Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của hồ anh thái...

Tài liệu Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của hồ anh thái

.PDF
135
269
120

Mô tả:

Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Sau chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh đại thắng năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất, hoà bình và có những bước chuyển mình lớn lao về kinh tếxã hội. Thời đại mới tạo điều kiện cho sự phát triển của con người về nhiều mặt trong đó có ý thức cá nhân. Trong lĩnh vực văn học, chính sự phát triển của ý thức cá nhân Êy đã thôi thúc các nhà văn (bao gồm cả lớp nhà văn trước, trong chiến tranh và đội ngũ những nhà văn trẻ sau 1975) phải có những tìm tòi, đổi mới cả về đối tượng, nội dung tư tưởng và cách viết. Một trong những biểu hiện rõ nhất cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của văn học sau 1975 là sự hồi sinh mạnh mẽ của tiếng cười, của cảm hứng trào lộng. Trên cơ sở những tiền đề kinh tế - xã hội, những quan điểm mới về hiện thực và con người và cái gốc tiếng cười, cảm hứng trào lộng của văn học, cảm hứng giễu nhại trong văn xuôi sau 1975 có điều kiện hình thành và phát triển mạnh mẽ. Trong quá trình đổi mới, một số nhà văn thuộc thế hệ thứ tư của văn học Việt Nam như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh…có nhiều tìm tòi, thể nghiệm và quan trọng hơn đã có những đóng góp nhất định. Trong số những nhà văn thành danh Êy, Hồ Anh Thái được xem như một cây bút có dấu Ên riêng. Một đặc điểm mà nhiều bạn đọc dễ nhận thấy trong văn chương Hồ Anh Thái chính là cảm hứng giễu nhại. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu riêng biệt, có quy mô về văn chương của anh nói chung, về cảm hứng giễu nhại nói riêng. Đi sâu nghiên cứu vấn đề Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái, chúng tôi hướng tới mong muốn góp phần khẳng định vị trí và tài năng của nhà văn này. 2. Lịch sử vấn đề Mặc dù được coi là nhà văn đã có những thành công nhất định nhưng sáng tác của Hồ Anh Thái chủ yếu mới được bạn đọc tiếp nhận dưới giác độ thưởng 1 thức, giải trí. Độc giả phổ thông dường như chưa biết nhiều đến Hồ Anh Thái và tác phẩm của anh trong khi anh có một lợi thế lớn: vừa là nhà ngoại giao vừa là Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội. Dư luận về cây bút tài năng đã được khẳng định này chủ yếu tập trung trong giới chuyên môn qua một số bài viết, phê bình, đánh giá, giới thiệu sách và một số khóa luận, luận văn tốt nghiệp của sinh viên, học viên. Những đánh giá của bạn đọc nói chung, các nhà nghiên cứu, phê bình nói riêng về sáng tác của tác giả này trong thời gian qua có giá trị định hướng, và khơi gợi sự khám phá. Chúng tôi nhận thấy một điểm chung trong đánh giá, nhận xét của đồng nghiệp và giới phê bình về sáng tác của Hồ Anh Thái là chất giọng hài hước, trào lộng đậm nét trong nhiều sáng tác của anh. Sau một vài truyện ngắn có dư vị hài hước trong tập truyện ngắn Mảnh vỡ của đàn ông, dư luận đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến chất giọng hài hước, trào lộng của Hồ Anh Thái trong tập truyện ngắn Tự sù 265 ngày. Đối tượng hài hước, châm biếm của tập truyện là giới công chức mà tập trung nhất là những trí thức thời đổi mới. Trong bài Có ai chẳng muốn đùa, nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận xét: “Thật thú vị khi được dẫn đường bởi một người hiểu chuyện, hóm hỉnh và biết đùa như thế. Ở đâu, với ai, trong chuyện gì Hồ Anh Thái cũng tìm ra được bao nhiêu là cái hài hước, đáng cười, mà lại cười một cách rất đúng mực, chỉn chu, rất an toàn. Tưởng có thể cười mãi với Hồ Anh Thái cho đến lúc buông sách ra” [5; 231]. Đọc Hồ Anh Thái “người ta có thể cười một cách vô tư nhưng cũng đầy xót xa” [5; 235]. Sau khi nhận xét khá sắc sảo về cái tôi cô đơn của Hồ Anh Thái, Lê Quang Toản trong bài Che giấu sự cô đơn cũng không quên nhắc đến cái chất cười cợt, trào tiếu của tập truyện: “Hồ Anh Thái cần có nơi để đùa cợt, để xả soupape hay là tác giả đã quá khéo léo che giấu sự cô đơn của mình trong những tiếng cười rất đời” [5; 239]. Vân Long trong Một giọng văn khác đã viết: “Ở tập truyện ngắn này, nhà văn hình thành một giọng văn hoàn toàn khác thời kỳ đầu: Trào lộng, châm biếm, hóm hỉnh và sắc sảo những câu chuyện, những thói tật đáng cười trong xã hội. Đọc tập truyện này, người đọc 2 nhiều chỗ phải bật cười thành tiếng như đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan hay Azit Nêxin” [5; 245]. Trên báo Nông nghiệp Việt Nam ngày 05/10/2001, Trần Thị Trường dẫn ra ý kiến của người khác cho rằng trong “Tự sù 265 ngày có cái cười nửa miệng của thi hào Gôgôl, có cái giọng điệu hiện thực huyền ảo của Milan Kundera…nếu muốn cười mà lòng vẫn đau đủ chín khúc thì hãy đọc Tự sù 265 ngày. Cười người hay cười mình lẫn lộn cả nhưng đọc rồi cũng thấy muốn cười một tí…” [5; 247]. Bằng lập luận kiểu phản đề, Nguyễn Chí Hoan trong bài Nhà văn không cười đã viết: “có lẽ nói cho đúng, nhà văn cười nhưng chỉ nhếch mép…Toàn bộ 11 truyện trong tập đều một lối hoạt kê, không thể không cười song “ý tại ngôn ngoại” ở đây thì đều đắng đót” [5; 249]. Từ Tự sù 265 ngày đến Bốn lối vào nhà cười, đối tượng giễu nhại đã mở rộng ra cả cõi nhân sinh bằng bốn lối Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Giới thiệu tập truyện ngắn Bốn lối vào nhà cười, báo điện tử Vietnamnet.vnn.vn viết: “Cuộc đời theo Hồ Anh Thái như một cái nhà cười mà bốn con đường đi vào ngôi nhà Êy là Sinh - Lão - Bệnh - Tử”, “Hồ Anh Thái viết như để giảm stress bởi bốn con đường vào nhà cười của anh đều lát đá hoạt kê. Cái giọng văn hài hước, ngôn ngữ đường phố, chợ búa đầu thế kỷ XXI đọc để giải sầu” [38]. Có điều đặc biệt là “ở lối vào nhà cười nào cũng có tiếng cười, nó biến giọng văn của Hồ Anh Thái thành giọng của một trí thức châm chọc, giọng hoạt kê, đả kích bằng thứ ngôn ngữ đáo để, hài hước” [38]. Báo Sài Gòn tiếp thị nêu nhận xét: “Ở Bốn lối vào nhà cười, tiếng cười thật chua chát, bật lên được ý thức tự trào của một người Việt tự trào. Từ những chuyện vặt nhưng khả năng phóng chiếu, châm biếm của nó thì không vặt chút nào, bởi nó chạm đến phần nhạy cảm trong tính cách con người ta. Nếu tự tri ngộ tức là tự cười mình để thoát ra tứ đại khổ, nhìn xuống nhân sinh có khi chợt thấy một nhà cười” [38]. Tạp chí Sức khoẻ và đời sống cũng có những đánh giá khá thống nhất với những gì dẫn ra trên đây: “Nhà văn Hồ Anh Thái đã mang đến cho bạn đọc những giây phút sảng khoái cười. Ngòi bút trơn lướt, anh viết hấp dẫn, giọng 3 văn châm biếm, trào lộng; ngôn ngữ hoạt kê hiện đại… Cái sự gây cười nhiều hơn là ở những chi tiết đắt giá” [38]. Gần đây, Hồ Anh Thái đã cho ra mắt độc giả tập truyện mới Sắp đặt và diễn. Có thể nói, tập truyện này là sự sắp đặt các truyện ngắn trong ba giai đoạn sáng tác của anh: Giai đoạn trước Ên Độ, giai đoạn viết về Ấn Độ và giai đoạn sau Ên Độ. Hầu hết những truyện ngắn trong giai đoạn sau Ên Độ đã được in trong tập Bốn lối vào nhà cười, Tự sù 265 ngày. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ trong cuộc nói chuyện với Phạm Xuân Nguyên đã nhận xét: “Tôi không thấy những chuyện tưởng chỉ để cười nếu đọc thoáng qua... chỉ đơn thuần là những chuyện cười cho vui, mà ở đây là cười ra nước mắt” [46]. Trên đây là những đánh giá về truyện ngắn. Về tiểu thuyết của Hồ Anh Thái xét trên đặc điểm đang bàn chúng tôi nhận thấy đáng chú ý nhất là Cõi người rung chuông tận thế và Mười lẻ một đêm. Tiểu tuyết Cõi người rung chuông tận thế không phải ngay từ khi ra đời đã được công chúng đón nhận nhiệt tình. Nét nổi bật ở tiểu thuyết này theo nhiều người đánh giá là chất giọng đa thanh nhưng cũng không Ýt người đã nhận ra giọng hài hước, trào lộng. Trong bài Cái ảo trên nền thực tác giả Vân Long viết: “Về mặt này, Hồ Anh Thái đặc biệt mài sắc được giọng kể trào lộng, châm biếm có duyên… giọng văn trào lộng, hóm hỉnh nhà văn như chỉ dành cho nhận vật phản diện…” [53]. Trần Duy Hiển trong Rung chuông cảnh tỉnh con người nhận xét: “Đọc Cõi người rung chuông tận thế, người ta thấy nụ cười chua chát của nhà văn trước mọi nhố nhăng của đời sống…” [4, 325]. Ghi nhận tài năng của lớp trẻ, nhà văn Ma Văn Kháng khẳng định trong Cái mà văn chương ta còn thiếu rằng: “Tôi thích giọng văn của Hồ Anh Thái. Nó có cái thông minh, hóm hỉnh, vừa sâu sắc vừa có tính truyền thống. Hơn nữa, cái này mới là cái thật thích đây: Chất trào phúng, giễu nhại cay chua mà tâm thiện, chất này văn chương ta thiếu quá. Không có tài, chịu đấy!” [4; 326, 327]. Phạm Chí Dũng trong bài ám ảnh và dự cảm đăng trên báo Văn nghệ ngày 22/11/2003 4 đã nhận định: “Cõi người rung chuông tận thế có lẽ là một trong sè Ýt những sự phơi bày được văn học hoá thành công bởi ngoài yếu tố mạch truyện chuyển động nhanh, hiện đại, đi thẳng vào vấn đề của xã hội hôm nay như nhà văn Tô Hoài nhận xét; còn vì bút pháp châm biếm trào lộng mặc dù có đôi chỗ hơi thái quá nhưng quả tình là đặc biệt và đặc sắc, với cả một kho ngôn ngữ dân gian Èn dụ và tả thực phải nói là rất phong phú, cùng với điểm nhìn xuất phát từ góc độ khách quan và thái độ giễu cợt của nhà văn với những mặt trái của xã hội cứ thế mà tuôn trào ra, được lôi tuột ra, không che giấu gì cả… đã làm cho cuốn tiểu thuyết này trở nên cuốn hút” [4; 334, 335]. Đánh giá chung về Cõi người rung chuông tận thế và mét số sáng tác giai đoạn sau của Hồ Anh Thái, tác giả Nguyễn Đăng Điệp trong bài nghiên cứu Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc đã khái quát: “Trong sáng tác của Hồ Anh Thái nhất là giai đoạn sau, ta bắt gặp khá nhiều chất giọng giễu nhại. Sự xuất hiện của loại giọng này hiếm khi xuất hiện trong tư duy nghệ thuật sử thi. Cái nụ cười chua chát về cõi nhân sinh, khả năng lật tẩy những trớ trêu, nghịch cảnh trong đời chỉ có thể có được khi nhà văn không nhìn đời bằng cảm hứng lãng mạn thuần tuý màu hồng mà nhìn nó như những mảnh vỡ…” [4; 348]. Gần đây nhất, Hồ Anh Thái được bạn đọc đón nhận bằng tiểu thuyết mới Mười lẻ một đêm. Trong Nhà văn đích thực phải là người tử tế đăng trên Tạp chí Thể thao - Văn hóa ngày 15/4/2006, Ngọc Lan viết: “Giữa thời buổi người khôn của khó, sách in 1000 bản bán vẫn còn lay lắt, Hồ Anh Thái vẫn sống khỏe, sống tốt nhờ những cuốn bestseller… Mới đây nhất là Mười lẻ một đêm. Vẫn thấy cái chất giễu nhại, sự sắc sảo như đọc thấu gan ruột thiên hạ của Hồ Anh Thái… những câu chuyện khiến người ta phải cười thắt ruột, cười ra nước mắt” [10; 321]. Tác giả Tuyền Lâm trong bài viết ngắn Nghìn lẻ một chuyện đời đã đưa ra cảm nhậm về tiểu thuyết này: “Vẫn một sân khấu cuộc đời nhưng không phải cười xong… đỏ mặt mà cười xong để xót, để suy tư. Đọc Hồ Anh Thái xong còn muốn ngứa tay để viết văn, mà 5 khó” [10; 328]. Đời cười trong Mười lẻ một đêm là bài viết của Thuý Nga đăng trên báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh ngày 01/3/2006 trong đó có đoạn: “Hồ Anh Thái hay đùa, có lần đùa hơi dai với nhân vật văn hoá lớn. Giọng bỡn cợt và hài hước theo suốt chiều dài cuốn tiểu thuyết mới nhất này của anh” [10; 330]. “Khá giống với phong cách và giọng điệu của ba cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn gần đây, Hồ Anh Thái đem đến cho độc giả từ đầu đến cuối là một giọng điệu châm biếm, hài hước và cười cợt quen thuộc những trò lố lăng, kệch cỡm về đời sống thị dân, giới trí thức nửa mùa, những kẻ bất tài mang danh nghệ sĩ…” [10; 332] là nhận xét của Lê Hồng Lâm về Mười lẻ một đêm đăng trên tạp chí Đàn ông tháng 3/2006. Với một cái tên gây Ên tượng mạnh Tiếng cười trên từng trang đăng trên tờ Tin tức cuối tuần tháng 6/2006, tác giả Từ Nữ ca ngợi Hồ Anh Thái: “Một cuốn tiểu thuyết hơn 300 trang với cách viết hài hước, tràn đầy chi tiết Carnaval khiến nó trở thành cuốn sách được yêu thích nhất trong tháng 3/2006. Không ai lạ lẫm gì lối viết Thị Mầu của nhà văn Hồ Anh Thái nhưng bạn đọc vẫn vấp từ bất ngờ này sang bất ngờ khác” [10; 333]. “Mười lẻ một đêm được viết bằng giọng hài hước chủ đạo, thậm chí có đoạn được lồng vào cả truyện dân gian. Câu văn thụt thò, dài ngắn có chủ đích. Chương 1, chương 2 cái ngả nghiêng còn liu riu, rồi cái sự ngả nghiêng cứ tăng dần…” (Ngả nghiêng trần thế Sông Thương, báo Thanh niên ngày 11/4/2006) [10; 337]. “Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái có thể khiến người ta phải bật cười bởi tính chất hài hước của nó… Có thể thấy, giọng văn ở đây là kiểu giọng phát ngôn tưng tửng, nó được xuyên thấm bởi tính chất bỡn cợt, giễu nhại” [55]. Qua liệt kê chưa đầy đủ nhưng những đánh giá trên đây đều có điểm chung là khẳng định tính chất hài hước, trào lộng, giễu nhại trong giọng điệu, ngôn ngữ nghệ thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật… nhằm qua đó thể hiện nội dung giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Điều đó chứng tỏ đây là một đặc điểm nổi trội, xuyên thấm nhiều sáng tác của nhà văn này. Tuy nhiên nội dung giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái chưa được các tác giả tìm 6 hiểu một cách hệ thống, chưa đặt thành những luận điểm rõ ràng đồng thời chưa chỉ ra được ý nghĩa xã hội và thẩm mỹ của nó. Bên cạnh đó, các biểu hiện của cảm hứng giễu nhại thâm nhập sâu vào từng yếu tố của hình thức nghệ thuật như nghệ thuật xây dựng nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ… cũng chưa được chú ý khai thác. Chính vì thế, một công trình có tính chất tổng kết, đánh giá trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng các tác phẩm cụ thể để có những kết luận về cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái là một việc làm cần thiết đối với người nghiên cứu văn chương Hồ Anh Thái nói riêng, văn học sau 1975 nói chung. Từ những đánh giá, nhận xét mang tính gợi mở và định hướng trên đây, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái với mong muốn đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống đặc điểm nói trên ở văn chương Hồ Anh Thái. 3. Mục đích và nhiệm vụ Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn chỉ ra mét trong những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Hồ Anh Thái chính là cảm hứng giễu nhại. Cảm hứng Êy được thể hiện trong cái nhìn đời sống và con người trong sáng tác của Hồ Anh Thái cũng như trong các phương diện nghệ thuật ở sáng tác của nhà văn. Qua việc nghiên cứu cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái, luận văn khẳng định những đóng góp của nhà văn trong việc khám phá và miêu tả hiện thực đời sống xã hội và con người cũng như những đóng góp của anh cho sự đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam đương đại. Để đạt được mục đích nghiên cứu nh trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu chính sau đây: Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết về giễu nhại, văn học nhại và cảm hứng giễu nhại trong văn học. Đặt sáng tác của Hồ Anh Thái vào xu hướng nảy sinh và phát triển cảm hứng giễu nhại trong văn học Việt Nam từ sau 1975. 7 Tìm hiểu sự thể hiện cụ thể cảm hứng giễu nhại trong cái nhìn hiện thực và con người ở sáng tác của Hồ Anh Thái và các phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác giả để thể hiện cảm hứng Êy. 4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nội dung nghiên cứu của luận văn chính là cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Tuy nhiên, không phải mọi sáng tác của Hồ Anh Thái đều thể hiện tập trung cảm hứng giễu nhại, do đó đối tượng khảo sát của luận văn chỉ giới hạn trong những tiểu thuyết và tập truyện ngắn sau đây: - Tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế - Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm - Tập truyện ngắn Mảnh vỡ đàn ông - Tập truyện ngắn Tự sù 265 ngày - Tập truyện ngắn Bốn lối vào nhà cười - Tập truyện ngắn Sắp đặt và diễn 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích - tổng hợp Thông qua việc phân tích các tác phẩm văn chương của Hồ Anh Thái, chúng tôi tìm ra các biểu hiện của cảm hứng giễu nhại trong từng sáng tác để từ đó, bằng thao tác tổng hợp khái quát những biểu hiện của cảm hứng Êy trong sáng tác của Hồ Anh Thái nói chung ở những phương diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật, từ đó xây dựng hệ thống luận điểm của các chương trong luận văn. - Phương pháp hệ thống Xem xét cảm hứng giễu nhại trong sự thống nhất và vận động của sáng tác Hồ Anh Thái, trong hệ thống các biểu hiện từ nội dung, cái nhìn đời sống và con người đến các phương thức nghệ thuật. Đồng thời cũng tìm hiểu cảm hứng giễu nhại của Hồ Anh Thái trong sự hồi sinh và phát triển cảm hứng Êy của văn xuôi Việt Nam sau 1975. 8 - Phương pháp so sánh Sử dụng phương pháp so sánh là nhằm làm rõ những nét đặc trưng riêng trong cách thể hiện cảm hứng giễu nhại của Hồ Anh Thái ở các phương diện nội dung và nghệ thuật trong tương quan đồng đại và lịch đại với một số nhà văn có cùng đặc điểm hài hước, trào lộng, giễu nhại trong sáng tác. 5. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 3 chương: Chương 1: Giễu nhại, một cảm hứng nổi bật trong văn học việt nam sau 1975 1.1. Giễu nhại trong văn học 1.2. Cảm hứng giễu nhại trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 Chương 2: Cảm hứng giễu nhại trong cái nhìn đời sống và con người của Hồ Anh Thái 2.1. Giễu nhại trong cái nhìn đời sống 2.2. Giễu nhại trong cái nhìn về con người Chương 3: Cảm hứng giễu nhại với một số thủ pháp nghệ thuật trong sáng tác của Hồ Anh Thái 3.1. Xây dựng những nhân vật hài hước, nghịch dị 3.2. Giọng điệu 3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật 9 10 Phần nội dung Chương 1 Giễu nhại, một cảm hứng nổi bật trong văn học việt nam sau 1975 1.1. GIỄU NHẠI TRONG VĂN HỌC 1.1.1. Khái niệm giễu nhại và khái quát về văn học nhại Nhại theo từ điển tiếng Việt được dùng nh nhái với nghĩa động từ tức là bắt chước ví nh nhái điệu bộ của ai. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Một thể văn châm biếm dùng sự bắt chước để chế giễu một tác phẩm hoặc cả một trào lưu nghệ thuật. Phương tiện chủ yếu của nhại là bắt chước phong cách. Hai kiểu nhại chủ yếu (đôi khi tách thành những thể tài riêng) là: kiểu khôi hài trong đó đối tượng thấp được trình bày bằng một phong cách cao; và kiểu chế nhạo trong đó đối tượng cao được trình bày bằng phong cách thấp. Sự chế nhạo có thể nhằm vào phong cách, có thể nhằm vào đề tài, có thể nhằm vào những thủ pháp thi ca đã trở thành khuôn sáo, lỗi thời hoặc những hiện tượng đời sống vốn dung tục không xứng với thi ca. Có thể có lối nhại một thi pháp, một tác giả, một thể loại, một thế giới quan…” [39; 155] Nhại (parody) có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp paroidia, có nghĩa là “một bài hát được hát cùng lúc với bài hát khác”. Trong văn học, từ xuất phát điểm của khái niệm, nhại là hình thức phê bình châm biếm hoặc là hình thức chế giễu khôi hài bằng cách bắt chước phong cách (style) và bút pháp (manner) của một nhà văn hoặc nhóm nhà văn đặc biệt để nhấn mạnh đến sự non yếu của nhà văn Êy hoặc những quy ước bị lạm dụng của trường phái Êy. Xét theo quan niệm về kiểu nhại giữa tác phẩm này với tác phẩm khác như trên, tức là bao gồm hầu hết các yếu tố làm nên chỉnh thể tác phẩm như hình tượng nhân vật, hệ thống chi tiết, ngôn từ nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật… “nhại khác với với trò hài hước (burlesque) ở độ sâu từ sự xâm nhập kỹ thuật của nó vào đối tượng nhại và bởi độ sâu từ sự bôi bác được dùng để xử lý những vấn 11 đề được đề cao trong bút pháp tầm thường, nhại thật sự bóc trần một cách tàn nhẫn những mánh lới của bút pháp lẫn tư tưởng của những nạn nhân của nó, nhưng nhại không thể được thực hiện nếu không có sự đánh giá thấu đáo tác phẩm mà nó chế giễu” [27; 31]. Xét ở phạm vi rộng hơn, trong văn học còn có những kiểu nhại khác nh nhại chính các đối tượng phản ánh của văn học. Kiểu nhại này đa dạng cả về đối tượng nhại và cấp độ nhại. Các vấn đề về thể chế chính trị, văn hoá khoa học, văn chương nghệ thuật, đạo đức lối sống, thói hư tật xấu của con người ở mọi tầng lớp, địa vị xã hội… Mức độ của nhại có thể đi từ khái quát đến chi tiết tuỳ theo mục đích của chủ thể sử dụng nhại trong tác phẩm của mình. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất ở nhại là sự mô phỏng, dựa theo, bắt chước đối tượng nhại hoặc một đặc điểm nào đó của đối tượng nhại để làm bật nên cái đáng cười, đáng phê phán, chế giễu. Nhại gắn với bắt chước, mô phỏng âm thanh của đối tượng nhại (một bài hát, điệu hát) nhưng nhại còn gắn với bắt chước, mô phỏng cả dáng hình, cử chỉ, điệu bộ, phong cách của đối tượng là con người. Văn học nhại là kiểu sáng tác văn học phổ biến trong thời hậu hiện đại khi ý thức về cái tôi cá nhân đã trở thành một trong những giá trị định hình để đánh giá trình độ văn minh của xã hội. Con người có nhiều cơ hội nhìn nhận, đánh giá người khác và chính bản thân nó nhằm thúc đẩy sự hoàn thiện các quan hệ xã hội và tự hoàn thiện ứng xử của mình trong quan hệ với cộng đồng. Chính vì thế, các tác phẩm văn học nhại trở thành công cụ thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Nhìn chung, văn học nhại thường gắn liền tiếng cười nhằm tống tiễn cái xấu, cái ác và chào đón cái thiện, cái tốt đẹp. Tiếng cười của văn học nhại luôn có tác dụng thanh lọc tâm hồn; cảnh tỉnh, định hướng suy nghĩ và hành động của con người thông qua thái độ phê phán quyết liệt và triệt để của tác giả. Chủ thể nhại khi đã ý thức được sức mạnh và sự thắng thế của mình trước đối tượng nhại tức là anh ta đã nắm trong tay mình một phương tiện có giá trị nhằm thực hiện sứ mệnh xã hội và nghệ thuật với tư cách là nhà 12 văn. Cái khó ở đây chính là ở chỗ, không phải mọi trường hợp chủ thể nhại cũng luôn giành sự thắng thế trước đối tượng nhại bởi trong nhiều trường hợp, chủ thể và đối tượng nhại cùng tồn tại trong mét con người. Đây là lúc chủ thể nhại bị thử thách nhiều nhất. Anh ta buộc phải vượt lên chính mình, vượt lên trên những xấu xa, nhá nhen, ti tiện của bản thân để dũng cảm chỉ ra, vạch ra và lên án nó. Đây chính là cơ sở hình thành khái niệm tự nhại trong văn học. Rất gần với nhại, trong văn học còn có giễu. Thuật ngữ này chủ yếu được các nhà lý luận, phê bình văn học của Việt Nam sử dụng trong các công trình nghiên cứu gần đây. Khái niệm này được sử dụng song hành với nhại một cách khá phổ biến trong nghiên cứu các tác phẩm văn học chứa đựng yếu tố hài hước, trào lộng, châm biếm… Tuy nhiên nội hàm khái niệm này lại chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo kể cả những công trình mang tính chất công cụ như Từ điển thuật ngữ văn học. Trong từ điển Tiếng Việt, từ này được định nghĩa nh sau: “Giễu là nêu ra để đùa bỡn, chế nhạo hoặc đả kích”, “giễu cợt là nêu thành trò cười nhằm chế nhạo, đả kích” [73]. Trong nghiên cứu văn học Việt Nam, giễu thường đi liền với nhại và trở thành một thuật ngữ kép là giễu nhại và được sử dụng khá phổ biến trong nghiên cứu, phê bình văn học sau 1975. Qua tìm hiểu thuật ngữ giễu nhại cả trên lý luận và thực tiễn, chúng tôi nhận thấy giễu nhại vừa là sự nhắc lại, mô phỏng, bắt chước một lời nói, một cử chỉ hay mét phong cách, giọng điệu của đối tượng nhại (bao gồm cả đối tượng phản ánh của văn học, tác giả văn học và bản thân văn học) nhằm làm bật lên cái đáng cười, cái tầm thường, xấu xa, kệch cỡm đáng phê phán của chúng. Trong giễu nhại luôn có sự bắt chước, mô phỏng các đặc điểm của đối tượng giễu nhại nhằm tạo ra sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức, bên trong và bên ngoài… hướng người đọc đến nhận thức cái khiếm khuyết, cái lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ của đời sống xã hội và trong bản thân con người để cùng nhau nhận thức lại, hoàn thiện bản thân và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Giễu nhại có quan hệ 13 mật thiết với một số phạm trù và khái niệm nh: cái hài, châm biếm, trào phóng… Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: Cái hài là một phạm trù mỹ học, phản ánh một hiện tượng phổ biến của thực tế đời sống vốn có khả năng tạo ra tiếng cười ở nhiều cung bậc và sắc thái khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự không tương xứng mà người ta có thể cảm nhận được về phương diện xã hội - thẩm mỹ nh hình thức với nội dung, mục đích và phương tiện, bản chất và hiện tượng… Trong đó, hoặc là chính bản thân mâu thuẫn hoặc là những mặt của nó đối lập với lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp. Cái hài bao hàm một ý nghĩa xã hội gắn liền với sự khẳng định lý tưởng thẩm mỹ cao cả. Nó là sự phê phán mang tính cảm xúc sáng tạo tích cực và có sức công phá mãnh liệt đối với những cái xấu xa, lỗi thời. Sức mạnh phê phán của nó vừa có tính phủ định lại vừa mang ý nghĩa khẳng định. Nó phủ định cái lỗi thời, xấu xa nhân danh cái cao đẹp (một chiều). Ba yếu tố tạo nên cái hài là bản chất mang tính hài của đối tượng mà ai cũng dễ nhận thấy; sự cường điệu những đường nét, kích thước và những liên hệ của chúng trong việc mô tả đối tượng; sự sắc bén, ý nhị, hóm hỉnh của người thể hiện làm tăng hiệu quả của tiếng cười. Có thể thấy, cảm hứng giễu nhại nằm trong phạm trù cái hài, là một dạng biểu hiện độc đáo bằng thủ pháp giễu cợt và mô phỏng (nhại) đối tượng để tạo nên cái hài nh một hiệu quả thẩm mỹ ở người đọc. Châm biếm là một dạng của văn học trào phúng, dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng trong xã hội. Châm biếm gắn liền với tình cảm xã hội như yêu nước, yêu lẽ phải, tình yêu con người. Châm biếm khác hài hước ở mức độ gay gắt của sự phê phán và ý nghĩa sâu sắc của hình tượng nghệ thuật. Trào phóng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác 14 trong xã hội. Trào phóng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào phóng gắn liền với phạm trù mỹ học cái hài với các cung bậc hài hước, châm biếm. Trào phóng bao gồm nhiều dạng nh khôi hài, châm biếm, đả kích mà sự phân biệt các dạng này là ở mức độ và tính chất cùng với phương thức thể hiện. Còn giễu nhại sử dụng những phương thức đặc trưng nh mô phỏng, giễu cợt nhằm cười cợt, châm biếm, đả kích đối tượng. Nh vậy, giễu nhại có thể chứa đựng sự châm biếm nhưng lối văn châm biếm không chỉ sử dụng giễu nhại. So với các khái niệm trên, sự khác biệt chủ yếu của giễu nhại là ở độ sâu của sự xâm nhập vào đối tượng giễu nhại, tức là sự giễu nhại có thể có ở tất cả các cấp độ trong chỉnh thể tác phẩm từ cảm hứng chủ đạo, nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật (kết cấu, hình tượng nghệ thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ). Khi đời sống văn học xuất hiện những tác phẩm văn học mang tính chất giễu nhại là khi Êy xã hội cần có một sự thay đổi theo hướng tiến bộ vì bản chất của giễu nhại là mang tiếng cười tống tiễn cái xấu xa, độc ác... tiếp nhận cái đẹp, cái thiện. Một điểm khác biệt nữa của giễu nhại so với các khái niệm gần nó nh đã nói ở trên là tính đa trị, đa diện mạo của tác phẩm do giễu nhại tạo nên. Giễu nhại thường tạo ra “độ mờ hoá” cao cho sự kiện, hình tượng. Do đó, để hiểu được giá trị của sự kiện, hình tượng giễu nhại và rộng hơn là ý nghĩa tác phẩm là điều không hề đơn giản. Giễu nhại thường đòi hỏi ở người đọc và cả người sáng tác một tầm trí tuệ cao, một nền tảng kiến thức văn hoá đủ rộng và sâu sắc mới có cơ sở để suy luận, liên hệ, khái quát nên những giá trị của nó. Từ đặc điểm này, văn học nhại tự nó đã phân hoá được độc giả: “điểm hấp dẫn của văn học nhại so với các dạng tác phẩm khác là nó đáp ứng được cả hai dạng độc giả: bình dân và bác học. Với đối tượng độc giả bình dân, tác phẩm nhại chủ yếu được tiếp nhận ở góc độ giải trí, gây cười; còn đối với đối tượng độc giả bác học thì đằng sau tiếng cười Êy, người đọc có thể khai thác sự kiện, hình tượng ở nhiều cấp độ nghĩa khác nhau” [27; 35]. 15 Trên thực tế, văn học nhại còn gắn với giải thiêng, thay thế. Đây là một nguyên tắc sống còn của con người phương Tây và vì thế văn học nhại ở phương Tây rất phát triển. Có thể nói, cùng với khoa học kỹ thuật, điều này góp phần tạo ra động lực cho sự phát triển cao hơn của xã hội của phương Tây so với phương Đông. 1.1.2. Cảm hứng giễu nhại trong văn học Có thể nói, cảm hứng giễu nhại chính là trạng thái tình cảm phê phán ở mức độ mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm được lồng vào trong những phương thức biểu hiện có tính chất hài hước, trào lộng, gợi lại, vẽ lại, bắt chước đối tượng giễu nhại để làm bật lên tiếng cười và quan trọng hơn, nó tác động mạnh mẽ đến nhận thức và tình cảm của chủ thể tiếp nhận tác phẩm văn chương về hiện thực mà nó phản ánh. Cảm hứng giễu nhại trở thành một yếu tố của nội dung nghệ thuật, của thái độ, tư tưởng và cảm xúc phê phán của người nghệ sĩ đối với thế giới hiện thực mà tác giả mô tả, phản ánh trong tác phẩm. Trên bình diện này, cảm hứng giễu nhại có quan hệ thống nhất với chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, chi phối sự lựa chọn đề tài và phương thức thể hiện nội dung tư tưởng Êy. Nó tạo ra trong tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần là sự phê phán mạnh mẽ không né tránh tất cả những thói tật của con người trong xã hội và những quan hệ xã hội đã lỗi thời, phản tiến bộ qua đó giúp mỗi người trong chóng ta tự nhìn lại, tự nhận thức và nỗ lực làm thay đổi, loại bỏ những cái xấu xa, tầm thường, giả dối… hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. 1.2. CẢM HỨNG GIỄU NHẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT Nam SAU 1975 1.2.1. Những tiền đề xã hội chủ yếu làm hồi sinh cảm hứng giễu nhại Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả dân tộc bắt tay vào thời kỳ xây dựng lại đất nước. Cùng với tình hình kinh tế - xã hội đất nước đang gặp rất nhiều khó khăn, khủng hoảng, văn học cũng chững lại và dường như rơi vào 16 “khoảng chân không”. Đứng trước hiện thực đó, nhu cầu đổi mới đã trở thành cấp thiết hơn bao giờ hết. Ở vào thời kỳ đó, “những nhà văn mẫn cảm với cuộc sống và có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình đã không ngừng nỗ lực, tìm tòi đổi mới”. Cùng thời điểm này, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nêu ra yêu cầu đổi mới: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chóng ta mới có thể vượt qua khó khăn…” [73; 64]. Những đòi hỏi từ sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hoá trong khu vực và trên thế giới đã làm nảy sinh những quan hệ xã hội mới; thời cơ và thách thức cả trên phương diện kinh tế và văn hoá; vấn đề cũ mới, sự suy thoái về đạo đức lối sống; những biểu hiện mới của tính cách con người... v.v... đã trở thành chất liệu mới của văn học. Cuộc sống mới có nhiều giá trị tốt đẹp song cũng không Ýt điều tồi tệ, xấu xa. Đây là lúc văn học có thể ngợi ca và cũng có thể lựa chọn cảm hứng phê phán. Với cái xấu xa, lạc hậu, lỗi thời thì tiếng cười giễu nhại như một cái chổi quét sạch mọi rác rưởi xã hội đã được văn học lựa chọn. Trên tinh thần dân chủ của thời đại, quan điểm chỉ đạo văn nghệ thông thoáng và cởi mở hơn “đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vằo sự thật” [52; 11] . Điều đó cho phép con người thể hiện chính kiến, quan điểm của mình về mọi vấn đề trong đời sống xã hội một cách thẳng thắn, trung thực. Có thể nói, ý thức cá nhân, trách nhiệm cá nhân được đề cao hơn bao giờ hết. Khi văn học bắt đầu đi vào khám phá con người ở muôn mặt cuộc sống đời thường thì những giá trị tinh thần, khát vọng cá nhân được đề cao. Cùng với nó, nhu cầu thể hiện cá tính, vai trò cá nhân của con người trong mối quan hệ với tập thể, cộng đồng trở nên bức thiết hơn. Nhu cầu được thư giãn, được giải toả và được đánh giá, bình phẩm về các hiện tượng đời sống mà văn học phản ánh, thể hiện cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Chính vấn đề số phận cá nhân, thân phận con người và yêu cầu được 17 thoả mãn những nhu cầu Êy trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã khơi nguồn cho những cảm hứng phê phán mới mẻ trong văn học. Trên cơ sở đó, tiếng cười và cảm hứng giễu nhại đã gặp được cơ hội hồi sinh. Đúng như Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình đã nhận định: “Trong công cuộc đổi mới đất nước sau chiến tranh, ý thức cá nhân được giải phóng, ý thức cá tính được đề cao trong văn chương đã là cơ sở cho tiếng cười nở rộ” [29]. 1.2.2. Cảm hứng giễu nhại trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 Nhìn một cách đại thể trong văn học Việt Nam sau 1975 nói chung, văn xuôi sau 1975 nói riêng, giễu nhại dường như đã trở lại và hồi sinh thành một cảm hứng khá rõ nét ở một số cây bút. Nó rất gần gũi với cảm hứng trào lộng, châm biếm, trào tiếu… vốn đã từng có trong văn học Việt Nam trước đây. Càng về sau, cảm hứng giễu nhại càng đậm nét và trở thành một cảm hứng chủ đạo ở nhiều nhà văn trẻ. Trước năm 1975, văn học mải mê đi tìm hình mẫu con người lý tưởng mang tầm vóc sử thi, mang vẻ đẹp và khát vọng của thời đại. Cảm hứng tụng ca trở thành tiếng nói có trọng lượng, có sức mạnh trong đời sống cộng đồng. Tiếng cười giễu nhại không có cơ hội nảy sinh và phát triển trong một môi trường nghiêm túc, trong không khí sử thi thiêng liêng Êy. Đất nước hoà bình, thống nhất đưa con người trở về với quỹ đạo đời thường. Con người đối mặt với muôn mặt đời thường và ở đó mặt trái của cuộc sống luôn mở ra với tất cả màu vẻ của nó. Đó là những bất ổn, những ngang trái, những thói tật của con người mà không phải đến lúc này mới phát lộ. Chỉ có điều, bây giờ họ mới đủ bình tĩnh, đủ tâm thế, đủ bản lĩnh để nhìn nhận, để chiêm nghiệm 1.2.2.1. Giai đoạn từ 1975 đến 1986 Nguyễn Minh Châu, nhà văn được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” trong Hãy đọc lời ai điếu cho mét giai đoạn văn nghệ minh họa đã nhanh chóng nhận ra vai trò, trách nhiệm của người cầm bút trước yêu cầu đổi mới của văn học. Với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền 18 ngoài xa, Mùa trái cóc ở miền Nam, Sắm vai… Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một “cú vặn mình” cho sự đổi mới, trong đó Èn chứa chất giễu nhại được gợi ra từ mối quan hệ giữa thật và giả, những tình huống nghịch lý, dở khóc dở cười trong cuộc sống hàng ngày. Trong mỗi truyện ngắn của ông luôn Èn giấu những suy tư, trăn trở; những cái cười đùa hóm hỉnh, cái “cười ra nước mắt”, hoặc là giọng châm biếm phẫn nộ. Đó là hình ảnh nhà văn T trong Sắm vai, một người “dám tự tước bỏ đi hết cái phù phiếm, những lớp vỏ bề ngoài, tất cả những cái gì lấp lánh có thể lừa dối mình và người khác” nhưng để chiều lòng người vợ trẻ, đã chấp nhận sống một cuộc sống “sắm vai”, sẵn sàng đánh mất mình, tự biến mình thành một con rối. Đó còn là nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh và vị quan toà nông nổi trước cuộc sống như một bể thẳm không cùng của người phụ nữ làng chài. Là Toàn trong Mùa trái cóc ở miền Nam, một kẻ hèn nhát, sợ chết trong chiến tranh, tiểu đoàn trưởng mà chưa biết đến mùi thuốc súng, đã đẻ ra cái quân lệnh nghiêm ngặt mà vô lý hết sức là bắt “những người lính giải phóng vừa chiến thắng luyện khoa mục đi đều dưới trời mưa” [15; 791]. Nếu Nguyễn Minh Châu được coi là người mở đường của văn học thời đổi mới thì Lê Lựu được xem là người tạo ra bước ngoặt của tiến trình đổi mới văn xuôi nghệ thuật giai đoạn này. Thời xa vắng được in năm 1986 là một tiểu thuyết có giá trị nhiều mặt trong đó cảm hứng giễu nhại là một sự thể nghiệm độc đáo. Từ vị trí người trần thuật từng trải, hiểu đời, tác giả đã dẫn người đọc trở về với “thời xa vắng” đầy bi hài. Cái làng Hạ Vị của Giang Minh Sài dẫu đã lên đến hợp tác xã cấp cao, trải qua những cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, có đủ cả bộ máy đảng, chính quyền nhưng vẫn chỉ là một hình ảnh thu nhỏ của một vương quốc “rất ngố”, “rất nhắng”. Sự Êu trĩ của những người nắm quyền lực, nắm sinh mạng kẻ khác đã giết chết con người cá nhân, những mơ ước khát vọng và tài năng của không Ýt người trong đó có Giang Minh Sài. Tiếng cười xen lẫn dư vị chua cay mà tác phẩm tạo ra được khai thác ở những “chuyện thật như đùa” ngay trong hiện thực đời 19 sống đất nước sau chiến tranh, vốn trước nay “vẫn bị dồn nén, che giấu cẩn thận”. 1.2.2.2. Giai đoạn từ 1987 đến nay Bước sang giai đoạn này, Nguyễn Minh Châu tiếp tục có những thể nghiệm về cảm hứng giễu nhại trong sáng tác. Đó là cái nực cười trong cuộc đối thoại ngầm của lão Khúng và “người lãnh đạo huyện” chỉ chăm chăm “cách cái mạng” của người dân quê muôn đời nghèo khổ trong Phiên chợ Giát. Vậy mà cái lão dân quê tăm tối kia không hiểu cứ thận trọng lảng ra. Khúng “nín lặng nghe một cách cung kính” ông chủ tịch giảng giải về “hai con đường” mà chỉ chực thốt lên: “tôi gần mười đứa con, vào hợp tác xã để mà chết đói à?”. Ông chủ tịch là nhà cách mạng luôn thường trực bầu máu nóng “lúc nào cũng như cái chảo nước đang sôi, hễ thích làm gì là làm, bất chấp tất cả” nhưng với lão Khúng thì: “công trường với chả công triếc… toàn là một lũ ăn cắp”. Bằng ngòi bút của mình, Nguyễn Minh Châu đã giễu nhại những căn bệnh trầm kha của xã hội mà biểu hiện rõ nhất là những sự phi lý cứ ngang nhiên tồn tại trong cuộc sống. Tô Hoài là nhà văn thuộc lớp những nhà văn mở đường cũng đã nhập cuộc với không khí đổi mới bằng một tâm thế đầy hứng khởi. Những tác phẩm thể hiện cái nhìn quá khứ vừa nghiêm khắc, vừa hóm hỉnh và có phần tinh quái. Cái áo tế là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu về đề tài tín ngưỡng dân gian được viết ở thời kỳ đổi mới. Cùng với sự phát triển của đời sống vật chất theo kiểu “phú quý sinh lễ nghĩa”, chuyện thờ cúng, đình đám, chùa chiền được cả xã hội quan tâm. Nhưng cũng chính vì thế mà không khó nhận ra cái nhiêu khê, cái hủ lậu trong cách nghĩ của không Ýt người. Chỉ việc tranh cãi xem ai xứng đáng là chủ tế của một cuộc lễ hội cũng đã bộc lộ những suy nghĩ lạc hậu, thói háo danh, sù ganh tỵ nhỏ nhen của những người trong cuộc - những thứ có thể phá vỡ những điều tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc. Có thể dẫn ra đây suy nghĩ vừa lạc hậu vừa mê tín của những người nông dân qua con mắt hài hước của tác giả: “Ngài thiêng lắm. Đến 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan