Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cải cách hành chính về Hải quan từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng (Luận văn thạc sĩ)...

Tài liệu Cải cách hành chính về Hải quan từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
89
183
142

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TRUNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VỀ HẢI QUAN TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẲNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, chính xác và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Văn Trung DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT : Ngân Hàng phát triển Châu Á ADB AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC : Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Chấu Á-Thái Bình Dương ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN-4 : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gồm 4 nước (Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan) ASEAN-6 : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gồm 6 nước (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) ASEM : Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu CCHC : Cải cách hành chính CPTPP : Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương EU : Liên Minh Châu Âu GATT : Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch IMF : Quĩ tiền tệ Quốc tế IMT : Thương mại hàng hóa quốc tế TTHC : Thủ tục hành chính UBND : Ủy ban nhân dân tỉnh VCIS : Hệ thống thông tin tình báo Hải quan Việt Nam VNACCS : Hệ thống thông quan hàng hóa tự động WB : Ngân Hàng Thế giới WCO : Tổ chức Hải quan thế giới WTO : Tổ chức Thương mại thế giới XNK : Xuất nhập khẩu DANH MỤC CÁC HÌNH Trang Hình 2.1: Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tại Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng từ 2012-2016……………... Hình 2.2: Hình 2.3: 40 Số thu nộp ngân sách nhà nước tại Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng từ 2012-2016………………………... 41 Tỷ trong thu nộp ngân sách nhà nước tại tỉnh Cao Bằng…. 41 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN .............................................................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan .......................................................................................................................6 1.2. Nội dung và các yêu cầu về cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan ........16 1.3. Khuôn khổ chính sách, pháp luật hiện hành về cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan ở việt nam ............................................................................................21 1.4. Kinh nghiệm cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan của một số quốc gia ...24 1.5. Kinh nghiệm cải cách hành chính tại một số cục hải quan địa phương .............28 Chương 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VỀ HẢI QUAN Ở TỈNH CAO BẰNG TRONG GIAI ĐOẠN 2012 - 2016 .......................................33 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tổ chức bộ máy của cục hải quan tỉnh cao bằng ...........................................................................................................................33 2.2. Hoạt động cải cách hành chính tại cục hải quan tỉnh cao bằng trong các năm 2012 - 2016 ...............................................................................................................37 2.3. Những hạn chế, tồn tại trong cải cách hành chính ở cục hải quan tỉnh cao bằng trong thời gian qua ....................................................................................................57 2.4. Nguyên nhân tổng quan của những thành tựu, hạn chế trong cải cách hành chính của cục hải quan tỉnh cao bằng thời gian qua .................................................63 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG .......................................................................................................................66 3.1. Quan điểm thúc đẩy cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan từ thực tiễn cục hải quan tỉnh cao bằng ........................................................................................66 3.2. Giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan từ thực tiễn tỉnh cao bằng.....................................................................................................................68 KẾT LUẬN ..............................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................78 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách hành chính (CCHC) về bản chất là việc tác động đến bộ máy hành chính, nhằm biến đổi nó cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của quá trình phát triển. Thực tiễn cho thấy, không có một mô hình CCHC lý tưởng nào áp dụng chung cho mọi quốc gia, do điều kiện, hoàn cảnh của các nước rất khác nhau. Đảng và Nhà nước ta từ lâu đã nhận thức rõ về tầm quan trọng, sự cần thiết của CCHC. Theo đó, nội dung của CCHC được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII xác định là xây dựng một hệ thống hành pháp và quản lý hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương đến cơ sở, có đủ năng lực quản lý [34,tr. 91-93]. Đến năm 1995, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VIII ra nghị quyết chuyên đề về cải cách nền hành chính đồng bộ về thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức. Tiếp đó, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần X, có bước tiến mới về chủ trương CCHC và xác định đẩy mạnh CCHC, xây dựng bộ máy nhà nước thống nhất, thông suốt, hiện đại [35,tr.126-127]; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục đặt mục tiêu đẩy mạnh CCHC, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân [36, tr.324]. Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30c/NQCP ngày 08/11/2011 về Chương trình tổng thể CCHC Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, trong đó, xác định tập trung cải cách trên 06 nội dung cơ bản của nền hành chính nhà nước, đó là: Thể chế hành chính; tổ chức bộ máy hành chính; cán bộ, công chức hành chính, cải cách thủ tục hành chính, tài chính công, hiện đại hóa nền hành chính [17]. Ngành Hải quan là lực lượng quan trọng, không thể tách rời trong bộ máy hành chính nước ta, được thành lập và đi vào hoạt động ngay sau khi đất nước giành được độc lập. Nhiệm vụ của ngành Hải quan từ khi thành lập đến nay liên tục được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển của đất nước. Thời kỳ đầu thành lập (năm 1945), nhiệm vụ của Hải quan chủ yếu là thu các quan thuế nhập cảng và xuất cảng, đến khi có Pháp lệnh Hải quan (năm 1960) được bổ sung thêm nhiệm vụ phòng chống những hành vi vi phạm luật lệ hải quan. Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước, ngành Hải quan cũng được vũ trang, vừa tham gia chiến đấu vừa thực hiện quản lý hàng hóa 1 xuất nhập khẩu [67,tr.9;tr.80]. Hiện nay, theo Luật Hải quan năm 2014, nhiệm vụ cơ bản của Hải quan là quản lý nhà nước về hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, xuất cảnh, nhập cảnh phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; kiểm soát và tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu [40]. Theo nghĩa đó, hoạt động của Hải quan luôn gắn liền và liên tục đòi hỏi phải cải cách để phù hợp với tiến trình cải cách chung của nền hành chính. Từ cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, đặc biệt là sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Trung Quốc, các nước EU và ASEAN, Việt Nam đã thoát khỏi thế bị bao vây, cô lập. Hoạt động thương mại quốc tế có bước phát triển quan trọng, lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng tăng, đồng nghĩa với khối lượng công việc của ngành Hải quan ngày một nhiều. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cấp thiết với ngành Hải quan Việt Nam phải cải cách về thể chế, thay đổi phương thức quản lý, cải tiến thủ tục, chuyển biến thái độ phục vụ của công chức, tăng cường ứng dụng công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hóa phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ hải quan theo yêu cầu mới. Tỉnh Cao Bằng có 332 km chiều dài biên giới đường bộ tiếp giáp với Trung Quốc [80,tr.31], các cửa khẩu sớm được hình thành để phục vụ nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới của người dân và doanh nghiệp. Để thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, cơ quan Hải quan đã được thành lập tại tỉnh Cao Bằng từ tháng 6/1952, là một trong những đơn vị hải quan ở địa phương được thành lập và đi vào hoạt động sớm so với các hải quan địa phương khác trên cả nước. Cùng với sự phát triển của tỉnh và ngành, đơn vị hải quan tại tỉnh Cao Bằng có những bước phát triển quan trọng, góp phần tích cực trong phát triển kinh tế cửa khẩu. Thương mại biên giới tại tỉnh Cao Bằng đạt 450,8 triệu USD năm 2010 [30] và 834,5 triệu USD năm 2016 [29]. Để đạt được kết quả như trên có sự đóng góp quan trọng của công tác CCHC được thực hiện trong nhiều năm. Mặc dù vậy, trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, công tác CCHC về hải quan tại tỉnh Cao Bằng trong thời gian qua vẫn có những hạn chế nhất định, vẫn còn gây trở ngại cho quá trình thực 2 hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hải quan trên địa bàn. Thực tế đó, đòi hỏi cần phải nghiên cứu để tìm nguyên nhân và xác định những giải pháp khắc phục. Tham gia công tác trong ngành Hải quan từ 1997 đến nay, học viên nhận thức rõ tầm quan trọng của CCHC trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan. Trên cơ sở những kiến thức đã học và thông tin, kinh nghiệm thu được trong quá trình làm việc, học viên quyết định lựa chọn đề tài “Cải cách hành chính về Hải quan từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” để thực hiện luận văn Thạc sĩ Luật học, với mong muốn góp phần tìm ra các giải pháp thúc đẩy CCHC ở Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng nói riêng và trong ngành Hải quan nói chung trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu về CCHC trong lĩnh vực hải quan, tiêu biểu như: Tiếp tục cải cách hiện đại hóa hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Nguyễn Ngọc Túc [75], Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan ở nước ta hiện naycủa tác giả Vũ Ngọc Anh [1]; Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan từ thực tiễn tỉnh Lào Cai của Vũ Văn Tuấn [80]; Nghiên cứu, so sánh pháp luật Việt Nam và Trung Quốc về hiện đại hóa hải quan của Nguyễn Ngọc Sơn [41]; Một số giải pháp ứng dụng thương mại điện tử vào các ngành doanh nghiệp Việt Nam của Lê Đình Tứ [71]; Kiểm toán Hải quan Công cụ chống gian lận thương mại của Mai Thị Hoàng Minh [39]; Một số giải pháp đẩy mạnh quá trình hội nhập của Việt Nam với Hải quan các nước của Đoàn Thị Hồng Vân [37]… Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông tin hữu ích về vấn đề CCHC trong lĩnh vực Hải quan. Đây là những tài liệu tham khảo trực tiếp cho học viên trong quá trình thực hiện luận văn. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện có mới chỉ nêu ra một số ý tưởng và đề cập đến những vấn đề bao quát, chưa chỉ ra được những vấn đề cụ thể gắn với điều kiện thực tế công tác CCHC về hải quan tại tỉnh Cao Bằng. Vì vậy, nghiên cứu này rất cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn CCHC nhà nước về hải quan ở tỉnh Cao Bằng từ năm 2012 đến năm 2016, từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quan trọng này ở Hải quan tại địa phương trong những năm tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về CCHC nhà nước nói chung và CCHC trong lĩnh vực Hải quan nói riêng. - Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện CCHC về Hải quan từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016; chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế đó. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác CCHC nhà nước về ngành Hải quan nói chung và tại Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng nói riêng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về CCHC nhà nước về hải quan từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về mặt nội dung, tập trung nghiên cứu công tác CCHC nhà nước về hải quan, không mở rộng nghiên cứu các vấn đề và hoạt động khác của ngành. Về mặt không gian, tập trung nghiên cứu công tác CCHC nhà nước về hải quan ở tỉnh Cao Bằng, không mở rộng sang các địa phương khác. Về mặt thời gian, tập trung nghiên cứu công tác CCHC nhà nước về hải quan từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về CCHC để làm cơ sở phân tích, đánh 4 giá các vấn đề nghiên cứu. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội, bao gồm tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về ý nghĩa khoa học, luận văn góp phần khẳng định tính chất phù hợp, đúng đắn trong chiến lược CCHC nói chung, CCHC trong ngành Hải quan nói riêng của Nhà nước ta, cụ thể như sau: Từ việc rà soát, phân tích các vấn đề lý thuyết và đối chiếu với thực tiễn, luận văn làm rõ thêm và củng cố cơ sở lý luận về CCHC của ngành Hải quan ở Việt Nam hiện nay. Từ việc tổng kết, phân tích thực tiễn triển khai công tác CCHC của một đơn vị hải quan ở cấp cơ sở, luận văn chỉ ra những tồn tại, bất cập, thiếu hợp lý trong kế hoạch và chương trình CCHC của ngành Hải quan. Trên cơ sở đánh giá phân tích thực tiễn CCHC ở cấp cơ sở, luận văn đề xuất một số quan điểm, giải pháp để khắc phục những tồn tại, hạn chế, từ đó thúc đẩy và nâng cao hiệu quả CCHC của toàn ngành Hải quan. Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn có thể sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo cho ngành Hải quan trong việc đề xuất hoàn thiện khuôn khổ pháp luật hiện hành về CCHC của ngành. Luận văn cũng có thể sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo cho Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng trong việc khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện CCHC. Ngoài ra, luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu về CCHC tại các cơ sở đào tạo đại học, sau đại học tại Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về CCHC trong lĩnh vực hải quan; Chương 2: Thực trạng CCHC về hải quan ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn 2012 - 2016; Chương 3: Quan điểm, giải pháp thúc đẩy CCHC trong lĩnh vực hải quan từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan 1.1.1. Khái quát về hải quan và thủ tục hải quan 1.1.1.1. Khái quát về hải quan Thuật ngữ “hải quan” phiên dịch từ chữ Hán là trạm kiểm tra hàng hóa và thu thuế [72,tr.740] và theo từ điển Tiếng Việt là việc kiểm soát và đánh thuế với hàng hóa xuất nhập cảnh; thuế hải quan [73, tr.417]. Theo nguồn tư liệu sử, hoạt động thuế quan ở Việt Nam xuất hiện từ thời Lý (thế kỷ XI), là một bộ phận hữu cơ của nền ngoại thương. Tuy nhiên, phải đến năm 1884, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp mới thiết lập một hệ thống thuế quan hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương ở nước ta và đến năm 1945, sau khi đảo chính Pháp (09/3/1945), phát xít Nhật vẫn giữ nguyên mô hình bộ máy và các luật lệ của Thuế quan Pháp mà chỉ đổi tên thành Thương chính [67,tr.7]. Ngay sau khi Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, lập nên Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 10/09/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp, thừa ủy quyền Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ký Sắc lệnh số 27-SL thành lập Sở Thuế quan và Thuế gián thu [67,tr.9]. Đây là cơ quan tiền thân, đánh dấu sự khởi đầu của Hải quan Việt Nam. Kể từ đó, ngành Hải quan không ngừng phát triển, hoàn thành ngày càng tốt hơn các nhiệm vụ do Nhà nước giao phó. Hiện tại, theo Luật Hải quan năm 2014, Hải quan Việt Nam có hai chức năng cơ bản là quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện xuất nhập cảnh và chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Chức năng quản lý Nhà nước về Hải quan thể hiện ở việc sử dụng quyền lực Nhà nước, được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật hải quan, cụ thể là hành vi 6 của tổ chức và cá nhân thực hiện việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, vật phẩm và xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải ra, vào lãnh thổ Việt Nam. Chức năng đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là việc cơ quan Hải quan sử dụng quyền lực Nhà nước, được quy định trong pháp luật, bao gồm các quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự, để xử lý những vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan, để khởi tố, điều tra ban đầu đối với các tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Hai chức năng nêu trên của ngành Hải quan đều nhằm bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh Quốc gia trong hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại, cụ thể là thực hiện quản lý để hàng hóa xuất nhập khẩu đúng chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước; đấu tranh ngăn chặn các vi phạm để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp, bảo đảm an ninh xuất nhập khẩu. Các chức năng này có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp thuộc quyền lực của Hải quan Việt Nam, được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. 1.1.1.2. Khái quát về thủ tục hải quan Thủ tục hải quan là một bộ phận của hành chính hải quan, chịu sự chi phối của các bộ phận thuộc hành chính hải quan, cụ thể là hệ thống văn bản pháp quy và bộ máy cơ quan, công chức hải quan. Mục 23, Điều 4, Luật Hải quan năm 2014 ghi rõ: “Thủ tục hải quan là các công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan phải thực hiện theo quy định của Luật này đối với hàng hóa, phương tiện vận tải” [40]. Như vậy, thủ tục hải quan là một bộ phận của nghiệp vụ hải quan nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan. Thủ tục hải quan cụ thể hóa, chi tiết hóa những yêu cầu đề ra cho các đối tượng chịu sự quản lý nhà nước về hải quan. Các đối tượng đó chỉ được thông quan khi đã hoàn thành thủ tục hải quan. Quy trình thủ tục hải quan được đặt ra vừa có tính chất hướng dẫn, vừa có tính chất bắt buộc phải thi hành đối với các cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh. Do đối tượng quản lý của cơ quan hải quan là hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh và phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh nên tất cả các 7 loại thủ tục hải quan cũng chỉ tập trung vào 2 đối tượng này. Có thể liệt kê một số loại thủ tục hải quan hiện nay như sau: - Đối với hàng hoá, bao gồm thủ tục hải quan với hàng hoá xuất nhập khẩu thương mại; hàng hoá xuất nhập khẩu đầu tư, tạo tài sản cố định; hàng hoá xuất nhập khẩu theo hình thức gia công; hàng hoá tạm xuất - tái nhập, tạm nhập - tái xuất; hàng hoá xuất nhập khẩu chuyển cửa khẩu; hàng hoá xuất nhập khẩu tại chỗ; hàng hoá nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; hàng hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch; hàng hoá xuất nhập khẩu ra vào kho ngoại quan, kho bảo thuế, cửa hàng miễn thuế; hàng hoá quá cảnh. - Đối với phương tiện vận tải, bao gồm thủ tục hải quan đối với phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh (đường bộ, đường biển, đường không); phương tiện vận tải quá cảnh (đường bộ); phương tiện vận tải chuyển cảng (đường biển). 1.1.2. Khái niệm cải cách hành chính nhà nước, cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan 1.1.2.1. Khái niệm hành chính nhà nước Hành chính là một quá trình quản lý, điều hành, điều chỉnh, định hướng, hướng dẫn sự vận động phát triển của xã hội theo quy luật và nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích của chủ thể quản lý. Hành chính Nhà nước được hiểu là hoạt động chấp hành và điều hành trong việc quản lý một hệ thống theo những quy định trước nhằm giúp cho hệ thống đó hoàn thành mục tiêu của mình [74,tr.6] Theo nghĩa cụ thể, hành chính Nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi, hoạt động của công dân và pháp nhân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân. Đây là hoạt động quan trọng, chủ yếu và phổ biến nhất trong hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước, vì bộ máy hành chính được Nhà nước trao quyền trực tiếp điều hành các hành vi của mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, định hướng cho xã hội phát triển. Các cơ quan hành chính Nhà nước và cá nhân cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ có thể sử dụng quyền lực nhà nước mang tính cưỡng chế để buộc 8 công dân và tổ chức phải tuân thủ những quy định của Nhà nước khi triển khai đưa pháp luật và tổ chức và điều tiết xã hội. 1.1.2.2. Khái niệm cải cách hành chính nhà nước Cải cách là những thay đổi có tính hệ thống và có mục đích nhằm làm cho một hệ thống hoạt động tốt hơn. Tính chất hệ thống và có mục đích là nền tảng để phân biệt cải cách với những hoạt động khác mà cũng gây ra sự thay đổi, ví dụ như sáng kiến, phát minh… Từ khái niệm cải cách, có thể hiểu CCHC Nhà nước là những thay đổi có tính hệ thống, lâu dài và có mục đích nhằm làm cho hệ thống hành chính Nhà nước hoạt động tốt hơn, thực hiện hiệu quả hơn các chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội của mình. CCHC nhằm thay đổi và hợp lý hóa bộ máy hành chính, qua đó tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước. 1.1.2.3. Khái niệm cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan Điều 12, Luật Hải quan năm 2014 quy định: Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo qui định của Luật Hải quan và các luật khác có liên quan; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu [40]. Theo quy định trên, hoạt động quản lý Nhà nước về hải quan gắn liền và có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh của tổ chức và cá nhân, liên quan trực tiếp tới công tác phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại. Vì vậy, CCHC trong hoạt động hải quan chính là những thay đổi có tính hệ thống, lâu dài, có mục đích, nhằm làm cho bộ máy ngành hải quan được tổ chức hợp lý hơn, hiệu quả hơn trong việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, hoạt động đầu tư, du lịch, đáp ứng yêu cầu hội nhập về kinh tế, quốc tế. 9 1.1.3. Đặc điểm, tính chất của cải cách hành chính trong hoạt động hải quan Mọi hoạt động CCHC nhà nước đều hướng tới việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý cụ thể của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển. CCHC trong ngành hải quan cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Tuy nhiên, CCHC Nhà nước là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. CCHC Nhà nước trong mỗi lĩnh vực, ngoài những đặc điểm chung, cũng mang những sắc thái riêng, thể hiện ở việc được tiến hành trên những cấp độ khác nhau, với những nội dung khác nhau, liên quan đến những chủ thể khác nhau. Hải quan là ngành trong bộ máy hành chính, chuyên trách quản lý hành chính nhà nước trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất cảnh nhập cảnh, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, thu thuế xuất nhập khẩu (XNK) về cho ngân sách Nhà nước, thực hiện thống kê hải quan, do đó, CCHC trong ngành này vừa có những đặc điểm chung của CCHC Nhà nước đồng thời có những đặc thù riêng phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của ngành. Ở đây, công tác quản lý hành chính Nhà nước về hải quan chịu sự chi phối của các quy phạm pháp luật hải quan và được thực hiện bởi hệ thống nhân sự hải quan tổ chức theo cơ cấu do Nhà nước đặt ra, cho nên việc áp dụng và CCHC trong lĩnh vực hải quan phụ thuộc vào ba yếu tố: hệ thống văn bản pháp luật quy định, điều chỉnh và có liên quan đến công tác quản lý nhà nước về hải quan; thủ tục hải quan; cơ cấu tổ chức bộ máy hải quan và đội ngũ nhân sự hải quan. Có thể coi đây là đặc điểm thứ nhất về CCHC trong lĩnh vực hải quan. Ngoài đặc điểm nêu trên, CCHC trong lĩnh vực hải quan còn có những đặc điểm sau: 1.1.3.1. Cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan tác động đến các chủ thể tham gia quan hệ thủ tục hải quan Phạm vi chủ thể của các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan bao gồm hai loại chính, đó là: - Người khai hải quan, người vận chuyển hàng hóa, đại lý làm thủ tục hải quan. Đây là dạng chủ thể dễ bị tác động tiêu cực trong quá trình thực hiện thủ tục 10 hải quan, vì vậy, họ là đối tượng cần được chú trọng trong quá trình cải cách thủ tục. Đây cũng là nhóm chủ thể được hưởng lợi chủ yếu, vì vậy thường là nhóm ủng hộ nhiệt tình cho việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. - Công chức hải quan, pháp luật hải quan Việt Nam quy định công chức hải quan là người được tuyển dụng, đào tạo và sử dụng theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Công chức hải quan phải có phẩm chất chính trị tốt, thực hiện nhiệm vụ đúng quy định của pháp luật, trung thực, liêm khiết, có tính kỷ luật, thái độ văn minh, lịch sự. Công chức hải quan thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hải quan, thu thuế cho ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về thủ tục hải quan. Khác với nhóm chủ thể thứ nhất, đây là dạng chủ thể có quyền trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan, vì vậy, họ là đối tượng bị tác động (hạn chế quyền) trong quá trình cải cách thủ tục. Vì là nhóm bị tác động, họ thường không hoặc ít ủng hộ, thậm chí có trường hợp còn cản trở tiến trình cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan. 1.1.3.2. Cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan chủ yếu diễn ra ở các địa bàn hoạt động hải quan Việc xác định địa bàn hoạt động hải quan là cơ sở để cơ quan hải quan thực hiện quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát, kiểm soát đối với hàng hóa và phương tiện vận tải. Ngoài ra, đây cũng là cơ sở để lực lượng hải quan phối hợp với các lực lượng như Công an, Bộ đội biên phòng, cơ quan Quản lý thị trường…để phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và ngăn chặn vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Quá trình CCHC trong các lĩnh vực khác diễn ra ở nhiều nơi thì CCHC trong lĩnh vực hải quan chủ yếu diễn ra ở các địa bàn hoạt động hải quan, cụ thể ở các khu vực cửa khẩu đường bộ, ga đường sắt liên vận quốc tế, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế, các địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu, khu chế xuất, kho ngoại quan, kho bảo thuế, khu vực ưu đãi hải quan, bưu điện quốc tế, các địa điểm kiểm tra hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong lãnh thổ và trên vùng biển thực hiện quyền chủ quyền của Việt Nam. Mặc dù hiện tại hải quan điện tử đã được áp dụng rộng rãi, cho phép thực hiện thủ tục hải quan ở ngoài các khu vực nêu trên, tuy nhiên, việc hoàn tất các thủ tục đa phần vẫn phải 11 thực hiện ở các địa bàn hải quan. Chính tại các địa bàn này, diễn ra quá trình thực hiện thủ tục hải quan giữa một bên là đại diện của Nhà nước, thực hiện quyền lực Nhà nước, bảo vệ lợi ích Quốc gia và một bên là các pháp nhân hay thể nhân tham gia thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá. 1.1.3.3. Cải cách hành chính trong lĩnh vực hải quan chính là tác động đến quan hệ quyền lực - phục tùng trong ngành hải quan Giống như trong các ngành quản lý Nhà nước khác, phương pháp điều chỉnh của ngành Hải quan mang tính chất quyền lực - phục tùng. Điều này là để đảm bảo cho hoạt động hải quan được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Phương pháp này còn đảm bảo để các chế độ về kiểm tra, giám sát hải quan luôn luôn được thực hiện thống nhất, tránh được các hiện tượng cục bộ, địa phương làm mất hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Mối quan hệ quyền lực - phục tùng trong lĩnh vực hải quan thể hiện ở sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý Nhà nước về hải quan. Cơ quan hải quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp đặt ý chí của mình lên các đối tượng quản lý, thông qua việc quy định và áp dụng các quy trình, thủ tục hành chính. Các đối tượng bị quản lý có nghĩa vụ thực hiện các quy trình, thủ tục hành chính cũng như các yêu cầu của cơ quan hải quan trong khuôn khổ pháp luật, tuy nhiên họ cũng có quyền đưa ra các yêu cầu kiến nghị với cơ quan hải quan và các cơ quan hải quan có nghĩa vụ phải xem xét giải quyết. Cơ quan hải quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng bị quản lý phải thực hiện các quy định của pháp luật về thủ tục hải quan. CCHC trong lĩnh vực hải quan sẽ không đảo ngược hay thay đổi, song sẽ tác động mạnh đến mối quan hệ kể trên. Thông qua cải cách về thể chế, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, hiện đại hóa các khâu nghiệp vụ sẽ làm giảm, tiến tới loại bỏ sự độc đoán, tuỳ tiện trong việc ban hành, áp dụng thủ tục hành chính của các cơ quan hải quan, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ, tính chất công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của bộ máy hải quan. Thông qua CCHC của ngành Hải quan sẽ góp phần khẳng định, nâng cao quyền 12 năng của nhóm chủ thể thứ nhất (người khai hải quan, người vận chuyển hàng hóa, đại lý làm thủ tục hải quan). Tóm lại, CCHC trong lĩnh vực hải quan sẽ làm thay đổi tính chất của các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tiến hành quản lý nhà nước về hải quan, tức là điều chỉnh cách thức làm việc và tương tác của cơ quan hải quan với các chủ thể khác tham gia vào các quan hệ trong lĩnh vực này. 1.1.4. Sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa của cải cách hành chính Nhà nước trong lĩnh vực hải quan 1.1.4.1. Sự cần thiết cải cách hành chính Nhà nước trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay Hoạt động quản lý Nhà nước về hải quan đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh thực hiện đúng quy định, chống thất thu cho ngân sách Nhà nước, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, góp phần bình ổn hoạt động sản xuất trong nước, phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại và góp phần duy trì sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Nhà nước. CCHC trong lĩnh vực hải quan là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, xuất phát từ những yếu tố sau: - Công tác quản lý Nhà nước về hải quan, đặc biệt là thủ tục hải quan trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện vẫn còn nhiều tồn tại, chưa đáp ứng được những yêu cầu về cải cách, hiện đại hóa cũng như nhu cầu của nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao. Điều đó thể hiện ở nhiều mặt, nhưng rõ nhất là hệ thống thể chế liên quan đến công tác quản lý nhà nước về hải quan chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; trật tự kỷ cương chưa nghiêm. - Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) ở nước ta không chỉ phát triển mạnh mẽ về kim ngạch, bạn hàng, mà còn xuất hiện nhiều loại hình mới, đòi hỏi ngành Hải quan phải đổi mới hoạt động của tổ chức bộ máy và phương thức quản lý phù hợp. Trong khi đó, việc đầu tư về cơ sở vật chất cho hoạt động của ngành còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hiện đại hóa; 13 đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu người dân và doanh nghiệp vẫn còn diễn ra khá phổ biến trong quá trình giải quyết thủ tục hải quan. - Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một quá trình và yêu cầu khách quan, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Quá trình này khiến cho các quốc gia trên thế giới trở nên gần nhau hơn, quan hệ với nhau chặt chẽ hơn và phụ thuộc vào nhau cũng nhiều hơn. Các quốc gia đang đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới ở tầm quốc tế. Với việc Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và sắp tới là CPTPP - những hiệp định thương mại đa phương rất lớn - đòi hỏi Nhà nước phải thực thi các cam kết ràng buộc liên quan tới dỡ bỏ các hàng rào thuế quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, an ninh dây chuyền cung ứng… Những yêu cầu này đều dẫn tới việc phải cải cách công tác quản lý của hải quan. - Những tiến bộ mạnh mẽ của khoa học - công nghệ đã và đang ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động quản lý Nhà nước về hải quan. Những biến đổi này đặt ra trước công tác quản lý truyền thống những thách thức lớn, đòi hỏi phải cải cách nền hành chính, sắp xếp lại bộ máy, đổi mới phương pháp quản lý nhân sự để theo kịp những tiến bộ chung của thế giới. - Đòi hỏi của doanh nghiệp và xã hội đối với ngành Hải quan nước ta ngày càng cao. Công cuộc đổi mới và hội nhập đặt ra yêu cầu phải CCHC và hiện đại hóa hải quan để có thể đẩy mạnh hoạt động XNK hàng hóa, kích thích sản xuất trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thuận lợi cho ngành du lịch và những hoạt động đối ngoại khác phát triển. 1.1.4.2. Mục đích, ý nghĩa của cải cách hành chính nhà nước trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay Bối cảnh nêu trên đã đặt ra nhiệm vụ cấp thiết với ngành Hải quan phải thực hiện cải cách, đổi mới để đáp ứng với yêu cầu quản lý Nhà nước về hải quan trong tình hình mới. CCHC trong ngành Hải quan hiện nay diễn ra trong khuôn khổ của CCHC Nhà nước, mà mục tiêu cơ bản được xác định trong chiến lược phát triển hải 14 quan đến năm 2020 (ban hành theo Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011 của Thủ tướng Chỉnh phủ), đó là: “Xây dựng hải quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách đầy đủ, minh bạch, thủ tục hải quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, xử lý dữ liệu tập trung và áp dụng rộng rãi phương thức quản lý rủi ro, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á. Xây dựng lực lượng hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu có trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại hợp pháp, phát triển du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [44]. Từ những yêu cầu trên, có thể thấy CCHC có vai trò rất lớn trong việc hiện đại hoá ngành Hải quan nhằm đạt được các mục tiêu, bao gồm: - Đảm bảo nâng cao trình độ, năng lực quản lý thuế ngang tầm với các nước trong khu vực. - Đảm bảo quản lý thuế công bằng, minh bạch, khả thi, hiệu quả, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. - Nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, đảm bảo lợi ích quốc gia, hạn chế những thách thức, bất lợi phát sinh trong quá trình hội nhập. - Đảm bảo nguồn thu của ngân sách nhà nước, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập cảnh phương tiện vận tải, bình ổn nền sản xuất trong nước, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định theo đúng định hướng, khắc phục và giảm thiểu tình hình buôn lậu, gian lận thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Từ một góc độ khác, có thể thấy việc CCHC trong lĩnh vực hải quan sẽ góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa sự tăng lên nhanh chóng về khối lượng hàng hoá XNK, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh với nguồn nhân lực hiện có của ngành Hải quan, từ đó tạo ra sự tương thích của thủ tục hải quan ở Việt Nam với thủ tục hải quan của các nước trong khu vực và trên thế giới trong thời kỳ hội nhập. CCHC trong lĩnh vực hải quan, cũng góp phần nâng cao năng lực quản lý và chất lượng 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan