VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH HẢI
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH HẢI
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành
: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số
: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ LÂM THI
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Bản thân Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn nay
là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các luận văn khác trong cùng lĩnh
vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận
văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thanh Hải
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM ................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự..........................................7
1.2. Cải cách hành chính trong thi hành án dân sự ...................................................17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cải cách hành chính trong thi hành án dân sự .........29
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........................................................38
2.1. Đặc điểm tình hình thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ..........38
2.2. Nội dung cải cách hành chính trong thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng thời gian qua ..............................................................................................41
2.3. Đánh giá chung ..................................................................................................59
CHƢƠNG 3. NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG.......................................................................................................70
3.1. Nhu cầu đòi hỏi việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong thi hành án
dân sự ........................................................................................................................70
3.2. Một số giải pháp nhằm tiếp tục cải cách hành chính trong thi hành án dân sự .73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCHC
: Cải cách hành chính
CBCCVC : Cán bộ công chức viên chức
CHV
: Chấp hành viên
CMND
: Chứng minh nhân dân
CNTT
: Công nghệ thông tin
THA
: Thi hành án
THADS
: Thi hành án dân sự
TCVN
: Tiêu chuẩn Việt Nam
TTHC
: Thủ tục hành chính
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Kết quả nhận đơn yêu cầu thi hành án qua hòm thư điện tử
49
bảng
2.1.
của cục THADS Đà Nẵng
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên biểu đồ
Trang
Kết quả giải quyết TTHC trong lĩnh vực THADS từ năm
40
biểu đồ
2.1.
2011-2016
2.2.
Công tác đơn giản hóa TTHC của Cục THADS giai đoạn
44
2013 – 2016
2.3.
Thống kê mức độ triển khai chất lượng dịch vụ hành chính
47
công
2.4.
Công tác tổ chức - cán bộ hình thành và phát triển qua các
giai đoạn từ 1993-2016
54
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc cải cách hành chính nhà nước nói chung và cải cách hành chính
trong lĩnh vực THADS nói riêng đang là tâm điểm trong các nỗ lực của Đảng và
Nhà nước nhằm tiến tới phát triển, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, xây dựng một nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh” và là điều kiện căn bản để góp phần đạt được các
mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
Từ khi Pháp lệnh THADS năm 1993 được ban hành cho đến nay, hệ thống
cơ quan quản lý nhà nước về công tác thi hành án, các cơ quan THADS từ trung
ương đến địa phương đã nhanh chóng được hình thành. Trong những năm qua, công
tác thi hành án dân sự đã đi vào nề nếp và từng bước được cải cách đã tạo bước
chuyển biến quan trọng trong tổ chức và hoạt động. Kết quả đạt được đã khẳng định
sự đổi mới đúng hướng của công tác thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, thi hành án trước đây cũng như hiện nay là vấn đề hết sức phức tạp. Vì
vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cải cách hành chính trong THADS
vẫn còn những hạn chế nhất định: thủ tục hành chính còn rườm rà, chất
lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; trong cải cách hành chính chưa có
bước đột phá, một số lĩnh vực người dân, tổ chức chưa hài lòng; giải quyết công
việc ở bộ phận một cửa còn chậm thời gian; năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, kỹ năng công tác, kiến thức hành chính còn hạn chế; chưa chủ động và tích cực
trong công việc, tinh thần trách nhiệm chưa cao, thái độ chưa đúng mực, thậm chí
có biểu hiện sách nhi u, gây phiền hà, tiêu cực, việc kiểm tra, phát hiện, xử lý chưa
kịp thời; kỷ luật, kỷ cương hành chính ở một số cơ quan, đơn vị chưa nghiêm; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách có nơi chưa được quan tâm
đúng mức, hiệu quả còn hạn chế…
Sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay đã và đang đặt ra những
nhiệm vụ mới nặng nề đối với công tác thi hành án dân sự nói riêng và công tác thi
1
hành án nói chung. Do vậy, việc tiếp tục CCHC trong công tác THADS là yêu cầu
cấp thiết.
Nghị quyết hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII đã
chỉ rõ: “Sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi hành án theo hướng tập trung
nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ tư pháp. Xây dựng đội
ngũ cán bộ làm công tác thi hành án để bảo đảm tốt công tác xét xử.”
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã
khẳng định “Xác định Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước
thống nhất về công tác thi hành án”. Tiếp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2015 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã tiếp tục khẳng định
“Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính
phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án”. Cụ thể hoá các Nghị quyết trên,
Chính phủ, Bộ Tư Pháp đã ban hành thông tư số: 09/2015/TT-BTP ngày 26 tháng 6
năm 2015 quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động
thuộc Tổng cục THADS và các cơ quan THADS; Thông tư số: 02/2017/TT-BTP
ngày 23 tháng 3 năm 2017 Hướng dẫn một số nội dung quản lý công chức, viên
chức, người lao động thuộc hệ thống tổ chức THADS; Quyết định số: 61/2014/QĐTTg ngày 30 tháng 10 năm 2011 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Tổng Cục THADS trực thuộc Bộ tư pháp; Quyết định số 536/QĐTCTHADS ngày 11/5/2017 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về việc triển
khai hỗ trợ trực tuyến THADS; Quyết định số 537/QĐ-TCTHADS ngày 11/5/2017
của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về việc ban hành Quy trình và triển khai
thực hiện cơ chế một cửa tại các cơ quan THADS.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm tiếp tục CCHC trong THADS có ý nghĩa cấp
thiết trong bối cách cải cách hành chính của nước ta hiện nay. Thực ti n đòi hỏi
phải làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận những quy định về cải cách hành chính trong
THADS. Đồng thời, thực ti n cũng đặt ra yêu cầu tổng kết, đánh giá các thành tựu
cũng như những bất cập của cải cách hành chính trong THADS trong thời gian qua.
2
Trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục nâng
cao hiệu quả cải cách trong THADS.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Cải cách hành chính trong Thi
hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình cải cách nền hành chính nhà nước ở Việt Nam từ năm 1986
đến nay, đã có khá nhiều công trình ở mặt này hay mặt khác nghiên cứu về nền
hành chính nhà nước. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành
án", mã số 96-98- 027/ĐT, Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp , 1996;
- Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới", Bộ Tư pháp, 2000;
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Hoàng Kim Chiếm "Quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự", Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 1997;
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguy n Công Long về "Các biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện",
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2000;
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về "Xã hội hóa thi
hành án dân sự ở Việt Nam", Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002;
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguy n Quang Thái về "Đổi mới tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam", Trường Đại học Luật Hà Nội,
2003;
- Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về “Đổi mới thủ tục
THADS ở Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004;
- Luận văn Tiến sỹ luật học của tác giả Nguy n Thanh Thủy về “Hoàn thiện
THADS ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, 2008;
- Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Đậu Thị Thủy “Quản lý nhà nước về
THADS qua thực tế ở Thanh Hóa”, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2008;
3
- Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguy n Thế Ánh về “Thực hiện pháp
luật về THADS qua thực tiễn tỉnh Hưng Yên”, Học viện khoa học Xã hội, 2011;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Hoàng Thế Anh “Giám sát THADS
ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005;
Những công trình khoa học nói trên đã nghiên cứu những khía cạnh, phạm vi
khác nhau của THADS như nghiên cứu về tổ chức và hoạt động THADS, nghiên
cứu về vấn đề thực hiện pháp luật, nghiên cứu về cơ chế giám sát trong THADS, về
hoạt động quản lý nhà nước về THADS hoặc cũng nghiên cứu về cải cách hành
chính nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi một vấn đề cụ thể nào đó như “thủ tục hành
chính”. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về
CCHC trong THADS. Vì vậy, đây chính là vấn đề nghiên cứu còn bỏ ngỏ mà luận
văn này mong muốn góp phần giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng cải cách
hành chính nhà nước trong THADS, luận văn đưa ra một số phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả cải cách hành chính nhà nước trong THADS trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về cải cách hành chính nhà nước trong
THADS.
- Đánh giá thực trạng cải cách hành chính trong THADS trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
- Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tác giả kiến nghị một số
giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh CCHC trong THADS đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề cải cách hành chính trong THADS từ
thực ti n thành phố Đà Nẵng.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu cải cách hành chính trong THADS từ thực
ti n thành phố Đà Nẵng trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến nay, trong đó tập
trung vào thời kỳ 2012-2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênnin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau để thực hiện đề tài:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: thông qua phương pháp này, các khái
niệm, đặc điểm, quan điểm liên quan đến tổ chức hoạt động, vị trí vai trò, thẩm
quyền của cơ quan thi hành án dân sự trong bộ máy hành chính được phân tích cụ
thể, chỉ ra các mối liên hệ từ đó đưa ra những kết luận về các vấn đề cần giải quyết
trong luận văn.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm ra các đặc điểm chung, điểm
khác biệt của cơ quan thi hành án dân sự. Phương pháp này còn được sử dụng để so
sánh mô hình cơ quan thi hành án dân sự từ khi được hình thành cho đến nay, và so
sánh các số liệu về kết quả thi hành án một số năm để thấy được hiệu quả về tổ chức
và hoạt động của cơ quan này.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển về tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự qua các thời kỳ.
- Phương pháp thống kê: phương pháp này được áp dụng để đánh giá thực
trạng công tác THADS, công tác CCHC trong THADS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về
THADS; đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác
THADS
5
6.2. Thực tiễn của luận văn
Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên
cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo ngành Luật, chuyên ngành Luật hành chính.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung của luận
văn gồm có ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cải cách hành chính trong thi hành án
dân sự ở Việt Nam
Chương 2: Thực ti n cải cách hành chính trong thi hành án dân sự tại thành
phố Đà Nẵng.
Chương 3: Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong thi
hành án dân sự đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Theo từ điển Luật học, nhà xuất bản từ điển Bách Khoa, năm 2006: “THADS là
hoạt động của Cơ quan THADS, người được thi hành án, người phải thi hành án và
các chủ thể khác trong việc thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án”.
THADS bao gồm các hoạt động như cấp, chuyển giao bản án, quyết định dân
sự; giải thích bản án, quyết định dân sự; tự thi hành án của người phải thi hành án;
gửi đơn yêu cầu thi hành án; ra quyết định thi hành án; ra quyết đinh tạm đình chỉ
thi hành án; ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án; quyết định áp dụng biện
cưỡng chế thi hành án, tổ chức cưỡng chế thi hành án....trình tự thủ tục THADS
được thực hiện theo pháp luật về THADS.
Theo quy định tại Điều 2, Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm
2014: “Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm: Bản án,
quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật: Bản án, quyết
định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản án, quyết định dân sự
của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt
Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp
luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án; Phán quyết,
quyết định của Trọng tài thương mại; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc
dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả
công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động
7
hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người
lao động trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
Như vậy, đối tượng của THADS là các bản án, quyết định về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động; quyết định về dân sự, phạt
tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lời bất chính,
án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phần tài sản
trong bản án, quyết định của Tòa án về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản;
quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam; bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Việt Nam công nhận.
Mục đích của hoạt động THADS nhằm bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết
định của Tòa án; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan,
tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành”[20].
Hoạt động THADS hiện nay được điều chỉnh bởi Luật THADS năm 2008,
sửa đổi, bổ sung năm 2014. Điều 1 Luật THADS 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014
quy định: “Luật này quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết
định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính,
xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình
sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của
Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết,
quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định); hệ
thống tổ chức THADS và Chấp hành viên; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành
án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động THADS” [22].
Về bản chất của hoạt động THADS cho đến nay vẫn có nhiều quan điểm
khác nhau về vấn đề này.
8
Quan điểm thứ nhất cho rằng, THADS là hoạt động mang tính tư pháp, là
một giai đoạn của tố tụng, vì: "Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa
trên cơ sở của của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của
quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự". Quan điểm này thừa nhận "không phải mọi
hoạt động trong quá trình thi hành án và quyết định của tòa án đều nằm trong phạm
vi điều chỉnh của Luật tố tụng..." nhưng lại cho rằng thi hành án "thực chất là hoạt
động tố tụng của tòa án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm
cho bản án và quyết định của tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời".
Mặt khác, THADS lại do cơ quan tư pháp có thẩm quyền tổ chức thực hiện
Quan điểm thứ hai lại cho rằng THADS là dạng hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước. Theo quan niệm này thì tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các
vụ án theo quy định của pháp luật; quá trình này trải qua nhiều giai đoạn nhưng các
giai đoạn có liên quan mật thiết với nhau trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn
cuối cùng của quá trình tố tụng cho nên bản án, quyết định của toà án là kết quả
cuối cùng đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng. Hơn nữa, hoạt động THADS
mang tính chất chấp hành và điều hành.
Theo quan điểm thứ ba, THADS là dạng hoạt động mang tính hành chính tư pháp vì: thứ nhất, căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của tòa án;
thứ hai, có sự tham gia của các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng) vào quá trình thi
hành án. Ngoài ra, trong quá trình THADS còn phải tiến hành các hoạt động mang
tính hành chính như chứng thực bản sao giấy tờ, việc ủy quyền THADS, trước bạ
chuyển quyền sở hữu nhà cho người được thi hành án v.v…
Qua nghiên cứu, tác giả thấy quan điểm thứ ba là có cơ sở khoa học hơn cả.
Bởi vì:
THADS gắn liền với hoạt động xét xử vì xét xử và THADS là hai mặt của
quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Xét xử là tiền đề của
THADS, không có xét xử thì không có THADS. Ngược lại, THADS tiếp nối với xét
xử làm cho bản án, quyết định có hiệu lực trên thực tế nên có tác dụng củng cố kết
quả xét xử.
9
THADS mang tính độc lập - đặc trưng của hoạt động tư pháp. Thi hành án là
quá trình di n ra phức tạp, trong đó cơ quan THADS thường phải chịu áp lực, tác
động từ nhiều phía. Để bảo đảm hiệu quả của THADS, cơ quan THADS và chấp
hành viên phải được độc lập và không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp
trái pháp luật vào quá trình THADS. Vì vậy, pháp luật THADS hiện hành đã quy
định cơ quan THADS tách khỏi các sở/phòng tư pháp địa phương, không phụ thuộc
về tổ chức và quản lý của các cơ quan này.
THADS do cơ quan THADS - cơ quan tư pháp tổ chức thực hiện. Việc thực
hiện quyền tư pháp của Nhà nước do nhiều cơ quan tư pháp thực hiện và tòa án chỉ
là một trong các cơ quan đó. Cơ quan THADS có chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước cho nên cơ quan THADS là một trong
các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng).
THADS lại cũng thể hiện rất rõ nét tính chất hành chính. Nó là dạng hoạt
động chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn bộ quá trình thi hành án
với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những
nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của toà án và theo các quy
định cụ thể của pháp luật. THADS cũng là dạng hoạt động quản lí vì thi hành án là
sự tác động tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các
biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết
định của toà án; phải tuân theo các quy định của pháp luật. Mối quan hệ giữa các
chủ thể trong hoạt động TADS là tổ chức thi hành, có tính hành chính, mệnh lệnh.
Để thực hiện các hoạt động chấp hành và quản lí nói trên, phương pháp thuyết phục,
giáo dục có ý nghĩa quan trọng nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi
hành có tính chất đặc thù.
Ngoài ra, để thực hiện các bản án, quyết định được đưa ra thi hành thì trong
quá trình THADS đôi khi các chủ thể tham gia thi hành án còn phải tiến hành các
hoạt động như yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chứng thực bản sao giấy tờ, việc ủy
quyền thi hành án, trước bạ chuyển quyền sở hữu nhà cho người được thi hành án
10
v.v… Tuy vậy, những hoạt động này không phải là hoạt động cơ bản, chỉ mang tính
bổ trợ cho việc thi hành bản án, quyết định dân sự.
Chính vì những lý do trên cho thấy THADS là hoạt động mang tính hành
chính – tư pháp. Tuy nhiên, như đã phân tích ở đoạn trên, cái căn bản trong THADS
là tính chất chấp hành, quản lí và phương pháp bắt buộc, nghĩa là tính hành chính là
cái nổi trội, cơ bản, quán xuyến. Vì vậy, có thể dùng dấu "gạch ngang" giữa hành
chính và tư pháp để phản ánh bản chất của thi hành án. Vấn đề đặt ra là có thể xác
định được mức độ (liều lượng) của tính hành chính và tính tư pháp trong THADS
hay không? Thật khó có thể xác định rõ được điều này. Tuy nhiên, thực ti n cũng đã
cho thấy rằng, đặc điểm của mỗi loại hình thi hành án cũng như của mỗi nhóm vụ
việc trong từng loại hình thi hành án quy định mức độ của tính hành chính và tính tư
pháp. Theo chúng tôi, trong THADS, tính tư pháp luôn thể hiện ở mức độ hạn chế
hơn so với tính hành chính.
Tóm lại, từ sự phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về THADS như sau:
THADS là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp do cơ quan Thi hành án,
Chấp hành viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản
án, quyết định dân sự của Tòa án; Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại
Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, được
thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Thứ nhất, hoạt động THADS mang tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước.
Cưỡng chế là một tính chất cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế làm
cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo Lênin thì pháp luật sẽ không
còn là gì nữa nếu không có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo
những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như không [35], [36].
Các quy tắc đạo đức, phong tục được con người tuân theo, chủ yếu nhờ vào
sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và tác động của xã hội; còn quy phạm pháp
luật được Nhà nước bảo đảm thi hành, nếu ai không chấp hành thì Nhà nước sẽ
cưỡng chế thi hành. Cưỡng chế nhà nước được áp dụng vì lợi ích của Nhà nước, xã
11
hội và công dân, do các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền nhân danh, đại
diện cho quyền lực nhà nước áp dụng. Như vậy, cưỡng chế nhà nước mang tính giai
cấp và xã hội, là một thuộc tính vốn có của Nhà nước.
Cưỡng chế thi hành án là một dạng cưỡng chế nhà nước thông qua cơ quan
THADS áp dụng để khôi phục các quan hệ dân sự bị xâm phạm buộc các cơ quan,
tổ chức nhà nước, xã hội, tổ chức kinh tế thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục
đích ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo pháp chế, trật tự xã hội
và xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.
Thứ hai, hoạt động THADS đề cao sự thỏa thuận của đương sự, người có
nghĩa vụ thi hành án.
Khác với thi hành án hình sự, THADS không hoàn toàn mang tính quyền lực
nhà nước do có sự tham gia của chủ thể không mang quyền lực nhà nước, có hoạt
động thực hiện các phán quyết của các chủ thể được nhà nước trao quyền hoặc công
nhận, cho phép tồn tại sự thỏa thuận giữa các bên. Vì vậy THADS không hoàn toàn
dùng các biện pháp cưỡng chế của quyền lực nhà nước.
Pháp luật THADS công nhận sự thỏa thuận, tự nguyện của người được thi
hành án và của người phải thi hành án về việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa
án, nếu sự thỏa thuận đó không vi phạm lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Điều đó
có nghĩa sau khi tranh chấp đã được phân xử, các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện
ý chí của mình trong quá trình thi hành án, cụ thể như:
Điều 6 Luật THADS 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: Đương sự
có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm
của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận
được công nhận. Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng
kiến việc thỏa thuận về thi hành án. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng
thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa được
thi hành theo nội dung bản án, quyết định [22].
Cụ thể hóa Điều luật này Nghị định số 62 quy định chi tiết và hướng dẫn
một số điều luật THADS, tại Điều 5 quy định:
12
Trường hợp đương sự thỏa thuận trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu
cầu nhưng cơ quan THADS chưa ra quyết định thi hành án thì thỏa thuận đó phải
lập thành văn bản nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký hoặc
điểm chỉ của các bên tham gia thỏa thuận. Đương sự có nghĩa vụ tự thực hiện đúng
nội dung đã thỏa thuận. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ
đã thỏa thuận mà thời hiệu yêu cầu thi hành án vẫn còn thì bên có quyền được yêu
cầu thi hành án đối với phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án,
quyết định.
Trường hợp cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án, đương sự vẫn có
quyền tự thỏa thuận. Thỏa thuận phải thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa
thuận, thời hạn thực hiện thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các
bên tham gia. Trường hợp các bên không tự nguyện thực hiện theo đúng nội dung
đã thỏa thuận thì cơ quan THADS căn cứ nội dung quyết định thi hành án và kết
quả đã thi hành theo thỏa thuận, đề nghị của đương sự để tổ chức thi hành, trừ
trường hợp quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật THADS.
Trường hợp cơ quan THADS đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa
thuận về việc không yêu cầu cơ quan THADS thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết
định thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành án
đối với nội dung thỏa thuận không yêu cầu thi hành theo quy định tại Điểm c Khoản
1 Điều 50 Luật THADS, trừ trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án. Trường hợp thỏa
thuận nêu trên được thực hiện sau khi tài sản đã được bán hoặc giao cho người khác
nhận để thi hành án thì phải được sự đồng ý của người mua được tài sản hoặc người
nhận tài sản để thi hành án. Khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên có trách
nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận trong trường hợp quy định tại
Khoản 2, Khoản 3 của Điều này. Trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì Chấp
hành viên có quyền từ chối nhưng phải lập biên bản và nêu rõ lý do [23].
13
Thứ ba, chủ thể của hoạt động THADS là Cơ quan THADS và chấp hành
viên.
Trong hoạt động THADS, chủ thể được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án là cơ quan THADS. Đây là chủ thể chính được
Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, khi thi hành
nhiệm vụ, chỉ tuân theo pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Theo Điều 17 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì: “Chấp
hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định
theo quy định tại Điều 2 Luật này...”. Để thực hiện nhiệm vụ thi hành án, pháp luật
cũng quy định cụ thể những nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên tại Điều 20
Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 [22].
Thứ tư, hoạt động THADS được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ
do pháp luật quy định.
Nhà nước ban hành hệ thống văn bản pháp luật THADS trong đó quy định
các nguyên tắc, trình tự thủ tục trong THADS tạo ra hành lang pháp lý cho cơ quan
thi hành án thực hiện nhiệm vụ tổ chức THADS. Trình tự, thủ tục THADS không
được quy định hoặc quy định không rõ ràng, không khoa học sẽ dẫn đến việc áp
dụng không đúng pháp luật, gây ra các hậu quả pháp lý không mong muốn, gây tốn
kém kinh phí, không kịp thời hoặc không bảo đảm được lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, dẫn đến khiếu kiện bức xúc, kéo dài.
Cơ quan thi hành án là một bộ phận trong bộ máy nhà nước nên hoạt động
thi hành án đều phải tuân theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước nói chung và điều đó làm cho hoạt động THADS luôn chịu sự tác động, điều
chỉnh trực tiếp của pháp luật về THADS và rộng hơn là của cả hệ thống pháp luật.
Tức là phải tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Thứ năm, hoạt động THADS mang tính phối hợp.
THADS là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản và nhân thân
của các bên đương sự. Để giải quyết việc thi hành án, cơ quan THADS phải tiến
hành nhiều thủ tục như: tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện
14
- Xem thêm -