Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của nam cao trước cách mạng t...

Tài liệu Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của nam cao trước cách mạng tháng tám 1945

.PDF
160
728
74

Mô tả:

CÁI BI TRONG NHỮNG SÁNG TÁC VIẾT VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Ngữ Văn Cán bộ hướng dẫn: ThS. HỒ THỊ XUÂN QUỲNH Cần Thơ, năm 2011 1 ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1. ĐỀ TÀI NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM – 1945 1.1. Mấy nét về cuộc đời của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao (1917 – 1951) 1.1.1. Tiểu sử 1.1.2. Quan niệm sáng tác 1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao 1.2.1. Thời kì trước cách mạng tháng Tám 1.2.2. Thời kì sau cách mạng tháng Tám 1.3. Đề tài người nông dân là một trong những đề tài lớn trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao CHƯƠNG 2. CÁC NHÂN VẬT NÔNG DÂN TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM – 1945 LUÔN SỐNG TRONG CÁI BI 2.1. Giới thuyết về cái bi 2.1.1. Khái niệm về cái bi 2.1.2. Cái bi trong nghệ thuật 2.1.3. Các dạng bi khác nhau 2 2.2. Biểu hiện của cái bi trong truyện ngắn viết về nhân vật nông dân của Nam Cao 2.2.1. Các nhân vật nông dân Việt Nam trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám – 1945 là những con người có nhiều nhu cầu, khát vọng chân chính 2.2.2. Những nhu cầu, những khát vọng chân chính của các nhân vật nông dân Việt Nam trong truyện ngắn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám – 1945 đều không thể thực hiện được dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Khuynh hướng hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945 đã có những đóng góp tích cực trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tên tuổi của những nhà văn hiện thực vẫn còn sống mãi trong lòng độc giả qua bao thế hệ như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp, Bùi Hiển, Nam Cao… Và một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc được nhiều người biết đến là Nam Cao. Như chúng ta đã biết bối cảnh xã hội giai đoạn 1930 – 1945 vô cùng tăm tối, cả dân tộc bị đắm chìm trong đêm trường nô lệ. Cuộc sống của nhân dân Việt Nam vô cùng khốn khổ, lầm than. Bằng cảm quan hiện thực nhạy bén và trái tim nhân đạo cao cả, Nam Cao đã hướng ngòi bút của mình vào tận những ngõ nghách, những góc khuất để phản ánh cuộc sống bần cùng, tối tăm của xã hội lúc bấy giờ. Vì thế khi nói đến sáng tác của Nam Cao là nói đến sự phong phú và đa dạng của một ngòi bút đầy tài năng. Hai đề tài chính trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao là viết về đề tài trí thức tiểu tư sản và đề tài viết về cuộc sống đói khổ, bần cùng của những người nông dân, những con người “thấp cổ bé họng” trong xã hội. Khi nhắc đến Nam Cao, người ta thường liên tưởng đến nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa với những giằng co, mâu thuẫn trong tâm hồn. Hay về người nông dân, chúng ta thường nghĩ ngay đến Chí Phèo là một người nông dân bị bần cùng hóa, bị lưu manh hóa và tiếng kêu đau đớn của Chí Phèo muốn làm người lương thiện (Chí Phèo). Sức sống mãnh liệt của những nhân vật đó đã làm nên tên tuổi của Nam Cao sống mãi trong lòng bao thế hệ độc giả. Khi người viết chọn đề tài: “Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945” xuất phát từ lòng yêu mến, cảm phục tài năng và quan điểm vì nghệ thuật của Nam Cao. Nhà văn với thái độ dám nhìn vào sự thật nên đã có những trang viết thật độc đáo và sâu sắc về cuộc 4 sống của những con người sống trong xã hội đen tối giai đoạn 1930 – 1945. Nam Cao suốt đời chiến đấu với cái ác cái xấu để bảo vệ những cái tốt đẹp và bảo vệ tuyên ngôn nghệ thuật mà ông đã đặt ra cho cuộc đời mình: “Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa). Nam Cao đã góp phần đáng kể vào việc hình thành nhân cách của những người cầm bút chân chính. Bên cạnh sự yêu thích muốn tìm hiểu về tác gia Nam Cao, người viết chọn đề tài này cho thấy được sự mới mẻ, độc đáo cũng như sự chân thành của ngòi bút hiện thực Nam Cao khi viết về người nông dân. So với các nhà văn hiện thực cùng thời đều viết về cái khổ về mặt vật chất nhưng Nam Cao có phần tiến bộ hơn khi ông tìm hiểu những cái khổ về mặt tinh thần. Người nông dân sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến không những thiếu thốn về mặt vật chất mà thiếu thốn cả về mặt tinh thần. Cái khổ về vật chất có thể nguôi ngoai được nhưng cái khổ về mặt tinh thần thì nó lại càng đáng sợ hơn. Người viết hi vọng qua việc thực hiện đề tài này cũng là dịp để người viết có điều kiện tiếp xúc, đánh giá tác phẩm và hiểu sâu sắc hơn về những tác phẩm viết về người nông dân của Nam Cao, một nhà văn hiện thực xuất sắc và là một tác gia lớn của dân tộc Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề Khi viết về tác gia Nam Cao đã có rất nhiều nhà nghiên cứu với những trang viết hay, sâu sắc và độc đáo. Những trang viết ấy chan chứa tình cảm chân thành xuất phát từ lòng yêu thương, kính phục của các nhà nghiên cứu đối với tác gia Nam Cao. Những bài nghiên cứu đó thường xoáy sâu vào cả nội dung và hình thức nghệ thuật trong những sáng tác của Nam Cao. Hai mảng đề tài khơi nguồn bất tận cho biết bao thế hệ độc giả muốn tìm tòi, nghiên cứu về tác phẩm của Nam Cao là đề tài trí thức tiểu tư sản và đề tài người nông dân. Mỗi nhà nghiên cứu đều có một cách nhìn, cách cảm riêng khi nghiên cứu về những “đứa con tinh thần” của Nam Cao. Đặc biệt ở đây người viết muốn tìm hiểu những bài nghiên cứu về đề tài người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao để lấy đó làm tư liệu quý báu cho 5 quá trình nghiên cứu về đề tài: “Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945”. Đầu tiên xin được tìm hiểu những bài nghiên cứu về đề tài người nông dân ở phương diện nội dung. Trong quyển Nam Cao đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học, năm 1997 của Hà Minh Đức, tác giả nghiên cứu những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao với những cuộc đời, những số phận bi thảm, đáng thương của những con người “thấp cổ bé họng” trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Hà Minh Đức đã đi vào phân tích, đánh giá, đưa ra những dẫn chứng chi tiết để làm bật nổi lên số phận bi thảm của người nông dân: “Bằng cách thể hiện chân thật những cảnh đời tủi cực, nghèo khổ nơi xóm thôn, Nam Cao đã đề cập được quá trình bần cùng hóa. Kết quả khốc hại của chế độ bóc lột người, của một bộ máy thống trị vô cùng hà khắc” [3; tr. 52]. Nội dung thể hiện chủ yếu trong bài viết của là nói về nỗi khổ, nỗi đau cùng cực của người nông dân mà nguyên nhân sâu xa là do chế độ xã hội gây ra. Và làng Vũ Đại như là một hoàn cảnh điển hình trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao. Vì làng Vũ Đại là nơi bộc lộ những ung nhọt và những cảnh tượng đáng thương của những kiếp người sống trong xã hội Việt Nam giai đoạn tiền cách mạng. Hay trong quyển Nam Cao – một đời người, một đời văn, Nxb Giáo dục năm 1997, Nguyễn Văn Hạnh cho rằng “Tấm lòng của Nam Cao, nỗi đau đời của Nam Cao, khát khao khôn nguôi của Nam Cao về một cuộc đời tốt đẹp hơn, xứng đáng hơn đối với con người, sự hiểu biết và lòng chân thành của Nam Cao đối với những điều ông viết ra luôn luôn lay động mạnh mẽ con người, khiến con người phải nhìn kĩ hơn vào chính mình và cuộc sống xung quanh để sống nhân ái hơn, có ý thức hơn, có trách nhiệm hơn” [8; tr. 42]. Hoàng Ngọc Hiến khi nghiên cứu những tác phẩm viết về người nông dân của Nam Cao, ông cũng có bà viết “Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện Chí Phèo” trong quyển Văn học và học văn, Nxb Văn học – H năm 1997. Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét “Trong “Chí Phèo” qua cuộc sống của làng Vũ Đại, tác giả đã làm nổi bật một số nét cơ bản trong hoàn cảnh lớn của nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Bọn thống trị cũng như người lao động bị tha hóa, những 6 chất độc ở ngay trong sự sống thấm vào máu từng người, vùi dập những gì tốt đẹp và kích thích những gì nhỏ nhen, xấu xa trong con người” [11; tr.196]. Hay trong quyển Nam Cao – Đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học năm 1998, Nguyễn Văn Hạnh khi nghiên cứu về đời sống của người nông dân thông qua những sáng tác của Nam Cao thì ông có nhận định sau: “Họ thuộc thế giới của những người cùng khổ ở “dưới đáy” của xã hội, những con người bị tha hóa, bị què quặt, cả về thể xác lẫn tinh thần, bị áp bức, bị hành hạ vì tối tăm mặt mũi lo chạy ăn từng bữa, vì sự bế tắc mục ruỗng của xã hội, vì sự hèn nhát, sợ hãi của chính mỗi người” [10; tr. 179]. Cũng nói về vấn đề nhân cách của người nông dân khi phải đối mặt với cái đói cái nghèo thì Lê Đình Kỵ đã viết: “Nam Cao đã diễn tả với một sức mạnh lạ thường quá trình lưu manh hóa của một số quần chúng cơ bản trong hoàn cảnh bị đè nén, áp bức, bốc lột của xã hội cũ” [33; tr.108]. Đau xót và thương cảm trước nỗi đau bị tước đoạt nhân phẩm của người nông dân, Vũ Dương Quỹ đã đi vào nghiên cứu về những quá trình đi tìm lại nhân cách bị đánh mất: “Miêu tả số phận người nông dân chính là quá trình đi tìm nhân cách của họ” [33; tr.185]. Tác giả đã định nghĩa con đường tìm nhân cách mà nhà văn Nam Cao hướng nhân vật của mình vươn tới: “Chí Phèo – Con đường tìm nhân cách của người thanh niên Chí Phèo là đi tìm lại cuộc đời” [33; tr.185] hay “Con đường thứ hai đi tìm nhân cách là con đường của Lão Hạc (trong truyện ngắn Lão Hạc) xin tạm gọi là con đường của tình thương và danh dự” [33; tr. 186 – 187]. Từ nguyên nhân nghèo khổ, bị xã hội áp bức, người nông dân đã không giữ được nhân phẩm của mình trước hoàn cảnh nên họ bị biến chất, bị tha hóa và lâm vào bi kịch của những con người bị bần cùng hóa, bị lưu manh hóa. Lê Đình Kỵ đã xót xa, thương cảm đối với quá trình con người bị tha hóa biến chất và ông đã cảm thông sâu sắc với nỗi đau của họ: “Quần chúng nghèo khổ dù hiện ra dưới màu sắc sáng sủa hay u ám, ý nghĩa khách quan của truyện ngắn Nam Cao vẫn là một: phải cứu lấy cuộc sống, phải bảo vệ con người” [33; tr.110]. Cũng nói về cái khổ của người nông dân, trong quyển Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Hội nhà văn năm 2003 của tác giả Trần Mạnh Thường, ông có nhận xét “Nam Cao tài năng đã 7 dựng nên được bức tranh hiện thực về nông thôn Việt Nam bị bần cùng thê thảm vào những năm 1940 – 1945 và vì vậy ông được coi là nhà văn của nông dân” [34, tr.530]. Nghiên cứu về đề tài người nông dân thì đa số những bài nghiên cứu đều xoáy sâu vào hai nội dung chính đó là cuộc sống nghèo khổ và vấn đề về nhân phẩm của họ. Về vấn đề nhân phẩm của người nông dân trong quá trình đấu tranh với cái nghèo, cái đói cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu. Viết về miếng ăn và cái đói thì Nguyễn Đăng Mạnh trong quyển Nhà văn Việt Nam hiện đại: Chân dung và phong cách, Nxb Văn học năm 2006 đã nêu lên nhận định ở cuối bài viết: “Tác phẩm của Nam Cao là tiếng kêu cứu lấy nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng ăn làm tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi” [23; tr. 247 – tr. 248]. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định chính miếng ăn và cái đói là hai vấn đề quan trọng ảnh hưởng nghiêm trọng đến người nông dân. Cũng chính vì miếng ăn và sự nghèo đói đã khiến họ lâm vào tình trạng bế tắc không lối thoát và dẫn đến những bi kịch. Hậu quả nghiêm trọng nhất là về vấn đề nhân phẩm, đạo đức của họ bị đe dọa, bị tước đoạt và bị hủy diệt. Tiếp theo người viết đi vào tìm hiểu những ý kiến và những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về phương diện nghệ thuật trong ngững truyện ngắn viết về người nông dân trước cách mạng tháng tám 1945 của Nam Cao. Trong quyển Văn học Việt Nam hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1997, Phong Lê cũng tìm tòi và nghiên cứu về giá trị tố cáo xã hội qua những tác phẩm của Nam Cao. Phong Lê không đi vào hai mảng đề tài chính trong sáng tác của Nam Cao là viết về đề tài người nông dân và trí thức tiểu tư sản, ở đây Phong Lê đi sâu vào nghiên cứu những cái nghịch dị trong những sang tác của Nam Cao. Ông đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm Chí Phèo và Sống mòn. Qua việc tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật người nông dân của Nam Cao thì Phong Lê đã phát hiện được những nét mới trong những sáng tác của Nam Cao là ông đã đi sâu với những cái vặt vãnh của cuộc sống đời thường: “Nam Cao và Sê Khôp đều tìm về một chủ nghĩa hiện thực của đời thường, soi chiếu các giá tri phổ quát của đời sống vào “những chuyện không muốn viết”, vào những 8 điều tưởng như chi li vặt vãnh” [21; tr.252]. Tuy nhiên, từ những chi tiết vụn vặt, đời thường mang những nét rất riêng đã có một ý nghĩa khái quát thật sâu sắc: “Vũ Đại- không chỉ gợi một đơn vị làng với những ao chuôm, những lũy tre, những vườn chuối, giàn trầu quen thuộc mà còn là sự biểu hiện chung cho sự phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ một quần thể dân cư nào đó, cả nông thôn và thành thị” [21; tr.255]. Từ những hình ảnh của những người nông dân trong những sáng tác của Nam Cao, chúng ta như thấy được cả một xã hội đang ngột ngạt đen tối và đang quằn quại trong đêm trường nô lệ dưới sự thống trị của thực dân nửa phong kiến. Cuộc sống của những người nông dân vô cùng nghèo đói, khổ cực và tủi nhục. Nhà văn Nam Cao đã thấy được cảnh nghèo túng, bần cùng của họ và ông có một cái nhìn rất trân trọng và cảm thông đối với những người nông dân. Hay trong quyển Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục năm 1997, Phan Cự Đệ đã có nhận xét về ngòi bút hiện thực của Nam Cao “Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thực cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội thực dân phong kiến, và thể hiện sinh động than phận khổ đau, bế tắc của những người tiểu tư sản nghèo và nông dân những năm 1940 - 1945” [2; tr.471] và Nam Cao là “Người thư kí trung thành của thời đại, với một bút pháp riêng đầy sáng tạo, Nam Cao đã đặt ra trước người người đọc hàng loạt vấn đề: những cảnh đời éo le, chua chat, những bi kịch đau đớn, vật vã. Thông qua những sáng tác của mình, Nam Cao đã phản ánh cái khung cảnh ngột ngạt, tăm tối của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám” [2; tr.475]. Một nhận định cũng không kém phần quan trọng của Trần Đăng Suyền trong “Nam Cao – Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn” – Tạp chí Văn học số 6 năm 1998, ông viết “Nam Cao là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi hiện đại Việt nam. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông để lại càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo” [31; tr.63]. Và trong quyển Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học xã hội năm 2008 của Trần Đăng Suyền, ông đi vào khám 9 phá thế giới nghệ thuật trong những sáng tác của Nam Cao “Những nhân vật của Nam Cao là những “con người nhỏ bé”, những con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Nhà văn, với một sự cảm thông lớn lao đã chăm chú quan sát cuộc sống hằng ngày của nhân vật. Cái đói, sự nghèo khổ, bệnh tật, tất cả những cái đó cứ đeo đuổi, cứ bám riết trên con đường đời của họ. Trong những hoàn cảnh như vậy, với một sức mạnh nghệ thuật đặc biệt, Nam Cao đã làm sống dậy thật cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh những cuộc đời và số phận, những nét tâm lí và tính cách của nhân vật. Chủ nghĩa tâm lí của sự trần thuật đã chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến toàn bộ tổ chức của tác phẩm, từ cốt truyện, kết cấu, xung đột đến không gia và thời gain nghệ thuật” [32; tr.41 – tr.42]. Nhìn chung, các bài nghiên cứu trên của các tác giả thì đều có điểm chung là: đều nói về cái khổ về cuộc sống vật chất và cái khổ về cuộc sống tinh thần của người nông dân trong những sáng tác của Nam Cao. Các tác giả đưa ra hàng loạt những cái khổ của người nông dân khi sống trong chế độ thực dân phong kiến. Và những tác động ghê gớm của cơ chế xã hội đó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của những người nông dân và ảnh hưởng đến cả một bộ mặt xã hội nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ. Nó đã đẩy đời sống của người dân rơi vào cảnh bần cùng, ngõ cụt và không có lối thoát. Đồng thời các tác giả còn làm bật nổi lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nhà văn Nam Cao trong những sáng tác viết về đề tài người nông dân. Vì có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về đề tài người nông dân trong những sáng tác của Nam Cao đã tạo cho người viết có điều kiện thuận lợi để tìm hiểu, học hỏi, đối chiếu và so sánh. Từ việc kế thừa những ý kiến của các tác giả trên đồng thời người viết đã tham khảo rất nhiều tài liệu viết về Nam Cao, người viết xin được dựa vào những tư liệu quý giá đó để làm cơ sở khách quan cho bài nghiên cứu của mình. Tiến trình thực hiện bài nghiên cứu đề tài: “Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945”. Bước đầu người viết đi vào tìm hiểu đề tài người nông dân trong những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đây vốn là một đề tài quen thuộc của các nhà văn thuộc khuynh hướng văn học hiện thực phê phán giai 10 đoạn 1930 – 1945. Và người viết sẽ đi sâu vào tìm hiểu về tìm hiểu khái niệm, những phạm trù mĩ học của cái bi và những biểu hiện của cái bi trong những sáng tác của Nam Cao khi viết về người nông dân. Khi đi vào tìm hiểu người nông dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến ta sẽ thấy được những bi kịch đau khổ của những con người đáng thương trong xã hội. Tiêu biểu trong sáng tác của Nam Cao được dựa trên hai bình diện: tốt và xấu, thiện và ác, tìm ra bản chất lương thiện của những con người “thấp cổ bé họng” trong xã hội. Đồng thời cũng đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp làm cho người nông dân bị tha hóa, bị bần cùng hóa và những bi kịch về những kiếp người sống dưới đáy của xã hội. Đi sâu vào những bi kịch về vật chất cũng như bi kịch về tinh thần của người nông dân sẽ thấy được một tấm lòng nhân đạo của Nam Cao khi viết về họ. Thông qua đó người viết nhằm tìm kiếm những nét mới mẻ, những tư tưởng hiện thực của Nam Cao khi viết về những số phận của người nông dân với những bi kịch về số phận và cuộc đời. Người viết hi vọng sẽ gặt hái nhiều thành công khi chọn nghiên cứu đề tài: “Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945”. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài viết về người nông dân trước Cách mạng tháng Tám là một đề tài quen thuộc trong những sáng tác của những nhà văn thuộc khuynh hướng văn học hiện thực phê phán. Hình ảnh người nông dân được các nhà văn khắc họa một cách chân thật, sinh động qua ngòi bút hiện thực đầy sáng tạo và độc đáo. Mỗi nhà văn có cái nhìn riêng về người nông dân. Các nhà văn hiện thực phê phán tuy cùng cảm quan hiện thực nhạy bén nhưng việc thành công của những trang viết còn phụ thuộc rất nhiều vào tài năng, tấm lòng và sự nhiệt huyết của từng ngòi bút. Đặc biệt Nam Cao có những trang viết về người nông dân rất đa dạng, phong phú và chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Khi viết về người nông dân thì Nam Cao thường viết về những cái khổ, những bi kịch về số phận của những người nông dân sống trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Người nông dân bị đàn áp, bị xô đẩy vào những sự cùng cực và rơi vào bi kịch của số phận những 11 người nghèo khổ bất hạnh. Vì thế nhà văn Nam Cao được xem là một trong những nhà văn hiện thực có nhiều sáng tác hay và độc đáo khi viết về mảng đề tài người nông dân. Đặc biệt là viết về những cái khổ, cái tủi nhục và những kết cục bi thảm của những số phận bất hạnh của người nông dân. Khi nghiên cứu đề tài: “Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945”, người viết dựa trên bình diện so sánh, đối chiếu với những sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp, Bùi Hiển… cũng như những tác phẩm của các nhà văn Tự lực văn đoàn khi viết về đề tài người nông dân như: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo… để thấy được những điểm khác biệt giữa các nhà văn khi viết về người nông dân. Đồng thời, người viết vận dụng cái bi – một phạm trù mĩ học vào việc luận giải cái bi của những cuộc đời các nhân vật nông dân mà Nam Cao đã miêu tả trong những truyện ngắn trước cách mạng tháng Tám – 1945. Từ đó, giúp người viết nhận rõ cái bi của các nhân vật nông dân Việt Nam dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến được nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao khắc họa trong những sáng tác của ông. Từ đó thấy được giá trị hiện thực đặc biệt là giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn viết về đề tài nông dân trước cách mạng tháng Tám của nhà văn Nam Cao. Và việc nghiên cứu về đề tài này, người viết nhằm mục đích là để lại tư liệu quý giá cho bản thân trong quá trình công tác sau này. 4. Phạm vi nghiên cứu Từ một nhà văn chân chất, hiền lành và rồi trở thành một người lính anh hùng đã chiến đấu và đã hi sinh vì quê hương Tổ Quốc . Nam Cao đã để lại cho đời những tác phẩm có giá trị vừa mang tính tính nhân văn về quyền sống của con người, đặc biệt là người nông dân (Lão Hạc, Chí Phèo, Một bữa no, Nghèo, Dì Hảo…) và vừa mang tính tuyên ngôn về quan điểm nghệ thuật (Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn…). Nam Cao đã viết nhiều về hai đề tài về nông dân và trí thức tiểu tư sản đã tạo nên nét riêng trong phong cách sáng tác của Nam Cao. Những sáng tác của Nam Cao thuộc khuynh hướng hiện thực phê phán luôn thu hút nhiều người thích nghiên cứu, tìm tòi và khám phá. Những công trình nghiên cứu về tác 12 gia Nam Cao của những nhà nghiên cứu sẽ góp phần làm cho những thế hệ hôm nay và mai sau sẽ hiểu sâu sắc, đúng đắn về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nam Cao. Với tư cách là một người nghiên cứu, người viết chọn nghiên cứu về nhà văn Nam Cao, một phần là muốn đóng góp một ít sự hiểu biết mới mẻ của bản thân về nội dung “cái bi” được thể hiện trong những sáng tác viết về người nông dân. Đồng thời người viết nghiên cứu về Nam Cao vì muốn tri ân về những đóng góp to lớn và rất có ý nghĩa của nhà văn đối với văn học và cuộc đời. Và phạm vi nghiên cứu của người viết là những truyện ngắn viết về người nông dân của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám - 1945: Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Đòn chồng, Mua danh, Một bữa no, Một đám cưới, Tư cách mỏ, Trẻ con không biết đói, Lang Rận, Nửa đêm,… Từ nội dung của những tác phẩm đó, người viết đi sâu vào tìm hiểu những bi kịch trong số phận của người nông dân sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Qua đó ta sẽ thấy được giá trị phản ánh hiện thực một cách chân thật và rất cụ thể của Nam Cao. Cũng thông qua đó ta thấy được giá trị hiện thực, giá trị nhân văn, giá trị nhân đạo và những bài học triết lí mà nhà văn gởi gắm vào trong tác phẩm. Do có rất nhiều tài liệu tham khảo liên quan đến đề tài nghiên cứu nhưng người viết cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu. Vì có nhiều người viết về tác gia Nam Cao, viết về những tác phẩm của ông và có nhiều bài viết hay về nhà văn nên người viết e rằng đôi khi có sự lặp ý hoặc lặp lại những điều mà người khác đã nói trong những bài nghiên cứu của họ. Nhưng thay vào đó là những cố gắng cũng như lòng yêu quý chân thành đối với tác gia Nam Cao thì người viết hi vọng sẽ đạt được nhiều thành công trong đề tài nghiên cứu này và có thể hoàn thành sớm học phần luận văn của mình. 5. Phương pháp nghiên cứu Mỗi công trình nghiên cứu thì các tác giả đều lựa chọn cho mình một phương pháp nghiên cứu cụ thể. Vì thế khi người viết chọn nghiên cứu về đề tài: “Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945” thì người viết đã chọn cho mình những phương pháp nghiên cứu 13 phù hợp với đề tài. Vì phương pháp là vũ khí, là công cụ để vạch ra hướng đi, đường lối đúng đắn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Và trong lĩnh vực khoa học cũng vậy, muốn đạt được hiệu quả cao cho những công trình nghiên cứu thì phải vạch ra những phương pháp đúng đắn cho cả quá trình nghiên cứu. Phương pháp và mục đích chính là điều kiện đầu tiên và quan trọng trong mọi hoạt động. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học thì phương pháp được xem là yếu tố quyết định trong việc đánh giá nhìn nhận vấn đề vì nhờ phương pháp mà chúng ta có thể thấy được những quá trình tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo của họ trong những công trình nghiên cứu đó. Trong đề tài nghiên cứu về “Cái bi trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945” thì người viết đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học để truyền tải nội dung mà người viết muốn trình bày về công trình nghiên cứu của mình. Cụ thể những phương pháp nghiên cứu tiêu biểu và có hiệu quả mà người viết đã sử dụng trong bài nghiên cứu gồm có những phương pháp sau: Đầu tiên người viết đọc kĩ những truyện ngắn viết về đề tài người nông dân của Nam Cao, đặc biệt là những truyện ngắn thể hiện được “cái bi” trong đó để nắm được nội dung chính và giá trị của từng tác phẩm cụ thể; thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài để hiểu rõ hơn về “cái bi” và nhất là những “biểu hiện của cái bi” trong tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao. Từ đó, người viết tập trung vào phân tích từng loại bi kịch qua số phận của người nông dân sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đồng thời người viết còn ghi nhận những đóng góp, những nhận định có tính chất khách quan chính xác của những nhà nghiên cứu trước đó để làm cơ sở, nền tảng cho việc đưa ra những dẫn luận chung về “cái bi” và những “biểu hiện của cái bi” trong sáng tác văn học. Để từ đó người viết đi vào lí giải vấn đề cái bi thông qua từng tác phẩm cụ thể viết về người nông dân. Do đó, ở đề tài này người viết chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp cùng với những thao tác chứng minh, phân tích, giải thích, bình luận. Đồng thời người viết còn vận dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để làm bật nổi vấn đề mà người viết muốn đề cập đến và để làm sáng tỏ những luận điểm mà người viết đã nêu. Người viết cũng đưa 14 ra những dẫn chứng và bằng lí lẽ, kiến thức, kinh nghiệm sống để chứng minh, lập luận những vấn đề tiêu biểu mà người viết trình bày. 15 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1. ĐỀ TÀI NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - 1945 1.1. Mấy nét về cuộc đời của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao (1917 – 1951) 1.1.1. Tiểu sử Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1917. Nam Cao quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Nam Cao sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình trung nông lúc trước có kết hợp việc buôn bán ít nhiều nhưng về sau bị phá sản. Ông thân sinh Nam Cao có mở một hiệu đồ gỗ ở phố hàng Tiện – Nam Định, sau vì thua lỗ nên cửa hàng vỡ, lại trở về nghề làm ruộng. Gia đình Nam Cao sống khá chật vật, đông anh em và chỉ có một mình Nam Cao được đi học. Làng Đại Hoàng ở vào một vùng xa phủ, huyện nên đây là nơi tập hợp nhiều phe cánh, phân chia ngôi thứ, cũng là nơi xảy ra nhiều tệ nạn rượu chè, bài bạc, người nông dân sống trong cảnh đói nghèo, tủi nhục. Chính quê hương và hoàn cảnh gia đình đã nuôi dưỡng tâm hồn Nam Cao. Nam Cao luôn bị bệnh tật giày vò thuộc tạng người “nay ốm mai đau”. Từ nhỏ Nam Cao đã được lên Nam Định học. Năm 1934, Nam Cao thi trượt Thành chung. Đầu năm 1935, Nam Cao trở về quê để chữa bệnh. Cũng như đa số thanh niên thời bấy giờ, Nam Cao cưới vợ khi anh mười tám tuổi. Và đó là ngày 2/10/1935 Nam Cao lập gia đình với bà Trần Thị Sen. Vợ ông kém hơn ông một tuổi. Hai gia đình ở cùng xã đều sống bằng nghề nông nghiệp nhưng so về kinh tế thì gia đình bên vợ của Nam Cao có phần khá giả hơn. Vợ của Nam Cao là một người vợ hết mực yêu chồng và lo lắng cho chồng nhưng lắm khi cũng khổ vì chồng. Khi vừa cưới vợ xong được một tháng thì Nam Cao lên Nam Định đi tàu vào Sài Gòn sống và làm việc cho một 16 người cậu là ông Ba Lễ, chủ một cơ sở may đồ Tây cho Pháp. Nam Cao là một cậu học trò hiền lành nhút nhát nhưng cũng có nhiều điều mơ mộng nên Nam Cao quyết định theo người cậu vào Sài Gòn sinh sống ấp ủ bao nhiêu ước mơ muốn theo đuổi nghiệp học tập của mình với hi vọng sẽ được sang Tây du học nhằm để mở rộng tầm hiểu biết và để học hỏi “Y sẽ vào Đại học đường, y sẽ sang Tây, y sẽ thành vĩ nhân đem những đổi thay lớn lao đến xứ sở mình” (Sống mòn). Và trong những năm sống ở Sài Gòn, Nam Cao phải lăn lộn vất vả để kiếm sống, ngoài việc làm chính thì Nam Cao còn làm rất nhiều nghề khác như chích thuốc ở nhà thương, sống chung với phu phen, thợ thuyền. Chính những năm tháng lao động đầy cực khổ này đã giúp cho Nam Cao nhìn thấy và hiểu hết được đời sống khổ cực bị đọa đày cả về vật chất lẫn tinh thần của những người lao động mà đặc biệt là tầng lớp tiểu tư sản và tầng lớp nông dân lao động nghèo. Nhưng bao hoài bão bao ước mơ khát vọng của Nam Cao chưa thực hiện được thì bệnh tật lại đến và hành hạ thân xác Nam Cao. Nam Cao quay về làng cũ và lúc này thì hoàn cảnh gia đình lâm vào tình trạng túng quẫn: “Lũ em lúc nhúc rất đông không được học, không được mặc, thường thường không đến cả ăn, gầy guộc, rách rưới, bẩn thỉu” (Sống mòn), và một ông bố nát rượu. Tất cả mọi công việc lớn nhỏ trong gia đình đều đè nặng lên đôi vai của người mẹ dẩm đang, chịu khó và giàu lòng hi sinh vì chồng, vì con. Tình trạng xã hội lúc đó không chỉ có gia đình Nam Cao mà hầu như tất cả những người nông dân quê ông đều lâm vào hoàn cảnh đói khổ, bần cùng và cơ cực. Bên cạnh sự khốn khổ, bần cùng của người dân là sự nghênh ngang và nhẫn tâm bóc lột tận xương tủy những người lao động khốn cùng của bọn địa chủ, cường hào, ác bá trong làng “Đàn em bị bóc lột đến không còn cái khố để đeo” (Chí Phèo). Đến năm 1938, Nam Cao bị ốm nặng do bệnh tim và tê thấp nên ông từ Sài Gòn lại trở ra Bắc. Đứng trước bao chông gai và trở ngại của cuộc sống nhưng bằng sự kiên cường và lòng quyết tâm đã tiếp thêm sức mạnh cho Nam Cao mạnh dạn ôn lại vốn học cũ và đi thi đậu bằng Thành chung. Sau đó, Nam Cao xin làm công chức nhưng vì sức khỏe yếu nên không được nhận vào làm. Và lúc này ông xin vào làm dạy học trong trường tư thục Công Thanh. Chính 17 môi trường dạy học nhiều vất vả của một thầy giáo trường tư nên Nam Cao đã phần nào hiểu rõ hơn về thân phận của những người trí thức tiểu tư sản nghèo dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Năm 1940, khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương thì lúc này Trường Công Thanh bị chúng lấy để làm chuồng ngựa. Lúc này Nam Cao đành lui về sống một cuộc sống đói khổ, cơ cực và tủi nhục cùng với những người nông dân lao động nghèo ở làng Đại Hoàng. Để trang trải cuộc sống và để phần nào giảm nhẹ gánh nặng cho gia đình Nam Cao phải viết văn để kiếm sống. Đồng thời qua tác phẩm đó Nam Cao cũng muốn gửi gắm những tâm tư, tình cảm và cái nhìn của mình đối với thực tại của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1943, Nam Cao tiếp thu được đường lối đúng đắn của Đảng cộng sản Đông Dương qua Đề cương văn hóa 1943 và sự giới thiệu của Tô Hoài, Nam Cao tham gia vào nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật cùng với Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi… Và từ đó, Nam Cao đã xác định được quan điểm và lập trường tư tưởng của mình trong sáng tácgắn liền với “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi cơ sở Văn hóa cứu quốc và Phong trào Cách mạng thanh niên bị giặc khủng bố, Nam Cao trở về quê và tham gia phong trào Việt minh ở địa phương. Khi cả nước bước vào cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đầy cam go và ác liệt, Nam Cao cũng tham gia vào phong trào cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân và Nam Cao được bầu làm chủ tịch xã. Sau đó, Nam Cao được lên Hà Nội và công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc. Có thời kì Nam Cao được làm thư kí tòa soạn Tạp chí Tiên phong. Đây là cơ quan ngôn luận của Hội cứu quốc. Cuộc Cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ, cả dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ chuyển sang thân phận làm chủ đất nước. Nhưng niềm vui thống nhất đất nước không được trọn vẹn vì bọn thực dân Pháp đã điên cuồng quay đầu lại xâm lược đất nước ta một lần nữa. Vào ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước cùng đứng lên chiến đấu chống lại thực dân Pháp và kháng chiến chống Pháp toàn quốc bùng nổ. Nam Cao theo tiếng gọi của quê hương theo đoàn Nam tiến vào vùng Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên Việt Bắc, những năm kháng chiến chống pháp đầy gian khổ chính là lúc Nam Cao sống và chiến đấu hết 18 mình vì quê hương và tổ quốc. Nam Cao đã tham gia cuộc chiến, va chạm cuộc sống thực tế của cuộc chiến để có những tác phẩm mang giá trị hiện thực và phản ánh đúng bản chất của cuộc chiến mà cả dân tộc Việt Nam đang đấu tranh chống thực dân Pháp. Nam Cao vừa làm biên tập cho báo Cứu quốc Việt Bắc, báo Cứu quốc Trung Ương, vừa là cộng tác viên tuyên truyền thông tin: viết tin, viết tài liệu giải thích các chính sách, làm ca dao tuyên truyền, viết truyền đơn địch vận,… Năm 1948, Nam Cao vinh dự được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng cộng sản Đông Dương. Đây là niềm vinh dự và niềm vui lớn nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người chiến sĩ cộng sản Nam Cao. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu Liên khu Ba, Nam Cao bị một toán địch phục kích và bắn chết gần bốt Hoàng Đan, Ninh Bình. Nam Cao ngã xuống giữa lúc ông đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương. Chuyến đi đó nhà văn lấy tư liệu để hoàn chỉnh tác phẩm Làng nhưng ông đã không kịp thực hiện được hoài bão và khát vọng của cuộc đời mình. Về con người của nhà văn, Nam Cao là một con người hiền lành, trầm mặt, nhút nhát đến vụng về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nam Cao rất khổ tâm về cái tật “hãi người” và “cái mặt không chơi được” (tên một truyện ngắn) của Nam Cao. Con người “mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt”. Trước Cách mạng tháng Tám Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ, u uất, bất đắc chí. Phần vì ốm yếu, thất nghiệp nên Nam Cao sống lay lắt qua ngày bằng nghề viết văn và dạy học - là hai nghề bạt bẽo khi đó. Nam Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần mười năm viết văn trước Cách mạng, Nam Cao hầu như không có vị trí trên văn đàn đương thời. Hầu hết những truyện dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền để rồi vứt đi vào một xó nào đó cho đến khi bản thảo bị thất lạc. Nam Cao luôn chất chứa trong lòng tâm sự của người nghệ sĩ “Tài cao phận thấp chí khí uất” (Tản Ðà) mà đó cũng là tâm trạng “phản kháng mãnh liệt” của người trí thức tiến bộ với cái xã hội bóp nghẹt cuộc sống con người. Nam Cao 19 không như kẻ khác do bất mãn cá nhân mà hằn học, thù ghét “cả giống người”. Con người bề ngoài có thể lạnh lùng đó bên trong là một tâm hồn chứa chan yêu thương đồng loại. Sự gắn bó cảm động đối với bà con dân quê là một tình cảm nổi bật trong con người Nam Cao. Nhà văn lớn lên trong sự đùm bọc của những người nông dân nghèo khổ ruột thịt. Ðó là bà ngoại góa chồng năm 22 tuổi, suốt cuộc đời vất vả và hi sinh vì con vì cháu. Ðó là người mẹ hiền lành lam lũ. Ðó là người vợ chịu thương chịu khó. Ðó là người dì nuôi đã bế ẵm nhà văn khi còn tấm bé. Hình ảnh những con người đó được lặp đi lặp lại trong nhiều trang viết đầy tình cảm của Nam Cao. Các tác phẩm của Nam Cao thường xuất hiện cái làng Ðại Hoàng thân thiết và gần gũi suốt cuộc đời của nhà văn. Hình ảnh quê hương đã nâng đỡ và chở che cho nhà văn lúc bi quan, bế tắc và tuyệt vọng. Là một thanh niên tiểu tư sản, lại sống giữa xã hội đầy xấu xa, Nam Cao không phải không bị ảnh hưởng bởi nhiều mặt tiêu cực, nhưng điều đáng quý ở Nam Cao là quá trình tự đấu tranh nghiêm khắc với bản thân mình để vươn lên, vượt ra khỏi cuộc sống tầm thường, nhỏ nhen của cuộc sống. Từ đó nhà văn dần vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng trong cuộc sống đời thường của xã hội đương thời. 1.1.2. Quan niệm sáng tác Về quan niệm sáng tác của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao, Nam Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ông đã có thơ, truyện cười, truyện ngắn, kịch vui... đăng báo từ năm 1938. Là một người cùng thời với sự phát triển của văn học lãng mạn ở Việt Nam nên Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thoát ly. Thơ của Nam Cao nặng về nỗi buồn vu vơ. Nhưng truyện ngắn Nam Cao lại hướng vào việc đề cập đến cảnh ngộ đau khổ trong xã hội của những kiếp lầm than trong xã hội như: Một cô đào hát chết gục trên sân khấu (Cảnh cuối cùng). Một diễn viên xiếc nghèo bị tình phụ đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn (Hai xác chết). Hai chú bé thổi kèn Si-ca-gô và nhào lộn trên đường phố (Hai đứa trẻ). Thời kỳ này khuynh hướng phê phán xã hội cũng đã rõ nét ở Nam Cao như trong truyện ngắn Nghèo, Ðui mù, Một bà hào 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan