Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cải cách kinh tế - xã hội của nhật bản sau chiến tranh thế giới thứ hai và vai t...

Tài liệu Cải cách kinh tế - xã hội của nhật bản sau chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của mỹ

.PDF
102
1045
130

Mô tả:

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................... 3 DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................ 4 MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5 CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CẢI CÁCH ......................................................................................................... 12 1.1. Sự CầN THIếT PHảI THAY ĐỔI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN ........ 12 1.2. NHỮNG HẬU QUẢ NẶNG NỀ DO CHIẾN TRANH ................... 17 1.2.1. SỰ KIỆT QUỆ CỦA NỀN KINH TẾ .................................... 18 1.2.2. NỀN KINH TẾ CỰC KỲ KHÓ KHĂN .................................. 19 1.3. NHU CẦU TÁI LẬP LẠI TRẠNG THÁI BÌNH THƯỜNG CỦA XÃ HỘI VÀ NỀN KINH TẾ .................................................................. 28 1.4. SỰ CHIẾM ĐÓNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA QUÂN ĐỒNG MINH, TRƯỚC HẾT LÀ MỸ ...................................................................... 29 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI CĂN BẢN CỦA NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH ........................................................... 31 2.1. THỦ TIÊU TÌNH TRẠNG TẬP TRUNG QUÁ MỨC VỀ KINH TẾ ......................................................................................................... 33 2.2. CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT Ở NHẬT BẢN ..................................... 49 2.2.1. ĐẠO LUẬT VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT ........................... 50 2.2.2. VIỆC THỰC HIỆN VÀ KẾT QUẢ ....................................... 53 2.2.3. Ý NGHĨA CỦA CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT ........................... 58 2.3. CẢI CÁCH (HAY DÂN CHỦ HOÁ) LAO ĐỘNG........................ 61 2.3.1. CÁC ĐẠO LUẬT VỀ LAO ĐỘNG ....................................... 62 2.3.2. CẢI CÁCH QUAN HỆ CHỦ THỢ ....................................... 72 -1- 2.3.2.1. CẢI CÁCH CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ ................................. 72 2.3.2.2. CƠ CẤU LƯƠNG MỚI .............................................. 73 2.3.2. ỔN ĐỊNH VIỆC LÀM ................................................... 75 CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA MỸ VÀ MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ, BÀI HỌC RÚT RA TỪ TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH ....................................................................... 78 3.1. VỀ VAI TRÒ CỦA MỸ TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ-XÃ HỘI NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI .................................................................................................. 78 3.2. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG CẢI CÁCH KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH ........................................ 86 3.2.1. ĐẶC ĐIỂM CẢI CÁCH ....................................................... 86 3.2.2. TÁC ĐỘNG CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI SAU CHIẾN TRANH Ở NHẬT BẢN .............................................. 89 3.2.3. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÔNG CUỘC CẢI CÁCH .......... 90 3.2.4. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ................................... 91 KẾT LUẬN ................................................................................................. 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO -2- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ESS Ban khoa học và kinh tế SCAP NKK Công ty thép Nhật Bản SCAP Bộ chỉ huy tối cao các lực lượng Đồng minh CIE Ban thông tin và giáo dục SCAP -3- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Sức mạnh quân sự của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai 13 Bảng 1.2: Tình hình cung cấp các hàng tiêu dùng trong chiến tranh 15 Bảng 1.3: Tổng giá trị thiệt hại của Nhật Bản trong Chiến tranh Thái Bình Dương 20 Bảng 1.4: Chiều cao và cân nặng của trẻ em Nhật Bản trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai 22 Bảng 1.5: Lạm phát sau chiến tranh dẫn đến chỉ số giá bán buôn tăng 24 Bảng 1.6: Các khoản mà Nhật Bản phải bồi thường theo yêu cầu của quân Đồng Minh 25 Bảng 2.1: Số tiền cho vay của 4 zaibatsu lớn nhất Nhật Bản năm 1944 41 Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ số tiền cho vay của 4 ngân hàng vào năm 1944 và 1958 45 Bảng 2.3: Những thay đổi trong phân phối diện tích đất canh tác và số nông trại trong tình trạng sử dụng đất 19411945 54 Bảng 2.4: Sự phát triển của liên đoàn lao động 1945 – 1949 66 Bảng 2.5: Số vụ đấu tranh và số người tham gia 67 -4- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Tháng 8 năm 1945, cùng với sự bại trận thảm hại của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai là sụp đổ hoàn toàn của những giá trị của thời chiến. Nền kinh tế Nhật Bản bị rơi vào tình trạng hết sức hỗn loạn và bi đát. Cùng với sự kiệt quệ về mọi mặt là hoàn cảnh đất nước bị quân Đồng minh chiếm đóng và nguồn tài nguyên thiên nhiên ít ỏi và nghèo nàn. Trong tình trạng như vậy, cộng đồng quốc tế và thậm chí không ít người Nhật đều không tin là, Nhật Bản có thể sớm phục hồi được nền kinh tế của mình. Tuy vậy, trước hoàn cảnh đó, người dân Nhật Bản với sức mạnh trường tồn của cả dân tộc và tinh thần không ngại khó khăn, cộng với sự giúp sức của lực lượng Đồng minh, đặc biệt là Mỹ, đã vùng lên, vượt qua mọi gian khổ, khó khăn và phục hồi được nền kinh tế, tạo cơ sở để đất nước bước vào giai đoạn thần kì kinh tế sau đó. Có thể nói, thời gian từ năm 1945 - 1951 là giai đoạn mà nước Nhật , dưới sự chiếm đóng của quân Đồng minh, mà thực chất là của Mỹ, đã có những cải cách toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhằm tái lập sự phát triển bình thường của nền kinh tế và xã hội, trên cơ sở đó tiến hành phục hồi kinh tế, ổn định chính trị xã hội, tạo đà cho sự cất cánh kỳ diệu vào những năm sau. Do đó, những cải cách này đã tạo cho giai đoạn này trở thành một trong những giai đoạn đáng nhớ và đáng tìm hiểu nhất trong lịch sử phát triển hiện đại của Nhật Bản. Những thành công của những cải cách quan trọng của Nhật Bản trong giai đoạn lịch sử này, nhất là những cải cách kinh tế, không chỉ là sản phẩm của sự sáng tạo và làm việc hết mình của người Nhật, mà còn có sự đóng góp -5- không nhỏ của Mỹ trong việc thúc ép, khuyến khích và hỗ trợ cho người Nhật trong tiến trình cải cách này. Việc học viên lựa chọn chủ đề “Cải cách kinh tế - xã hội của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ” làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn cao học của mình, với mục đích, thứ nhất, đây là cách thiết thực để học viên nâng cao thêm hiểu biết vốn còn hạn hẹp của mình về giai đoạn phát triển này của Nhật Bản, trong đó, có những cải cách kinh tế - xã hội căn bản của Nhật Bản; thứ hai, góp thêm một cái nhìn, một đánh giá nữa về những cải cách kinh tế - xã hội của Nhật Bản trong thời kỳ này cũng như vai trò của Mỹ trong đó. Đồng thời, là một quốc gia đang phát triển và với mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, chắc chắn Việt Nam rất cần những kinh nghiệm quý báu để phát triển đất nước như những kinh nghiệm mà Nhật Bản đã từng trải qua. Do vậy, việc nghiên cứu về những cải cách kinh tế - xã hội Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ trong đó, sẽ có ý nghĩa thực tiễn không nhỏ đối với một quốc gia đang tiến hành cải cách và mở cửa như Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài: Các học giả trên thế giới và Việt Nam đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, sách, bài báo và tham luận về các cải cách kinh tế - xã hội Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó tác giả đã tiếp cận được hầu hết các công trình nghiên cứu đã được liệt kê trong Tài liệu tham khảo ở cuối Luận văn. Song những công trình sau đây đã được học viên nghiên cứu kỹ và dựa vào để viết luận văn và đưa ra những đánh giá của mình như: Cuốn "Chính sách kinh tế Nhật Bản" (Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện kinh tế Thế giới, Hà Nội, 1988, tập I); Cuốn "Thành công của Nhật Bản - Những bài học về sự phát triển kinh tế" ( Nxb KHXH, Hà Nội, -6- 1994); Cuốn "Cải cách ở Nhật Bản trong những năm 1945-1951" (Hoàng Thị Minh Hoa, Nxb KHXH, Hà Nội, 1999); Cuốn “ Kinh nghiệm cải cách kinh tế Nhật Bản” (Juro Teranishi và Yutaka Kosai (chủ biên), Trung tâm kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, Nxb KHXH, Hà Nội, 1995); Cuốn “ Nhật Bản với châu Á: Những mối liên hệ lịch sử và chuyến biến kinh tế – xã hội” (Nguyễn Văn Kim, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2003); Cuốn “ Tại sao Nhật Bản thành công?” Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản”(Michio Morishoma, Nxb KHXH, Hà Nội, 1991); Cuốn “Mỹ và Nhật Bản những vấn đề kinh tế xã hội” (Ủy ban khoa học nhà nước - Trung tâm thông tin, Hà Nội, 1992, tập 2); Cuốn “ Chính trị kinh tế Nhật Bản” (Okuhira Yasuhiro và nhiều tác giả, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1994); Cuốn “ Bách khoa thư Nhật Bản” (Richard Bowring và Peter Kornicki, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Hà Nội, 1995); Cuốn “ Lịch sử Nhật Bản và người Nhật từ khởi thủy đến năm 1945”, (Bản dịch của thư viện Quân đội, 1980); Cuốn “Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật Bản” (Saburo Okita, Viện kinh tế thế giới, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 1988, tập 2); Cuốn “ Kinh tế Nhật Bản giai đoạn thần kỳ” (Lê Văn Sang, Viện kinh tế thế giới, Hà Nội, 1988); Cuốn “ Nhật Bản đường đi tới một siêu cường kinh tế” (Lê Văn Sang – Lưu Ngọc Trịnh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991); Cuốn “ Kinh tế Nhật Bản: Những bước thăng trầm trong lịch sử” (Lưu Ngọc Trịnh, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998,); Cuốn “Nước Nhật thời hậu chiến” (Shigeru Nakayama, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh, 1993); Cuốn “ Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh, sự phát triển và cơ cấu” (Takafusa Nakamura, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện kinh tế thế giới, Hà Nội, 1988, tập 1); Cuốn “Kinh tế chính trị học Nhật Bản” (Yasusuke Murakami và Hught patrick (Tổng chủ biên), Nxb KHXH Việt Nam, Viện -7- kinh tế thế giới, Hà Nội năm 1991, Q1 tập 4); Cuốn “Sự phát triển kinh tế của Nhật Bản” (Yoshihara Kunio, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991)’; Cuốn “Sogo Shosha - Đội tiền phong của nền kinh tế Nhật Bản” (Yoshihara Kunio, Ủy ban khoa học xã hội, Hà Nội, 1993),… Trong quá trình thu thập và tìm hiểu các tài liệu, đặc biệt là những công trình trên, về các cải cách kinh tế - xã hội của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ, tác giả nhận thấy có một số điểm đáng chú ý sau: - Các cải cách kinh tế - xã hội của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã được đề cập khá kỹ và toàn diện trong các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài, song phần lớn các quan điểm được bày tỏ, dù không phải là không khách quan, lại là các quan điểm của các học giả nước ngoài, đứng trên lợi ích của họ, chứ không phải là của người Việt Nam, xuất phát từ lợi ích của Việt Nam để phân tích. - Còn các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam, lại chưa thấy có công trình nghiên cứu nào chỉ chuyên sâu về các cải cách kinh tế - xã hội Nhật Bản trong giai đoạn này, mà thường được phân tích kết hợp với những cải cách khác (như cải cách chính trị trong tác phẩm của Hoàng Thị Minh Hoa) hoặc chỉ là một vấn đề trong nhiều vấn đề của Nhật Bản giai đoạn này (như tác giả Nguyễn Văn Kim, Lê Văn Sang hay Lưu Ngọc Trịnh). Do đó, cái gọi là điểm mới hay đúng hơn là điểm khác (chứ không dám nói là phát triển) của Luận văn này là trình bày các cải cách kinh tế - xã hội này một cách có hệ thống hơn, tập trung hơn theo quan điểm của một người đứng cách xa các cải cách này tới 60 - 70 năm để đánh giá (cả bản thân các cải cách kinh tế - xã hội lẫn vai trò của Mỹ) và với mục đích rút ra một số bài học kinh nghiệm (cho tiến trình cải cách và mở cửa của Việt Nam hiện nay). -8- 3. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát lại thực trạng kinh tế - xã hội Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Luận văn muốn nêu lên tính tất yếu buộc Nhật Bản phải cải cách kinh tế - xã hội, nội dung, tiến trình và kết quả cải cách cũng như vai trò của Mỹ trong tiến trình cải cách này, từ đó đưa ra một số đánh giá và bài học cơ bản từ tiến trình cải cách này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Là thực trạng những cải cách kinh tế - xã hội căn bản của Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ trong công cuộc cải cách đó. - Phạm vi nghiên cứu: Trong thời gian ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cụ thể từ năm 1945 đến năm 1951, Nhật Bản đã tiến hành công cuộc cải cách toàn diện và rộng khắp về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giáo dục, phục hồi kinh tế, và ổn định chính trị xã hội tạo đà cho sự cất cánh kỳ diệu lần thứ hai vào những năm sau đó. Tuy vậy, ở đây, học viên chỉ tập trung vào việc nghiên cứu 3 cải cách kinh tế - xã hội căn bản nhất của Nhật Bản trong giai đoạn này, đó là việc thủ tiêu tình trạng tập trung sức mạnh kinh tế thái quá, cải cách ruộng đất ở nông thôn và cải cách lao động trong công nghiệp. Lý do là do năng lực của học viên còn nhiều hạn chế, do khuôn khổ của một Luận văn cao học không cho phép đề cập tất cả các cải cách kinh tế xã hội và, thiết nghĩ, việc trình bày và phân tích sâu 3 cải cách này cũng đã lột tả được kinh tế - xã hội và thực chất của toàn bộ công cuộc cải cách của Nhật Bản sau chiến tranh. Ngoài ra, Luận văn cũng đã đề cập đến ở một mức độ nhất định vai trò của Mỹ trong tiến trình cải cách này. 5. Phương pháp nghiên cứu: -9- Trên cơ sở tập hợp và xử lý tư liệu, chủ yếu là các tư liệu thứ cấp, của các tác giả trong và ngoài nước, bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời, bằng cách tận dụng các phương pháp thống kê, phân tích, diễn giải và so sánh, Luận văn sẽ cố gắng xác định, trình bày, kiến giải một cách rõ ràng các vấn đề mà chủ đề nghiên cứu đòi hỏi phải giải quyết. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên đề tài có những nhiệm vụ sau: - Trình bày bối cảnh trong và ngoài nước Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai như là cơ sở và nguyên nhân dẫn đến những cải cách kinh tế - xã hội thời gian đó. - Trình bày và phân tích những cải cách kinh tế - xã hội căn bản nhất của Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai; Chỉ rõ và phân tích vai trò của Mỹ trong việc tiến hành các cải cách này của Nhật Bản trong những năm ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai. - Đưa ra một số đánh giá và rút ra một số bài học kinh nghiệm từ tiến trình cải cách kinh tế - xã hội này của Nhật Bản. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Thực trạng kinh tế - xã hội Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự cần thiết phải cải cách. Chương 2: Một số cải cách kinh tế - xã hội căn bản của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai. - 10 - Chương 3: Vai trò của Mỹ và một số đánh giá, bài học rút ra từ tiến trình cải cách kinh tế - xã hội của Nhật Bản sau chiến tranh. - 11 - Chương 1 THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CẢI CÁCH Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản chấp nhận tối hậu thư của các nước Đồng minh, đã phải đầu hàng không điều kiện và buộc phải giải giáp toàn bộ lực lượng vũ trang của mình. Nhờ đó, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và thực sự mở ra một trang sử mới cho quá trình phát triển của Nhật Bản. Nhưng trang sử mới tiếp sau chiến tranh này có tốt đẹp hay không phụ thuộc phần lớn vào việc phục hồi và phát triển kinh tế và xã hội Nhật Bản lúc đó. Nhưng muốn nhanh chóng phục hồi và phát triển được nước Nhật nói chung và nền kinh tế Nhật Bản kiệt quệ do chiến tranh nói riêng, Nhật Bản phải có những cải cách căn bản nhằm tái lập lại một xã hội và một nền kinh tế bình thường. Người Nhật sau chiến tranh đã nhận thức được điều đó, họ thấy được sự tất yếu phải tiến hành những cải cách căn bản đó. Vậy, những cơ sở kinh tế - xã hội trong và ngoài nước nào của Nhật Bản sau chiến tranh buộc và khiến Nhật Bản phải đề ra và quyết tâm thực hiện bằng được những cải cách căn bản về kinh tế và xã hội? 1.1. Sự cần thiết phải thay đổi mục tiêu phát triển Cho đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản vẫn theo đuổi mục đích phát triển đất nước thông qua bành trướng lãnh thổ bằng các hành động xâm lược vũ trang. Việc xâm lược các nước châu Á láng giềng và tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai chính là vì mục đích đó. Từ khi nổ ra cuộc chiến tranh với Trung Hoa vào tháng 7 năm 1937 đến khi tuyên bố đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đã tung mọi lực lượng vào cuộc chiến. - 12 - Để thực hiện mục đích này, cùng với việc áp đặt sự kiểm soát gắt gao và tiến hành quân sự hoá nền kinh tế, cơ cấu công nghiệp cũng đã được chuyển thành một khu vực sản xuất rộng lớn phục vụ các mục đích quân sự. Trong phạm vi nước Nhật, đã có sự cải tổ lớn đối với các nghành công nghiệp dân sự, bắt đầu bằng việc nghành công nghiệp dệt và các doanh nghiệp nhỏ. Gần như tất cả các công ty thuộc các ngành dân sự này đều bị đóng cửa và tuyệt đại đa số nhà máy và thiết bị nghành dệt đã được biến thành sắt vụn để sản xuất thép. Các nhà máy được chuyển sang sản xuất đạn dược và quân trang, quân dụng. Các công ty và tất cả các nghành công nghiệp đều bị đóng cửa và nhân viên của họ đều bị cưỡng bức vào làm trong các cơ sở sản xuất đạn dược. Thép thiếu nhiều đến nỗi, ngay cả các lan can cầu và đường ray xe điện đều bị dỡ bỏ . Các nhà máy sản xuất máy bay đã được mở rộng trên quy mô lớn vào giữa cuộc chiến tranh, chúng đã huy động rất nhiều thiết bị và nhân viên nhằm hoàn thành kế hoạch đề ra. Bảng 1.1 cho chúng ta cùng thấy một số dữ liệu về sức mạnh quân sự của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong thực tế, chỉ tồn tại một khu vực sản xuất tối thiểu phục vụ đời sống nhân dân và khu vực này cũng đã bị siết lại tới mức cùng kiệt. Trong trường hợp các hàng hóa công nghiệp khác, như thực phẩm, dệt, bột giấy và hóa chất, tất cả đều giảm mạnh vào đầu những năm 1940. Toàn bộ ngoại tệ mà các công ty kinh doanh có được đều phải nộp lại cho nhà nước để nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất quân sự và việc sử dụng ngoại tệ của họ cũng bị kiểm soát gắt gao. Chẳng hạn, nếu các công ty muốn nhập khẩu những nguyên liệu vật tư cần thiết cho sản xuất, đều phải xin phép chính phủ cho từng trường hợp một. - 13 - Bảng 1.1: Sức mạnh quân sự của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai Danh mục 1941 1942 1943 1944 1945 Máy bay (Chiếc) 6.174 10.185 20.028 26.507 5.823 Động cơ (chiếc) 13.022 18.498 35.368 40.274 6.509 Tàu chiến (tàu) 48 59 77 248 101 Tàu chiến A (tấn) 200.860 230.724 145.760 408.118 98.240 Súng trường (1000 cái) 729 440 630 827 209 52.342 67.461 71.574 81.324 21.279 474 659 923 1406 447 Thuốc súng và thuốc nổ (tấn) Tổng cộng (chỉ số giá trị thực tế, 1937=100) Nguồn: Okazaki Bunkun (chủ biên), Kihon Kokuryoku Dotai Soran (Sổ tay về sức mạnh quốc gia cơ bản), Viện nghiên cứu kinh tế quốc dân, 1953. [41, tr.79] - 14 - Đồng thời, vào những năm tháng này, bất cứ một người nào có khả năng đều bị huy động triệt để. Vì có khoảng từ bốn đến năm triệu người đã được động viên vào các lực lượng vũ trang do đó tình trạng thiếu lao động cho sản xuất đã trở nên hết sức nghiêm trọng, Những thanh niên, đàn ông khỏe mạnh là lực lượng lao động chính trong từng gia đình, có khả năng nhất cũng bị đưa vào quân đội và xung trận làm bia đỡ đạn ngoài mặt trận. Không chỉ riêng nam giới được huy động mà cả phụ nữ cũng được lôi kéo vào các đội tình nguyện để làm việc trong các nhà máy. Hầu như tất cả các trường phổ thông cao trung đều phải nghỉ học và học sinh được phái đến các nhà máy làm việc. Trong khi đó, những người dân thường ở địa phương (chủ yếu là người già, phụ nữ chân yếu tay mềm và trẻ em) lại phải sống những ngày khốn khó, thiếu thốn với mối lo thường trực hàng ngày là mong sao tìm được chỗ trú ẩn an toàn để mong thoát khỏi các cuộc oanh tạc, giữ nguyên được mạng sống. Như vậy, có thể nói, để chuẩn bị cho cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản đã bị quân sự hoá đến mức cao nhất có thể, nhằm phục vụ cho mục đích xâm lược và bành trướng lãnh thổ của mình. [41, tr. 71] Việc huy động mọi nguồn lực cho chiến tranh đã khiến cho cuộc sống của người Nhật Bản ngày càng theo chiều hướng xấu đi. Các mặt hàng thiết yếu hàng ngày cực kỳ thiếu thốn, hầu như tất cả các mặt hàng đều được cung cấp theo khẩu phần và chẳng có gì để ăn nên mọi người làm việc trong các nhà máy quân sự đã phải bỏ ra ngoài tới các vùng nông thôn để tìm mua lương thực. Các tàu hỏa chật ních người với những bao tải trên lưng. Vì số lượng lương thực cung cấp không đủ sống nên buôn bán chợ đen và tình trạng hai giá tồn tại dai dẳng. Bỏ ra ngoài và mua lương thực ở các vùng nông thôn là vi phạm luật cung cấp lương thực, thực phẩm nhưng mọi người đều làm điều đó một cách công khai. Chất lượng cuộc sống giảm mạnh và liên tục. - 15 - Bảng 1.2 sau đây sẽ cho chúng ta thấy mức độ sẵn có của các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày vào tháng 7 năm 1945, bắt đầu bằng các thực phẩm và lấy năm 1941 là năm tình hình cung cấp đã trở nên căng thẳng, làm năm cơ sở là 100. Bảng 1.2: Tình hình cung cấp các hàng tiêu dùng trong chiến tranh Danh mục Gạo Năm 1941 11,74 triệu kg Tháng 7-1945 9,42 triệu kg Thịt 100 20% Cá 100 30% Đồ gia vị 100 Năm 1937 Tháng 7-1945 Hàng dệt bông 200 Hàng dệt len 100 Giày ống của công nhân 100 50% hoặc ít hơn 2% 1% 10% Xà phòng 100 4% Giấy 100 8% Nguồn: Viện nghiên cứu xã hội Ohara, Taiheiyo Senso Ka no Kokumin Seikatsu (Đời sống quốc gia trong thời gian Chiến tranh Thái Bình Dương). Qua các số liệu ở Bảng 1.2, ta nhận thấy rằng, so với năm 1941, lượng cung cấp thịt giảm còn 20%, cá giảm còn 30% và đồ gia vị giảm còn chưa đầy 50% vào tháng 7 năm 1945. Nếu so sánh các hàng hóa khác với các con số của năm 1937, chúng ta nhận thấy tình trạng còn tồi tệ hơn, chẳng hạn, hàng dệt bông đã giảm còn 2% so với các con số của năm 1937, hàng len còn 1%, giày ống của công nhân còn 10%, xà phòng còn 4% và giấy còn 8%. - 16 - Không chỉ cuộc sống vật chất bị khốn khó, mà cuộc sống tinh thần của người dân Nhật Bản trong chiến tranh cũng bị bóp nghẹt. Họ thường xuyên bị cảnh sát theo dõi, mọi phát ngôn tỏ ra nghi ngờ chính phủ và cuộc chiến và mọi hành vi tụ tập đông người đều bị cấm đoán triệt để hoặc bị đàn áp. Rõ ràng là, để phục vụ cho tham vọng xâm lược bành trướng lãnh thổ của giới quân phiệt và tài phiệt Nhật Bản, người dân nước này đã buộc phải hy sinh, phải sống trong những điều kiện cực kỳ thiếu thốn về vật chất và bị kìm kẹp về tinh thần. Nhưng đáng tiếc là hành động xâm lược, hiếu chiến, dã man của chủ nghĩa phát xít đã bị kết thúc bằng một kết cục thảm hại, ghi dấu những trang sử nhục nhã thê thảm trong tiến trình lịch sử Nhật Bản. Do vậy, khi nói đến những năm tháng chiến tranh, người Nhật Bản cho đến nay vẫn chưa thôi bàng hoàng. Đồng thời, sự thất bại nhục nhã cùng với sự trả giá vô cùng to lớn cho một tham vọng xâm lược ngông cuồng đã khiến người dân Nhật Bản nói chung và giới lãnh đạo Nhật Bản nói riêng nhận thức rõ một điều là: Không thể phát triển đất nước bằng các bóc lột, cưỡng bức và kìm kẹp người dân nước mình và xâm lược, đàn áp người dân nước khác bằng vũ lực, mà phải bằng các biện pháp phát triển kinh tế trong một môi trường dân chủ và hoà bình, khiến mọi người tự nguyện đem mọi nguồn lực sẵn có của mình phục vụ đất nước. 1.2. Những hậu quả nặng nề do chiến tranh Sự thất bại và nhục nhã của nước Nhật càng lớn hơn, vì sau khi tiếp nhận “Tuyên cáo Posdam” và đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện, nước Nhật còn bị quân Đồng minh và thực tế là quân Mỹ chiếm đóng. Đồng thời, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã để lại cho người Nhật một đất nước bị tàn phá nặng nề và đổ nát điêu tàn, khiến nền kinh tế - 17 - hầu như bị ngừng trệ, mức sản xuất công nông nghiệp bị tụt giảm chỉ bằng một phần mức trước chiến tranh, cuộc sống người dân cực kỳ khó khăn. 1.2.1. Sự kiệt quệ của nền kinh tế Những thiệt hại to lớn về người và của đã làm cho nước Nhật kiệt quệ. Nhật Bản chẳng những mất hết thuộc địa (diện tích tương đương 44% toàn bộ diện tích nước Nhật) mà nền kinh tế cũng lâm vào tình trạng bị phá hủy hoàn tòan.[19, tr. 61] Nếu tính cả những người chết trận hoặc do chết vì bệnh tật ở ngoài mặt trận thì con số đó lên tới khoảng 1,14 triệu người trong lục quân, 410.000 người trong hải quân. Các cuộc oanh tạc máy bay của quân Đồng minh còn làm cho 300.000 người chết, đưa tổng số người bị chết, bị thương và bị mất tích trong chiến tranh lên tới 2,53 triệu người. Nếu tính cả số lượng người bị chết, bị thương và mất tích ở nước ngoài thì con số này lên tới 3 triệu người. Cùng với những thiệt hại về người, những thiệt hại nặng nề về vật chất do chiến tranh gây ra làm cho cả nước Nhật điêu đứng. Có tới 40% số đô thị của Nhật bị tàn phá và khoảng 2.250.000 nhà ở bị phá hủy, trong đó hầu hết các thành phố lớn, như Tokyo và Osaka, đều bị bom Mỹ huỷ diệt phần lớn. 34% máy móc và trang thiết bị công nghiệp, 25% nhà cao tầng và 81% tàu biển bị phá hủy. Tổng giá trị thiệt hại trong chiến tranh lên tới 64,3 tỉ Yên, chiếm 1/3 tổng giá trị của các tài sản còn lại của đất nước sau chiến tranh là 188,9 tỉ yên. Con số thiệt hại này cũng xấp xỉ ngang với tổng giá trị tài sản quốc gia năm 1935. Chiến tranh đã hủy diệt một lượng tài sản khổng lồ của nước Nhật, tương đương với toàn bộ của cải tích lũy được trong 10 năm, từ 1935 – 1945. Những thiệt hại về vật chất được tính bằng hai lần tổng thu nhập quốc dân năm tài chính 1948 – 1949. Những tài sản thuộc về vốn cố định đã bị phá hủy về đại thể là 25% các công trình, 75% cảng, 3,5% cầu, 7,5% - 18 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan