYỄN DU
1. Cảm hứng trữ tình
1.1. Buồn hận và cô độc
Vào buổi bình minh của cuộc đời, chàng trai trẻ Nguyễn Du cũng từng mang trong
mình mộng công danh cao đẹp:
"Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên"
(Khất thực)
(Kiếm dài ngạo nghễ hiên ngang nhƣ tựa trời xanh)
Với sở tài, sở học của mình, Nguyễn Du muốn noi gƣơng những bậc tiền bối, thi đỗ
làm quan giúp việc triều chính. Không sôi nỔi nhƣ Nguyên Công Trứ:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Đi thi tự vịnh)
Nguyễn Du của chúng ta điềm đạm hơn: "Công danh ai dứt lối này cho qua". Đối với
các trí thức Nho học thời bây giờ, học hành, thi cử rồi làm quan đó là con đƣờng, là sự lựa
chọn gần nhƣ là duy nhất. Nguyễn Du cũng muốn đem tài
Trang 13
năng của mình thi thố trƣớc hết là để lập công danh, sau nữa là để giúp đời, giúp ngƣời. Cầm
trong tay cây kiếm dài, hiên ngang và ngạo nghễ, Nguyễn Du muốn ngang dọc vẫy vùng. Bầu
nhiệt huyết của chàng thanh niên thông minh, khỏe mạnh thôi thúc Nguyễn Du ƣớc mơ vƣơn
lên, muốn sánh ngang với vũ trụ. Tuy thơ không nhắc đến "chí", "công danh", hay "phận sự",
nhƣng chính cái tƣ thế hiên ngang "tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên" đã khắc tạc vào thơ
Nguyễn Du một quyết tâm cao độ.
Nhƣng tiếc thay, thời thế đã không chọn mặt anh hùng. Nhà Lê sụp đổ, phơi bậy tất cả
những tiêu cực lớn nhỏ của một xã hội dần tiến đến thời kỳ mục ruỗng. Mắt Nguyễn Du đã
chứng kiến sự mục nát, suy vong của chế độ phong kiến thời Lê mạt. Chiến tranh cát cứ liên
miên giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn đã mang lại bao nhiêu thống khổ cho nhân
dân. Đó là thời đại quằn quại, loạn lạc, đầy những chấn động dữ dội vƣợt quá những hiểu biết
của nhà thơ. Nhƣng Nguyễn Du thấy rõ hết, hiểu thấu hết những cơn sóng ngầm của bao
nhiêu nỗi phẫn uất, bao nhiêu niềm khát khao cháy bỏng của nhân dân đòi hỏi một chế độ
công bằng, trong sạch, đòi hỏi một cuộc đời có tình ngƣời...
Nhà thơ Nguyễn Du không phải là một nhân chứng bị động trong cuộc đời đảo điên
ấy. Ông rất muốn làm một điều gì đó để đổi thay thực tại trƣớc mắt. Bị hạn chế quan niệm
chật hẹp về "trung quân", "chính thống", Nguyễn Du từng có ý định chống lại Tây Sơn,
nhƣng không thành... Thời đại Nguyễn Du, nhìn chung, với ông là câu hỏi lớn. Câu hỏi ấy vô
phƣơng giải đáp. "Cái thời mà Nguyễn Du ước mơ, không nói gì đến Nghiêu Thuấn, chi một
khiêm nhường như Gia Tĩnh triều Minh với "Bổn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng"
cũng chỉ là một giác mộng viển vông" [tr .5; 1]. Có ngƣời từ rất sớm đã tìm hƣớng đi đúng
cho đời mình, có ngƣời loay hoay mãi mới tìm đƣợc lối đi. Nguyễn Du, theo nhận xét của
nhà phê bình văn học Hoài Thanh, thì suốt đời không tìm đƣợc. Khi Nguyễn Du ra đời thì chế
độ phong kiến đã cực kỳ mục nát nhƣng điều kiện lại chƣa đủ để có thể chuyển qua chế độ
khác. Sức quật khởi của nông dân nhƣ những đạt sóng lớn vẫn thúc đẩy xã hội Việt Nam tiến
lên từng bƣớc nhƣng rốt cuộc không thoát khỏi vũng lầy phong kiến. Nói chung hoàn cảnh
chƣa cho phép tìm lấy một lối ra. Nguyễn Du, con em của một gia đình phong kiến, lại càng
Trang 14
không thể tìm lấy lối ra... Nếu phân tích sâu hơn, ta sẽ thấy Nguyễn Du đi theo con đƣờng cũ.
Ông đi theo nhà Lê nhƣng không lấy gì làm tích cực trong chuyện phù Lê. Mặt khác, ông lại
không lấy gì làm mặn mà trong chuyện chống Tây Sơn. Còn về sau này, Nguyễn Du làm
quan cho nhà Nguyễn thì rõ ràng là "vừa đi vừa bực" [tr. 142; 25]. Tâm trí Nguyễn Du đầy
những băn khoăn, con ngƣời Nguyễn Du đầy những mâu thuẫn...Rốt cuộc Nguyễn Du đã
triền miên suốt đời trong một không khí buồn chán, nặng nề
Chí không đạt, mộng không thành, hùng tâm dần nguội lạnh theo năm tháng, "danh"
chƣa "thành" mà "thân" đã "suy". Nguyễn Du hụt hẫng, thất vọng về bản thân và cả thời thế.
Ta dễ dàng tìm thấy những từ ngữ mang màu sắc tiêu cực trong thơ ông: "suy", "liêu lạc",
"tiêu điều"... " Bản thân Nguyễn Du đã đem cái bệnh của thời đại mình không giải quyết
được, không biết cách nào mà giải quyết, tích lại thành một nỗi u nát trong tâm hồn riêng"
[tr.45; 5]. Bản thân ông dở dang thƣ kiếm, nghề văn nghề võ đều không thành. Ý thức cá
nhân nơi nhà thơ thể hiện sâu sắc ở chỗ ông nhận ra những giá trị mà mình quý trọng, nâng
niu nay trở nên vô dụng, vô nghĩa. Trƣớc hết đó là văn chƣơng mà rộng ra là hệ thống Nho
học thời bấy giờ. Nguyễn Du mang trong mình mặc cảm bất lực - cái bất lực của cả hệ thống
học vấn thời đại.
Đi giữa "đời loạn", Nguyễn Du bơ vơ và cô độc. Những u uẩn trong lòng ông không
thể tỏ cùng ai. Đau đớn hay xót xa, nghẹn ngào hay tủi hổ... chỉ một mình mình biết, một
mình mình hay. Nguyễn Du tự ví mình nhƣ "ngọn cỏ bồng" không còn gốc rễ, nhẹ tâng, mặc
cho gió chuyển dời trƣớc gió bụi cuộc đời. Nguyễn Du không biết bày tỏ cùng ai và không
muốn giải bày điều gì. Lặng im một cách cô độc, bao nhiêu nhức nhối ông đành chôn sâu vào
đáy lòng: "Ta có tấc lòng không biết nói cùng ai" (Mi trung mạn hứng). Nguyễn Du không
tâm sự đƣợc với ai, đành nói chuyện với chính mình, ngắm bóng mình, đối diện với trăm mối
sầu.
Với Nguyễn Du, dấu ấn hoang mang thể hiện khá rõ trong những sáng tác chữ Hán
đầu tay (Thanh hiên thi tập). Tuy nhiên nếu đánh giá Nguyễn Du trong suốt ba tập thơ, ta sẽ
nhận ra dấu ấn hoang mang kia chính là những hoài nghi,
Trang 15
những băn khoăn day dứt của một con ngƣời tiềm ẩn những tƣ tƣởng lớn, có thể coi sự hoang
mang và ít nhiều bi quan của nhà thơ trong giai đoạn đầu sáng tác là hệ quả tất yếu của sự
khủng hoảng của tƣ tƣởng thời đại.
1.2. Bức chân dung tự họa
Nhà thơ Nguyễn Du không hề có chủ ý vẽ nên chân dung tự họa bản thân, ở đây
ngƣời viết chi phát họa những nét lớn nơi gƣơng mặt, hình hài và thân phận của thi nhân. Tuy
chỉ là những nét đơn sơ, đôi khi rời rạc, song phần nào cũng bộc lộ khá rõ cảm hứng của
Nguyễn Du về bản thân: cảm hứng bi thiết. Cảm hứng này tạm hiểu là cái nhìn bi quan, xót
xa cho chính mình.
1.2.1. Ngoại hình, cốt tướng
Ngoại hình và cốt tƣớng, đây là những nét dễ nhận ra hơn cả nơi bức chân dung thi sĩ
Nguyễn Du. Nguyễn Du chỉ khiêm tốn với "tấm thân sáu thước" và "tuổi ba mươi" (Tự thán
II). Còn về cốt tƣớng thì "Trời đất phú cho cái cốt tướng gian truân ". Phải chăng chính "con
mắt nhìn thấu sáu cõi" và "tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời" ấy đã làm nên một phần cái "cốt
tướng gian truân" mà nhà thơ nói ở đây. Nói về tƣ chất của ông, chúng ta đều biết ông là
ngƣời thông minh, học rộng biết nhiều. Thế nhƣng, theo Nguyễn Du thì:
Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân
(Tự thán II)
(Đeo đẳng thông minh để thiệt đời)
Cái thông minh của mình không thể giúp gì cho bản thân, cho gia đình và thời cuộc
thì thử hỏi thông minh để làm gì? Nó chỉ đủ để Nguyễn Du "tỉnh" hơn ngƣời khác, suy nghĩ
và trở trăn hơn ngƣời khác mà thôi. Ta hình dung nhà thơ là một con ngƣời ít nói, lúc nào
cũng cảm thấy cô đơn, có chiều sâu nội tâm, luôn luôn day dứt trƣớc những vấn đề về lẽ sống
của bản thân, con ngƣời và cuộc đời. Những ai oán, buồn thƣơng của cuộc đời riêng ông và
của cả những mảnh đời khác xung quanh đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn thi nhân. Cái
"Tâm" xúc động rỉ máu nên "tướng" ngƣời thể hiện ra cũng lấm nét lận đận, gian nan.
Thật khó để tìm thấy một Nguyễn Du ung dung, thƣ thái. Càng khó tìm thấy một
Nguyễn Du nhàn hạ, vô ƣu vô lo! Chính vì những lẽ đó mà chân dung
Trang 16
Nguyễn Du thêm một nét nữa: tóc bạc. Nguyễn Du bạc tóc từ rất sớm. Ngay ở tuổi "tam thập
nhi lập" mà đã:
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy
(Tự thán I)
(Tóc bạc bơ phờ bay trƣớc gió chiều)
Tác giả Đào Duy Anh thống kê đƣợc trong 65 bài thơ của "Thanh Hiên thi tập" có
đến 17 lần Nguyễn Du nhắc đến "bạch phát (tóc bạc), "bạch đầu" (đầu bạc). Tuổi cao tóc bạc
là chuyện đƣơng nhiên nhƣng tuổi mới trên dƣới ba mƣơi mà tóc bạc thì hiếm thấy. Có 58 lần
trong suốt ba tập thơ con ngƣời bạc tóc xuất hiện (thống kê của Lê Thu Yên). Con số ấy cho
thấy tóc bạc đã trở thành nỗi ám ảnh thƣởng trực nơi tâm hôn nhà thơ. Tóc bạc là hệ quả của
bao nhiêu nghĩ suy, trăn trở nơi thi nhân. Nguyễn Du cảm thấy "sĩ khí'" và "hùng tâm" của
bản thân đang bị "tiêu ma" bởi màu trắng đáng sợ nơi mái đầu. Và theo đó, thi nhân buông
tiếng thở dài... Nguyễn Du của chúng ta buộc phải đối diện với tuổi già dẫu rằng còn bao
nhiêu dự định chƣa thành. Những nỗi uất hận không nói đƣợc thành lời, những môi thƣơng
cảm trải mãi không dứt... Tất cả những điều đó tụ lại, ẩn vào sâu thẳm trái tim thi nhân, để rồi
theo thời gian nó hiện thành "phơ phơ tóc bạc"...
Cùng với nỗi lo âu tuổi già, ám ảnh cái chết là lo bệnh tật. Bệnh tật làm con ngƣời héo
mòn dần, sinh khí tổn hao. Ta hình dung gƣơng mặt Nguyễn Du, thần sắc vốn đã không tƣơi
tắn lại điểm thêm những nét nhăn nhó do bệnh tật hành hạ. Lại không phải bệnh một ngày
một bữa mà là bệnh kéo dài hàng mấy tháng, có khi hàng mây năm. Bệnh nhiêu, do nghèo
không có tiên lo thang thuốc điều trị, bệnh càng dai dẳng thêm. Trong thơ bệnh đƣợc nhắc
đến khá nhiều lần: bệnh cũ (U cƣ II), bệnh lâu ngày (Xuân dạ), bệnh không thuốc (Mạn
hứng)... Nhà thơ đau ốm liên miên mặc dù không nói rõ bệnh gì, chỉ biết là bệnh cũ và lâu
ngày. Phải chăng những căn bệnh kia đã trở thành cố hữu noi thi nhân, nó cũng không phải là
bệnh "xoàng" mà đã là "tâm bệnh".
Trang 17
Tóm lại, chân dung tự họa Nguyễn Du nổi lên những nét cơ bản là ngoại hình bé nhỏ,
khắc khổ, cốt tƣớng gian truân, cộng với tuổi già (tóc bạc) và bệnh tật. Cái nền bức tranh ấy
hẳn là gam màu tối và lạnh, nó không đậm nhƣng thấm sâu, dai dẳng và buồn thƣơng... Đôi
mắt sâu thẳm ân tình và mái đầu bạc mãi ám ảnh tâm trí ngƣời đọc bao thế hệ, đó là ngoại
hiện của một nội tâm sâu sắc, của nỗi đau đời...
1.2.2. Thân phận
Nguyễn Du tự ý thức về mình qua một vài ý niệm nhƣ: vô thân, thân chóng tàn, "tài
vô sở dụng" (tài không đƣợc chấp nhận)... Hơn thế nữa, ông còn ý thức về thân phận của
mình. Cảm hứng này thể hiện bàng bạc qua các sáng tác của ông. Năm tháng trôi, kiếp sống
trôi không định hƣớng, không mục đích, mặc cho gió bụi cuộc đời đƣa đẩy. Con ngƣời từ
mộng lớn chí cao rơi xuống bờ vực của thất vọng, chán nản; từ hùng tâm tráng chí hừng hực
ngọn lửa đấu tranh cống hiến trôi dần vào hƣ không. Đối với Nguyễn Du, đó là một hụt hẫng
lớn. Nguyễn Du tự nhìn lại mình và đặt câu hỏi mình là ai? Nguyễn Du là ai? Một ông già
nhƣng vẫn chƣa già, một ông quan chƣa phải đạt quan... Ông luôn tự gọi mình là "khách" là
"tha nhân", "lữ thứ". Hoặc có khi ông chỉ gọi mình là một ngƣời thôn dã nơi núi sâu. Con
ngƣời Nguyễn Du muốn chối bỏ hết phận vị, chức tƣớc. Ông không muốn nhắc đến nó bởi đó
là nỗi thẹn, nỗi chua chát. Đi bên lề lịch sử, Nguyễn Du chỉ dám nhận mình là kẻ phƣơng xa,
là khách mà thôi. Điều này hoàn thiện nốt bức chân dung tinh thần của thi nhân.
1.3. Nỗi nhớ quê hương và người thân
Trong khoảng "mười năm gió bụi", dƣới triều Tây Sơn, Nguyễn Du sống trong tình
trạng cô đơn ghê sợ, không còn anh em, bạn bè gì nữa; khắp góc bể chân trời chẳng lấy gì
làm bầu bạn. Ngóng trông về quê nhà, Nguyễn Du thêm ủ rũ: "Ở quê hương Hồng Lĩnh
không còn nhà cửa, anh em cũng đều tan tác cả " (Quỳnh Hải nguyên tiêu).
"Tiếng nhạn đầu mùa" vô tình hay hữu ý đã "khơi dòng lệ biệt ly từ bao năm nay" mà
Tố Nhƣ đã cố nén, cố giấu. "Luân lạc, tha hương, ly hiệp với bạn bè thân nhân, lƣu lạc nơi
góc bể chận trời, nơi đất khách là những trạng thái
Trang 18
- Xem thêm -