www.sangkienkinhnghiem.com
MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề (Lý do chọn đề tài)
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Cấu trúc của đề tài
B. Giải quyết vấn đề (Nội dung sáng kiến kinh nghiệm)
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề
1.1. Khái quát chung về tự sự
1. 2. Đặc điểm của tác phẩm tự sự
Chương 2: Cơ sở thực tiễn( thực trạng của vấn đề)
Chương 3: Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
3. 1. Biện pháp giải quyết
3. 2. Nội dung và phương pháp thưc hiện
3.2.1 Khâu chuẩn bị bài ở nhà
3.2.2 Khâu giảng trên lớp
3.2.2.1 Phần kiểm tra bài cũ
3.2.2.2 Phần dạy bài mới
3.3. Đánh giá kết quả và rút ra bài học kinh nghiệm
3. 3.1 Kết quả kiểm nghiệm
3. 3.2 Nguyên nhân thành công và tồn tại
3. 3.3 Bài học kinh nghiệm
C. Kết luận và đề xuất
1. Kết luận
2. Đề xuất
1
www.sangkienkinhnghiem.com
A. ĐẶT VẤN ĐÊ
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, tác phẩm tự sự chiếm một số lượng lớn trong chương
trình Ngữ văn ở trường phổ thông. Việc khai thác, tìm hiểu, khám phá và hiểu
tác phẩm tự sự một cách có hiệu quả cao vẫn đang là một thử thách lớn với
giáo viên và học sinh.
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học được
đặt ra như một yêu cầu cấp thiết được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm.
Nghị quyết TW2 khoá VIII và kết luận của hội nghị TW6 khoá IX nêu rõ :
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện thói quen nề nếp, tư duy sáng tạo của người học”.
Từ yêu cầu đó, trong những năm qua Bộ GD –ĐT đã từng bước có
những cải tiến tích cực như việc cải cách chương trình, thay sách giáo khoa, tổ
chức các lớp bồi dưỡng đổi mới phương pháp giảng dạy cho giáo viên, đổi mới
cách thức ra đề thi…Đặc biệt, gần đây nhất là tập huấn về cách thức dạy học
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và cách ra đề theo ma trận. Nhờ đó, trong công
tác giảng dạy, kiểm tra đánh giá nói riêng và giáo dục nói chung đã đạt được
những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học trong phần lớn
giáo viên còn chuyển biến chậm do thói quen vận dụng các phương pháp dạy
học truyền thống, do ngại thay đổi, do chưa thực sự tâm huyết với nghề hoặc
nên chưa có sự vận dụng, đổi mới phương pháp dạy học. Bên cạnh đó, còn có
sự chi phối của yếu tố khách quan là: ngành Giáo dục - Đào tạo chưa thực sự
có nhiều lớp bồi dưỡng đổi mới phương pháp dạy học thật căn bản, cụ thể cho
giáo viên, cho nên nhiều giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong
phương pháp giảng dạy. Vì thế, ở đề tài này người viết xin đề cập đến một vài
kinh nghiệm về cách thức dạy học tác phẩm tự sự trong trường THPT.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tôi chọn đề tài này với mục đích có điều kiện nghiên cứu kĩ lưỡng,sâu
sắc hơn về cách thức dạy tác phẩm tự sự ở trường THPT.Đồng thời mong
muốn được trao đổi kinh nghiệm để trong quá trình dạy học phát huy được tính
tích cực, chủ động của học sinh,tạo thêm hứng thú và niềm say mê,yêu thích
các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn ở trường THPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài này tôi tập trung nghiên cứu cách thức dạy tác phẩm
tự sự ở trường THPT.Và tôi đã chọn một số tác phẩm tiêu biểu đó là: Truyền
2
www.sangkienkinhnghiem.com
thuyêt An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy. Tác phẩm Chí Phèo, Đời
thừa của Nam Cao. Tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.Truyện ngắn
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở đọc, tìm hiểu các tài liệu tin cậy, thực dạy, kiểm tra đánh
giá học sinh và dự giờ đồng nghiệp.
5. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề
Chương 3: Các biện pháp giải quyết vấn đề
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐÊ
Để có được phương pháp giảng dạy học tốt tác phẩm tự sự ở trường
THPT phổ thông ta cần làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận xoay quanh thể
loại tự sự.
1.1. Khái quát chung về tự sự.
Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong: “Từ điển thuật
ngữ văn học" (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội-1997) thì tự sự được hiểu là:
“Phương thức tái hiện đời sống bên cạnh hai phương diện khác là trữ tình và
kịch, được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học”.
Theo “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng2007): “Tự sự là thể loại văn học phản ánh hiện thực bằng cách kể lại sự việc,
miêu tả tính cách thông qua cốt truyện, tương đối hoàn chỉnh”.
Trong lý luận văn học thì: “Tác phẩm tự sự là loại tác phẩm phản ánh
đời sống trong quá trình khách quan của nó, qua con người, hành vi, sự kiện
được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó”.
Theo Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Tiến sĩ Huỳnh Như Phương: "Tự sự là
kể chuyện, trình bày sự việc, sự vật một cách cụ thể, chi tiết, có đầu có đuôi, tự
sự tập trung chủ yếu vào việc miêu tả thế giới bên ngoài".
Từ những cơ sở trên, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về thể
loại tự sự như sau: “Tự sự là thể loại văn học phản ánh cụ thể hiện thực đời
sống một cách khách quan bằng cách kể lại sự việc, sự kiện, miêu tả tính cách
nhân vật, chi tiết ... có đầu có đuôi thông qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh
và được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó”.
1.2. Đặc điểm của tác phẩm tự sự
3
www.sangkienkinhnghiem.com
1.2.1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó
thông qua các sự kiện, hệ thống sự kiện
Các nhà lí luận từ Aristot đến Lessing, Bêlinxki đều cho rằng tác phẩm
tự sự đưa ra một bức tranh khách quan về thế giới. Trong Nghệ thuật thơ ca,
Aristot cho rằng thế giới của tác phẩm tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người
trần thuật, không phụ thuộc vào ý muốn và tình cảm của họ. Ở đây, nhà văn
dường như đứng bên ngoài để kể lại. Tất cả những sự việc của đời sống được
nhà văn kể lại như một đối tượng khách quan ở bên ngoài mình.
Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống
qua các sự kiện, hệ thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lí luận khẳng định tính sự
kiện có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm
tự sự. Các biến cố, sự kiện này có thể là những biến cố, sự kiện bên ngoài, tức
là phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động cụ thể có thể thấy được,
cũng có thể là những biến cố, sự kiện bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý
nghĩ... nhưng những biến cố, sự kiện này không được biểu hiện trực tiếp mà
được xem như một đối tượng để đem ra phân tích, nhận biết.
Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm những sự
kiện bên ngoài và bên trong của con người nhưng đều xem chúng như là những
sự kiện khác nhau về đời sống con người, xã hội.
1.2.2. Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn,
bao quát
Tác phẩm tự sự miêu tả cuộc sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện mà
sự kiện là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với con người, con người
và môi trường xung quanh. Do đó, tác phẩm tự sự mở ra một phạm vi hết sức
rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực khách quan, được thể hiện trong nhiều
mốiquanhệ.
Trong tác phẩm tự sự, không gian và thời gian không bị hạn chế. Nhà
văn có thể thể hiện những vùng đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm
mình trong hiện tại, có thể lướt qua hoặc tập trung miêu tả một mặt nào đó mà
mình cho là quan trọng. Nó có thể kể về một khoảnh khắc hoặc một sự kiện dài
10 năm hay 20 năm trong một không gian nhất định hoặc ở nhiều vùng đất
khác nhau.
Từ những đặc điểm trên, nhân vật tự sự cũng được khắc họa đầy đặn,
nhiều mặt nhất; có thể được triển khai sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa
dạng và phong phú. Nhân vật thường có số phận, con đường đi và quá trình
phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. so với các loại nhân vật khác, nhân
4
www.sangkienkinhnghiem.com
vật trong tác phẩm tự sự được khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, cả quá
khứ, hiện tại và trong xu thế phát triển...Tóm lại, nhân vật tự sự được miêu tả
nhiều mặt, toàn diện và sinh động, nhiều màu sắc thẩm mĩ.
Do tính chất phản ánh rộng lớn và bao quát, hệ thống chi tiết trong tác
phẩm tự sự cũng phong phú và đa dạng, mang chất "văn xuôi". Ở đây, có thể
bắt gặp những chi tiết về chân dung, ngoại hình, tâm sinh lí, phong tục, tập
quán, đồ vật, đời sống lao động sản xuất, tôn giáo, chính trị...bao gồm những
chi tiết có thực, tưởng tượng, hoang đường... hơn tất cả mọi loại tác phẩm
khác.
1.2.3. Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật.
Hình tượng người trần thuật có thể là tác giả nhưng không nên đồng
nhất người trần thuật với tác giả. Người trần thuật có thể xuất hiện dưới nhiều
hình thức: khi thì tác giả ẩn mình sau những nhân vật tưởng tượng, khi thì
nhân danh chính bản thân mình mà kể chuyện với ngôi thứ nhất. Nhưng dù
dưới hình thức nào, người trần thuật cũng làm nhiệm vụ tường thuật, kể
chuyện để phân tích, nghiên cứu, khêu gợi, bình luận, cắt nghĩa những quan hệ
phức tạp giữa nhân vật và nhân vật, giữa nhân vật và hoàn cảnh...Trong tác
phẩm tự sự, hình tượng người trần thuật giữ một vai trò hết sức quan trọng và
luôn luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người đọc nên hiểu nhân vật, hoàn
cảnh...thế này hoặc thế khác.
1.2.4. Lời văn trong tác phẩm tự sự
Lời văn trong tác phẩm tự sự chủ yếu là lời văn kể chuyện, miêu tả. Nó
có thể được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi nhưng bao giờ cũng hướng người
đọc đến đối tượng mà nó miêu tả.
Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một bộ phận của văn tự sự,
do đó nó thường được giải thích, cắt nghĩa trước khi nhân vật phát biểu. Ðiều
này khác với tác phẩm kịch và tác phẩm trữ tình.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN( THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐÊ)
Việc phân tích tác phẩm tự sự đóng vai trò rất quan trọng trong nội dung
chương trình của bộ môn văn học cấp phổ thông trung học. Những tác phẩm tự
sự được đem vào giảng dạy là những kiệt tác văn chương thế giới và những tác
phẩm đặc sắc trong nền văn học nước nhà. Trong văn chương cái hay nó
thường đi liền với cái sâu sắc thâm thúy, đa nghĩa. Vì vậy, việc cảm thụ một
tác phẩm tự sự đặc sắc đối với học sinh là một vấn đề khá khó khăn. Muốn làm
được điều này đòi hỏi học sinh phải có lòng yêu thích văn học, phải có tâm thế
đọc tác phẩm, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Nhưng trên thực tế, qua quá trình
5
www.sangkienkinhnghiem.com
giảng dạy môn văn ở nhà trường THPT tôi nhận thấy, học sinh ở trường THPT
Bá Thước nói riêng và các trường THPT khác nói chung ngày càng ít say mê
và yêu thích văn học mặc dù đó vẫn được coi là một môn học chính. Vì thế
một bộ phận không nhỏ học sinh không chịu đọc tác phẩm ở nhà. Việc soạn
bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp mang tính đối phó. Tuy không đọc tác phẩm
nhưng các em cũng vẫn soạn được bài vì nhiều lí do: thứ nhất học sinh chép tài
liệu tham khảo mà không đầu tư suy nghĩ. Các em mượn vở ghi giảng văn của
học sinh các khóa trước trước hoặc cùng khóa nhưng đã học trước hoặc các em
chép vở soạn của nhau. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu bài
học ở lớp của các em.
Bên cạnh đó, việc giảng dạy tác phẩm tự sự ở giáo viên chưa thực sự có
nhiều cải tiến, đổi mới, trong phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu giảng theo
phương pháp truyền thống, chỉ tập trung nhiều vào việc khai thác nội dung tác
phẩm theo phương pháp lịch sử mà chưa chú ý đến cấu trúc, hình thức tác
phẩm. Vì thế đã gây ra sự nhàm chán cho học sinh, làm giảm sức thu hút của
tác phẩm văn chương đối với học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học ở
các giờ giảng văn thuộc thể loại tác phẩm tự sự diễn ra chậm là do nhiều
nguyên nhân:
Thứ nhất, thường một truyện ngắn hay một đoạn trích tác phẩm tự sự
được đưa vào dạy ở nhà trường phổ thông là tác phẩm đặc sắc, mà trong khi đó
thời gian cho phép thông thường chỉ từ 1 đến 2 tiết cho nên giáo viên còn gặp
những khó khăn nhất định trong việc truyền tải kiến thức, học sinh cũng gặp
khó khăn trong việc tiếp nhận đầy đủ, sâu sắc nội dung bài học vì thời gian eo
hẹp.
Thứ hai, giáo viên còn gặp nhiều lúng túng trong việc đổi mới phương
pháp trong giờ giảng văn tác phẩm tự sự.
Thứ ba, học sinh không đầu tư thời gian cho việc đọc tác phẩm trước ở
nhà.
Trước tình hình đó, bản thân tôi mạnh dạn nêu lên một số giải pháp, một
số kinh nghiệm mà bản thân đã áp dụng trong thời gian qua để cùng với đồng
nghiệp trao đổi với mong muốn mang lại hiệu quả hơn trong những giờ giảng
văn thuộc thể loại tác phẩm tự sự.
CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
3.1. Biện pháp giải quyết
Trước thực trạng trên, qua quá trình giảng dạy môn văn ở trường THPT
Bá Thước ,bản thân tôi đã áp dụng một số biện pháp như sau:
6
www.sangkienkinhnghiem.com
Bằng mọi cách buộc học sinh phải đọc trước tác phẩm hoặc đoạn trích,
tóm tắt được những nội dung cơ bản của tác phẩm hoặc đoạn trích ở nhà và
soạn bài theo những định hướng của giáo viên và phần hướng dẫn học bài.
Cải tiến, đổi mới phương pháp trong việc giảng dạy những tác phẩm tự
sự, thu hút học sinh vào bài giảng.
Đổi mới cách thức kiểm tra bao gồm cả kiểm tra vấn đáp; kiểm tra 15’
và bài viết
Đổi mới cách đánh giá, phân loại năng lực cảm thụ tác phẩm tự sự của
học sinh
3.2. Nội dung và phương pháp thực hiện
3.2.1. Khâu chuẩn bị bài ở nhà
Giáo viên cần dành thời gian của tiết học trước (sau phần củng cố, luyện
tập) để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới, đặt ra những yêu cầu cụ thể và
bắt buộc học sinh phải hoàn thành. Đặc biệt, bằng mọi cách phải cho học sinh
đọc kĩ và tóm tắt được nội dung tác phẩm hoặc đoạn trích ở nhà. Giáo viên
kiểm tra việc đọc và tóm tắt nội dung tác phẩm hoặc đoạn trích của học sinh
trong quá trình học bài mới hoặc kiểm tra thường xuyên vào đầu tiết học. Việc
làm này sẽ giúp học sinh có ý thức tự học và tự giác hoàn thành yêu cầu của
giáo viên.
Ngoài việc bắt buộc phải đọc tác phẩm, chuẩn bị bài theo một số câu hỏi
trong sách giáo khoa, giáo viên cần đưa ra những câu hỏi nhỏ hơn, cụ thể hơn.
Tuỳ theo trình độ, năng lực, tư duy của học sinh ở từng lớp mà giáo viên có thể
có những loại câu hỏi thêm khác nhau với mục đích giúp học sinh phát hiện
những vấn đề trọng tâm, cốt lõi của tác phẩm hoặc đoạn trích.
3.2.2. Khâu giảng trên lớp
3.2.2.1. Phần kiểm tra bài cũ
Ở phần này giáo viên nên kết hợp giữa việc kiểm tra kiến thức của bài
học trước với kiểm tra việc đọc tác phẩm và chuẩn bị bài mới của học sinh. Vì
thế, một học sinh được gọi lên kiểm tra bài cũ tôi thường cho hai câu hỏi:
Câu hỏi thứ nhất, nhằm kiểm tra những kiến thức cơ bản, trọng tâm của
tiết học trước.
Câu hỏi thứ hai, nhằm kiểm tra việc đọc và hiểu tác phẩm của tiết học
mới.
Cần lưu ý, những câu hỏi kiểm tra việc chuẩn bị bài mới chưa đòi hỏi tư
duy nhiều, chủ yếu là nhằm kiểm tra xem thực chất học sinh có học bài cũ và
7
www.sangkienkinhnghiem.com
đọc tác phẩm hay không. Bởi trên thực tế nhiều học sinh chỉ đọc sách tham
khảo hay vở ghi của học sinh khác để soạn bài.
3.2.2.2. Phần bài mới
* Giới thiệu tác giả
Phần này học sinh đã đọc phần tiểu dẫn ở nhà trước khi soạn bài vì vậy
ở phần này tôi thường nêu ra một số câu hỏi để học sinh trả lời, sau đó bổ sung
và chốt lại vấn đề. Các câu hỏi tôi thường đặt ra cho học sinh đối với một tác
giả là:
Dựa vào tiểu dẫn và những hiểu biết của em, hãy nêu những nét chính
về tiểu sử của tác giả?
Nêu vài nét cơ bản về sự nghiệp sáng tác của tác giả?
Hãy đánh giá khái quát về tác giả?
* Hoàn cảnh sáng tác
Phần này chủ yếu là giáo viên thuyết giảng nhằm làm sống lại đôi nét
lịch sử mà tác phẩm ra đời để học sinh nhận thức được mối quan hệ giữa tác
phẩm và cuộc sống.
Chẳng hạn, Khi giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm Chí Phèo
(Nam Cao) chúng ta không thể không đề cập đến hai vấn đề:
Dựa vào những cảnh thật, việc thật, người thật mà Nam Cao chứng kiến
và nghe kể về làng quê mình, bức xúc trước hiện thực tàn khốc, xót xa cho số
phận những người nông dân nghèo, căm tức giới địa chủ đè nén người dân
nghèo mà Nam Cao viết thành truyện vào năm 1941.
Bá Kiến thật ngoài đời không chết giống như trong tác phẩm, mà vẫn
sống đến đầu cách mạng. Sau khi tác phẩm ra đời hắn rất căm tức nhưng
không làm gì được.
* Tóm tắt tác phẩm
Ở phần này, giáo viên nên tận dụng tối đa những dụng cụ trực quan hoặc
trình chiếu tranh ảnh, sơ đồ (trong giờ dạy bằng giáo án điện tử) và kiểm tra
mức độ tóm tắt tác phẩm hoặc đoạn trích của học sinh ở nhà… nhằm giúp các
em dễ nắm bắt nội dung và nhớ lâu cốt truyện hơn.
Trong quá trình tóm tắt tác phẩm cần chú trọng đến những nét chủ yếu
về cuộc đời và số phận của nhân vật chính. Tái hiện cho học sinh nắm được
những dẫn chứng, chi tiết quan trọng. Đồng thời, qua các dụng cụ trực quan tôi
thường gọi một học sinh lên tóm tắt tác phẩm hoặc đoạn trích. Cho một vài học
sinh bổ sung và cuối cùng giáo viên đúc kết lại những nội dung trọng tâm.
8
www.sangkienkinhnghiem.com
Để hiểu được nội dung phản ánh, để phân tích được các giá trị về mặt tư
tưởng lẫn nghệ thuật của một tác phẩm tự sự, cần tóm tắt chính xác cốt truyện
của nó. Cách tóm tắt cốt truyện thể hiện mức độ thâm nhập tác phẩm, năng lực
bao quát và khả năng diễn đạt cô đúc, gãy gọn của người tóm tắt.
Điều quan trọng là phải hiểu được cốt truyện chính là hệ thống sự kiện
cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định của nhà văn.
Nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự hình thành, đặc điểm của mỗi tính cách
cũng như sự tác động qua lại giữa các tính cách. Cũng nhờ cốt truyện, nhà văn
tái hiện các xung đột xã hội, chứng tỏ năng lực, cách thức chiếm lĩnh thực tại
khách quan của mình. Dù đa dạng, mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình
vận động có hình thành, phát triển và kết thúc. Mỗi cốt truyện thường bao gồm
các phần sau:
Trình bày: Giới thiệu thời kì lịch sử, khung cảnh cụ thể của sự việc.
Khai đoạn: Nêu tình huống, vấn đề nảy sinh để người đọc chú ý theo
dõi.
Phát triển: Diễn tả sự tiến triển của hành động, của tính cách, của mâu
thuẫn, xung đột.
Đỉnh điểm (hoặc cao trào): Hành động, tính cách, mâu thuẫn được phát
triển đến độ cao nhất, căng thẳng nhất.
Kết thúc (hoặc mở nút): Giải quyết, kết thúc một quá trình phát triển của
mâu thuẫn.
Đó là kể một cách đầy đủ, theo trình tự thông thường. Tuy nhiên, không
phải bất cứ cốt truyện nào cũng bao hàm đầy đủ các phần như vậy, trình tự các
phần ấy cũng biến hóa sinh động như cuộc sống muôn màu và tùy theo ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Điều quan trọng học sinh phải chiếm lĩnh, cảm thụ, tái
hiện được những diễn biến trọng tâm, những tình tiết liên quan đến tính cách
và kết cục của nhân vật.
Từ khái niệm xác định như trên, muốn tóm tắt được cốt truyện một tác
phẩm tự sự, trước tiên cần đọc kĩ tác phẩm và trả lời được những câu hỏi sau:
Hoàn cảnh xã hội, thời kì lịch sử mà tác phẩm phản ánh, tái hiện là gì?
Chủ đề của tác phẩm ra sao?
Nhân vật chính của tác phẩm và các bước phát triển của tính cách, của
số phận nhân vật ấy như thế nào? Các chi tiết, sự kiện quan trọng trong tác
phẩm tác động tới cuộc đời nhân vật ra sao?
Cách tổ chức cốt truyện của nhà văn bao giờ cũng gắn với sự thể hiện có
hiệu quả chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Vì thế, hiểu chủ đề, ý đồ tư tưởng của
9
www.sangkienkinhnghiem.com
nhà văn thì chúng ta mới định hướng đúng sự phát triển của cốt truyện cũng
như nội dung cụ thể, trực tiếp của tác phẩm.
Trên cơ sở đọc kĩ tác phẩm, nắm vững kiến thức cơ bản theo yêu cầu
trên mới có thể đi đến xây dựng văn bản tóm tắt. Tóm tắt cốt truyện thông
thường tóm tắt các bước phát triển của dòng cốt truyện, dựa vào những sự kiện
nổi bật, những chặng đường diễn biến của tính cách, số phận các nhân vật chủ
yếu.
Khi tóm tắt cốt truyện, cần chú ý vị trí của các nhân vật và mối quan hệ
tương tác giữa chúng. Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác
phẩm, có vai trò chi phối đối với các nhân vật khác và góp phần chủ yếu thể
hiện nội dung, bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Bởi thế, cần quan tâm đến những
bước ngoặt trên đường đời nhân vật chính. Chẳng hạn, cốt truyện của truyện
ngắn Chí Phèo (Nam Cao) xoay quanh trục hai nhân vật điển hình Chí Phèo –
Bá Kiến và diễn biến mối quan hệ giữa hai nhân vật này. Tóm tắt cốt truyện
của Chí Phèo, phải dựa vào lai lịch, thân phận của Chí từ một đứa bé bị bỏ rơi
đến đi ở, làm thuê rồi vô cớ bị cụ Bá đẩy đi ở tù, dựa vào những lần Chí Phèo
đến nhà Bá Kiến sau khi ở tù về để thấy được quá trình tha hóa tất yếu của Chí
khi gặp phải kẻ thống trị xảo quyệt, gian ngoan như Bá Kiến, thấy được số
phận bi thảm của kẻ trượt quá xa khỏi xã hội loài người. Mặt khác, khi tóm tắt
truyện ngắn này, cần đặc biệt chú ý đến thời điểm Chí Phèo tình cờ gặp Thị
Nở, được người đàn bà ấy thương yêu, chăm sóc. Người cố nông lương thiện
với những ước muốn bình dị bấy lâu nay bị vùi lấp trong con qủy dữ Chí Phèo
sống dậỵ, Chí được làm người… nhưng rồi, Thị Nở đột ngột cự tuyệt chung
sống. Sự kiện này khiến Chí Phèo vỡ lẽ, tự ý thức ra tấn bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người của mình, để từ đó đi đến hành động trả thù quyết liệt cuối
tác phẩm.
* Chủ đề tác phẩm
Như chúng ta đều biết, chủ đề của tác phẩm tự sự chính là nội dung cuộc
sống được phản ánh trong tác phẩm. Vì vậy, để tìm hiểu chủ đề của tác phẩm
hay đoạn trích giáo viên cần nêu ra nhiều câu hỏi nhỏ mang tính chất gợi mở
để học sinh trả lời. Chẳng hạn có thể nêu một số câu hỏi như:
Tác phẩm (hoặc đoạn trích) kể về ai ? Về việc gì ?
Thông qua câu chuyện đó tác giả nhằm đề cập đến vấn đề gì?
Thái độ, tình cảm của tác giả đối với con người và cuộc sống ra sao?
10
www.sangkienkinhnghiem.com
Sau đó, thông qua việc trả lời được những câu hỏi trên, giáo viên gọi
một đến hai học sinh khái quát thành chủ đề của tác phẩm (hoặc đoạn trích) và
giáo viên nhận xét, bổ sung, chốt kiến thức.
* Phân tích tác phẩm
Ở phần này, giáo viên nên sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nhằm
giúp học sinh hiểu bản chất của tác phẩm (hoặc đoạn trích). Giáo viên gợi mở
cho học sinh thấy được những tình huống có vấn đề để học sinh tìm hiểu, thảo
luận sau đó giáo viên bổ sung, làm sáng tỏ và hệ thống vấn đề một cách hoàn
chỉnh. Về cơ bản, trong phần phân tích, giáo viên cần phải làm rõ những vấn
đề trọng tâm sau:
- Làm cho học sinh nắm vững được sự phát triển của tình tiết trong
tác phẩm (hoặc đoạn trích) tức là học sinh nắm được cốt truyện.
Học một bài thơ trữ tình phải nắm được diễn biến tình cảm, cảm xúc của
nhân vật trữ tình; học một bài văn nghị luận phải nắm được trình tự lập luận
của tác giả; còn học một thiên truyện, trước hết phải nắm được diễn biến của
câu chuyện.
Trong rất nhiều trường hợp, do không nắm được quá trình diễn biến của
tình tiết tác phẩm mà giáo viên không phân tích được tác phẩm, học sinh hiểu
vấn đề chưa thấu đáo, thậm chí còn hiểu một cách sai lệch nội dung tác phẩm
(hoặc đoạn trích). Chính vì vậy, điều quan trọng là phải nắm được tình tiết,
biến cố, sự kiện của câu chuyện đó.
Khi phân tích cần quan tâm nhiều đến tình huống của truyện. Nó có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể hiện tính cách và số phận nhân vật.
Tình huống truyện chính là trạng thái xã hội, là hoàn cảnh bất bình thường
đang thử thách con người. Nó gồm những diễn biến, sự kiện đòi hỏi con người
trong đó cần phải xoay xở, cần phải bộc lộ một cách chính xác năng lực và bản
thân của mình. Như vậy, tình huống gắn chặt cùng cốt truyện và tác động trực
tiếp tới nhân vật, tạo dựng tình huống trở thành nhiệm vụ và hứng thú, trở
thành nơi thử thách tài nghệ của nhà văn.
Một số truyện trong Ngữ văn lớp 10 có cốt truyện đơn giản. Do đó, cần
hướng dẫn học sinh nhận ra được tình huống truyện và tập trung phân tích các
tâm trạng, hành động của các nhân vật ở trong tình huống đó. Chẳng hạn:
Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy, cốt truyện xoay
quanh tình huống An Dương Vương xây thành, chế nỏ và do mất cảnh giác
nên bị mất nước. Vì thế, khi phân tích giáo viên nên cho học sinh thấy được
hai giai đoạn: giai đoạn đầu xây thành, chế nỏ, đánh thắng được Triệu Đà và
11
www.sangkienkinhnghiem.com
giai đoạn hai là phân tích sâu tình huống cơ đồ đắm biển sâu, bài học về tinh
thần mất cảnh giác của An Dương Vương. Tuy vậy, khi phân tích truyền
thuyết này giáo viên cũng cần làm rõ hình tượng Mị Châu, vì nhân vật này
quyết định tới kết cục cuối cùng của An Dương Vương.
Còn trong chương trình Ngữ văn lớp 11, 12 cốt truyện phức tạp hơn,
nhân vật có nhiều mối quan hệ hơn, nhiều mâu thuẫn xung đột hơn, nhiều cung
bậc tình cảm hơn. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhận ra được nội
tâm của nhân vật, tính cách của nhân vật. Từ đó, giúp học sinh thấy được cần
phải tư duy, cần phải liên tưởng, cần phải xâu chuỗi nhiều tình tiết để rút ra
nhận xét cuối cùng về toàn bộ câu chuyện.
Trước khi đi sâu vào phân tích chi tiết, một sự phân tích đại cương như
vậy về các chi tiết của bài văn sẽ củng cố ấn tượng hoàn chỉnh đầu tiên của học
sinh đối với hình tượng tự sự của tác phẩm.
- Làm cho học sinh cảm thụ sâu sắc, đánh giá được đúng đắn nhân
vật trong tác phẩm
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn thể hiện tư tưởng, tình cảm, phát biểu
quan điểm thông qua nhân vật. Nhân vật trong tác phẩm hoặc đoạn trích chứa
đựng nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi ký thác quan
niệm về con người, về nhân sinh của nhà văn. Do đó, phân tích nhân vật trở
thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo
của tác phẩm để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học
lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và
thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại
nào đó.
Nhân vật trong tác phẩm tự sự rất đa dạng, phong phú. Dựa trên phương
diện kết cấu và ý thức hệ có thể chia nhân vật ra thành các loại sau: Nhân vật
chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện, nhân vật phản
diện...các nhân vật sẽ góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề và nội dung của tác
phẩm.
Tuy nhiên, trong giờ học ở trường phổ thông chúng ta không có đủ thời
gian để hướng dẫn học sinh phân tích hết các nhân vật được nên chúng ta phải
lựa chọn các nhân vật để phân tích.
Chẳng hạn, trong tác phẩm Chí Phèo có nhiều nhân vật như Chí Phèo,
Bá Kiến, Thị Nở, Bà cô Thị Nở, Lý Cường, Binh Chức, Năm Thọ, Đội Tảo…
nhưng chỉ có nhân vật Chí Phèo, Bá Kiến thể hiện rõ tư tưởng của nhà văn,
12
www.sangkienkinhnghiem.com
cho nên khi phân tích tác phẩm này cần chú ý khai thác kĩ hai nhân vật này,
đặc biệt là nhân vật Chí Phèo.
Hoặc trong tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài cũng xuất hiện nhiều
nhân vật nhưng nhân vật Mị mới là hình tượng điển hình cần phân tích.
Nội tâm nhân vật được thể hiện trong nhiều thời điểm, có thể trong quá
khứ, hiện tại hoặc trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
Trong tác phẩm Đời thừa nhân vật Hộ bộc lộ nội tâm trong những hoàn
cảnh đời thường của cuộc sống mưu sinh, trong mối quan hệ với bạn văn
chương, gia đình.
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ nội tâm của Mị được bộc lộ khá rõ
qua hai thời điểm đó là trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cứu A
Phủ.
Như vậy, qua những tác phẩm trên chúng ta sẽ tập trung khai thác nội
tâm các nhân vật Chí Phèo, Hộ và Mị để tìm hiểu toàn diện về nhân vật.
Khi phân tích nhân vật cần chú trọng những khía cạnh sau:
Một nhân vật văn học thành công bao giờ cũng mang một tính cách, số
phận riêng, một cách trung nhất, muốn phân tích nhân vật tức là phân tích đặc
điểm tính cách của nhân vật chúng ta cần căn cứ vào những chi tiết có liên
quan đến nhân vật trong tác phẩm để đó từ mà tìm hiểu suy luận, tìm ra đặc
điểm, tính cách của nhân vật. Ở tác phẩm tự sự, những chi tiết có giá trị góp
phần thể hiện đặc điểm tính cách nhân vật, lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội
dung, hành vi cử chỉ, hành động của nhân vật
Vì thế, khi phân tích cần lưu ý đến các chi tiết miêu tả, tự sự, nhận xét
về nhân vật trong tác phẩm. Những chi tiết này có lúc được bộc lộ rõ ràng
nhưng thường rất tế nhị, kín đáo ẩn trong lời văn đọc qua thường ít gây chú ý.
Phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp phân loại chúng theo
trình tự hợp lí nhằm làm sáng tỏ tính cách của nhân vật.
Thông thường khi phân tích hình tượng nhân vật thường chú ý các
phương diện sau:
+ Lai lịch:
Đây là phương tiện đầu tiên góp phần chi phối đặc điểm tính cách cũng
như cuộc đời nhân vật. Lai lịch có quan hệ khá trực tiếp và quan trong với
đường đờì của một người, một số phận nào dó trong văn học.
Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Số đỏ hoàn cảnh mồ côi từ nhỏ, hành vi vô
giáo dục khi ở với người bác họ (để rồi bị đuổi ra khỏi nhà) bằng những thành
13
www.sangkienkinhnghiem.com
tích bất hảo của Xuân Tóc đỏ trong cuộc sống lang thang hè đường, xó chợ đã
góp phần tạo nên tính cách lưu manh, láu lỉnh của y sau này.
Hoặc Chí phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, ngay từ khi được
sinh ra đã bị ném khỏi cuộc sống, đã là đứa trẻ hoang không biết bố mẹ, chẳng
có cửa nhà. Hoàn cảnh xuất thân ấy tạo nên sự cô độc, thê thảm của Chí Phèo.
Tính cách, số phận được lí giải một phần bởi thành phần xuất thân, hoàn
cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó.
+ Ngoại hình:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Xem mặt mà bắt hình rong” trong văn học,
miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp của nhà văn nhằm hé mở tính cách
nhân vật. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét phác hoạ chấm phá có
thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của nhân vật
nào đó. Trong truyện ngắn Chí Phèo những vết sẹo ngang dọc trên khuôn mặt
của Chí cùng với những nét chạm trỗ ở ngực tự có đã nói lên rất nhiều…Phải
chăng cái ngoại hình biến dạng, kỳ dị gớm ghiếc kia như đã muốn trưng ra quá
khứ dữ dằn, và nội tâm tha hoá biến chất của Chí Phèo.
Hay trong truyện ngắn Vi hành, mượn lời người con trai (đôi nam nữ
thanh niên người Pháp đi trên toa xe điện ngầm) tác giả Nguyễn Ái Quốc đã
phác hoạ chân dung Khải Định: “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy vẫn đôi mắt
xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh đấy à?” Các chi tiết này ám chỉ thật
sâu cay một tính cách hèn kém, chẳng có mấy thiên lương, cùng lối sống xa
hoa, truỵ lạc của ông vua bù nhìn An Nam.
Trong khi phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết, ngoại hình mà đi sâu
vào nội tâm, vào bản chất của nhân vật.
+ Ngôn ngữ
Qua lời ăn tiếng nói của một người, chúng ta có thể nhận ra trình độ văn
hoá, nhận ra tính cách của người ấy. Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm
văn học được cụ thể hoá cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân.
Chẳng hạn, nhân vật cố Hồng trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng hễ cứ mở miệng ra là gắt: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” mặc dầu ông ta
chẳng biết cho tường tận việc gì cả.
Còn nhân vật Xuân Tóc Đỏ, cho đến khi trở thành “Nhà cải cách thẩm
mĩ”, “Đốc tờ Xuân”, “ Giáo sư quần vợt”, “Cố vấn báo gõ mõ”…. đựơc cả xã
hội thượng lưu thành thị trọng vọng nhưng mấy câu cửa miệng của hắn vẫn là:
“Mẹ kiếp”, “nước mẹ gì” điều ấy chứng tỏ cái tính cách lưu manh, vô học của
y không sao gột rửa nổi.
14
www.sangkienkinhnghiem.com
Thông thường, mỗi con người thường theo tính khí mà có khẩu khí. Con
người làm sao thì lời ăn tiếng nói sẽ như vậy. Vì thế, khi phân tích nhân vật ta
cần đặc biệt chú ý phân tích ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói nhân vật.
+ Nội tâm
Là thế giới bên trong của nhân vật gồm cảm giác, cảm xúc, tình cảm,
tâm lí, suy nghĩ… của con người. Thế giới nội tâm của con người rất sâu kín,
phong phú, phức tạp. Ngòi bút của nhà văn có khả năng miêu tả được những
ngõ ngách sâu kín của nội tâm con người từ những điều thuộc phạm vi ý thức
đến những điều trong tiềm thức lẫn vô thức. Qua đó ta có thể xét đoán được
tính cách nhân vật.
Chẳng hạn, đoạn miêu tả nội tâm của Chí Phèo sau cơn ốm cho thấy
được sau những lần quen rạch mặt, ăn vạ, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, thì
đây là lần hắn thực sự tỉnh: “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà hắn vẫn còn cô độc.
Buồn thay cho đời! có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn
mươi tuổi đầu… Dẫu sao đó không phải là tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa
soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn chịu đựng
biết bao nhiêu là chất độc, đầy đoạ cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận
ốm có thể là dấu hiệu báo rằng cơ thể hắn đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn
mưa gió cuối thu cho biết trời trở rét nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như
đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn
sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở vào nếu không vào cứ để hắn vẩn
vơ nghĩ mãi thì đến khóc được mất”. Qua suy nghĩ của Chí Phèo ta có thể nhận
ra một Chí Phèo thứ hai – “Chí không còn là một con Quỷ dữ của làng Vũ Đại
nữa mà là một con người bình thường như bao con người khác: Buồn lo trước
tuổi già ập đến, cảm thấy cô đơn và sợ cô đơn.
+ Cử chỉ, hành động
Đây là chi tiết quan trong nhất trong việc tìm hiểu phân tích tính cách
nhân vật. Con người trong cuộc đời cũng như nhân vật trong tác phẩm, trước
hết là con người hoạt động, hành động. Trong môi trường tự nhiên và xã hội,
trong quan hệ với người khác, với công việc, con người phải hành động. Hành
động của con người được thể hiện qua việc làm, hành vi. Nhân vật trong tác
phẩm cũng vậy, con người thế nào sẽ có hành vi thế ấy.
Chẳng hạn, qua hành động “rỗ gông” bất chấp lời doạ nạt của bọn lính,
người đọc nhận ra ở Huấn Cao trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) có một
khí phách hiên ngang, coi thường cường quyền, bạo lực…
15
www.sangkienkinhnghiem.com
Hay qua hành động Chí Phèo định vác dao đến nhà Thị Nở nhưng lại đi
thẳng đến nhà Bá Kiến, người đọc nhận ra rằng người cự tuyệt Chí không phải
Thị Nở, không phải Bà cô Thị Nở mà chính là Bá Kiến. Vì thế, vác dao đến
nhà Bá Kiến, giết Bá Kiến và kết liễu đời mình là điều tất yếu đối với Chí.
Tóm lại, muốn phân tích nhân vật, ta phải chú ý đến những chi tiết có
liên quan đến nhân vật từ lai lịch, ngoại hình, nội tâm đến ngôn ngữ hành vi
của nhân vật. Tuy nhiên, không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn
thể hiện đầy đủ các phương diện này. Có chỗ nhiều, có chỗ it, có chỗ đậm, chỗ
nhạt, thậm chí có nhân vật còn không rõ đặc điểm ngoại hình, lai lịch... Vì thế,
không nhất thiết phải máy móc tìm đủ, phân tích đủ mà nên tập trung, xoáy sâu
vào phương diện thành công trong tác phẩm để khái quát nội dung toàn bộ tác
phẩm hoặc đoạn trích.
- Làm cho học sinh cảm và hiểu được cái ý vị trong lời kể của tác giả(hay
của người kể chuyện).
Lời kể chính là ngôn ngữ nghệ thuật của truyện. Phân tích lời kể của tác
giả chính là thực chất, là nội dung chính của việc phân tích ngôn ngữ khi giảng
truyện.
Ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng nhằm khêu gợi được sự sống và
truyền đạt được cảm xúc. Đặc điểm đó của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện rất rõ
trong lời kể của truyện. Cái hay của lời kể trong truyện thường là ở chỗ tự
nhiên, nhuần nhị, sinh động và truyền cảm. Một câu chuyện tự nó sống qua lời
kể, tuy có người kể nhưng xem ra dường như truyện tự kể về mình. Muốn vậy,
lời kể thường xen với lời tả, tả cảnh, tả người, tả vật, tả tình.
Khi phân tích lời kể trong truyện cần chú trọng chỉ ra được sức mạnh
gợi tả của ngôn ngữ, chỉ rõ các từ ngữ, câu văn, cách viết, lối kể của tác giả đã
làm hiển hiện được cảnh, vật, việc, người như thế nào, đồng thời gây xúc cảm
cho người đọc ra sao.
Để làm cho nhân vật biểu hiện lên như đang sống thật, nghệ thuật tiểu
thuyết hiện đại đã tìm ra một phương pháp thần tình là miêu tả từ bên trong ra.
Trong tiểu thuyết thời cổ, thường người ta chỉ kể lại việc làm, lời nói của nhân
vật. Tiểu thuyết ngày nay, chỉ lấy cách miêu tả nhân vật từ trong làm chính.
Nhà văn như nhập vào nhân vật mà nhìn, nghe, xúc cảm, suy nghĩ, nói bằng lời
nói của nhân vật.
Chẳng hạn, khi miêu tả một quang cảnh của đời sống, nếu nhà văn chỉ
đứng ngoài mà ghi lại như một buổi chụp ảnh, thì dù ngòi bút miêu tả thật giỏi,
cảnh ấy vẫn chỉ là một bức tranh chết. Trong cảnh phải có tình thì cảnh mới
16
www.sangkienkinhnghiem.com
sống lên, vì vậy nhà văn phải miêu tả những quang cảnh qua tâm trạng của
chính người viết.
Thường khi phân tích ngôn ngữ đòi hỏi người giáo viên phải có kiến
thức cơ bản về tu từ học. Nhưng cái hay của ngôn ngữ trong văn học có muôn
màu muôn vẻ, tuỳ thuộc vào sự đa dạng, biến hóa của nội dung. Ngôn ngữ lời
văn được coi là hay khi nó diễn đạt được tốt nhất nội dung cuộc sống và nội
dung tư tưởng, tình cảm của tác phẩm. Cái hay của ngôn ngữ nghệ thuật là ở
chỗ sinh động và rung cảm, chất chứa, chất liệu đời sống và tình ý con người.
Văn chương hay thật sự không phải ở chỗ màu mè, hoa mĩ: Cái hay của truyện
lại càng thường ngưng đọng ở sự trong sáng, giản dị mà sinh động, rung cảm.
Vì vậy, giảng dạy tác phẩm hay đoạn trích thuộc thể loại tự sự thì phải phân
tích lời kể của truyện, phân tích phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm.
Lời kể chuyện là sợi tơ dệt nên tình tiết và nhân vật, dệt nên toàn bộ hình
tượng trong tác phẩm.
- Thuyết trình và giảng bình.
Nói chung, bình giảng xoáy vào ấn tượng chủ quan và không nhất thiết
phải xem xét toàn diện đối tượng. Người viết chỉ cần lắng nghe mình, chắt lọc
các cảm nhận của mình xem yếu tố nào tạo ấn tượng đậm nhất, lay động mình
sâu xa nhất, nắm lấy nó rồi viết ra. Ấn tượng càng sâu đậm, ám ảnh bao nhiêu
thì càng dễ truyền cảm bấy nhiêu. Nói chung, ngọn nguồn của lời bình bao giờ
cũng phải là sự đồng cảm. Tiếng nói của lời bình là tiếng nói tri âm, dù lời
bình rất cần đến sự hoa mĩ của ngôn từ. Còn giảng là giảng giải, là cắt nghĩa, lí
giải. Nếu bình nghiêng về cảm thì giảng nghiêng về hiểu. Bình nghiêng về
những rung động tâm hồn thì giảng nghiêng về nhận thức trí tuệ. Bình là sự
thăng hoa, sự cất cánh còn giảng là sự đào sâu làm cơ sở, làm điểm tựa, làm
đòn bẩy cho việc cất cánh.
Ví dụ : Về mối tình Chí Phèo – Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà
văn Nam Cao, giáo viên có thể bình giảng để học sinh cảm nhận đươc đây là
mối tình đẹp nhất trần gian. Nó được ví như một chiếc cầu vồng lung linh sau
cơn mưa, như một chiếc bản lề khẽ xoay cánh cửa cuộc đời Chí Phèo sang một
trang mới , từ cuộc đời của một con quỷ dữ sang cuộc đời khát khao sự hoàn
lương , được trở về để làm hòa với xã hội của loài người bằng phẳng và thân
thiện.
Lâu nay, trong một số giờ dạy của giáo viên mải chạy theo phương pháp
phát vấn mà không chú ý đến bình văn thơ nên giờ đọc hiểu văn bản trở thành
giờ trò chuyện, trả lời vụn vặt các câu hỏi giữa thầy và trò, chỉ biết hướng dẫn
17
www.sangkienkinhnghiem.com
học sinh chia nhóm, thực hành, thảo luận mà hầu như quên đi việc đưa thêm
những lời bình giảng, phân tích đầy chất “ văn chương” vào giờ dạy. Và như
vậy, người thầy chưa truyền tới học sinh cái hay, cái đẹp của lời thơ, càng làm
cho hình tượng văn học nằm im trên trang giấy và cuối cùng không truyền
được ngọn lửa của tình yêu văn chương tới tâm hồn các em.
Vấn đề là ở chỗ biết thuyết trình và giảng bình đúng mức, đúng lúc góp
phần nâng cao hiệu quả của việc tiếp nhận văn bản từ đó bồi dưỡng học sinh
giỏi. Quan trọng hơn là tổ chức cho học sinh cũng tham gia bình giảng nhằm
tạo nên một sự “cộng hưởng” trong tiếp nhận, cảm thụ văn chương. Khi gặp
những dạng kiến thức văn học trìu tượng, khó hiểu như hình tượng nghệ thuật
có tính đa nghĩa, những vấn đề về thi pháp văn học trung đại, những vấn đề có
tính khái quát tổng hợp thì sự giảng giải, bình giá của giáo viên là vô cùng
quan trọng.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi
Khi phân tích tác phẩm tôi đặc biệt chú trọng đến hệ thống câu hỏi để
luôn đặt học sinh vào vị trí phải hoạt động, cùng đồng hành tư duy với người
dạy.
Câu hỏi trong bài dạy phải đạt được những yêu cầu sau :
Hệ thống câu hỏi phải logic, chặt chẽ nhằm dẫn dắt một cách liên tục sự
suy nghĩ của học sinh từ quan sát đến phân tích hiện tượng, từ những kết luận
mang tính chất bộ phận đến những kết luận khái quát hơn.
Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, vừa sức ( có gợi ý khi cần thiết).
Câu hỏi phải có tác dụng kích thích sự chú ý, sự tìm tòi suy nghĩ của học
sinh.
Câu hỏi phải tạo cho học sinh sự liên tưởng, mở rộng và suy luận.
Chẳng hạn, giáo viên có thể nêu lên hệ thống câu hỏi khi giảng dạy tác
phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) trong chương trình Ngữ Văn 11 như
sau:
Sau khi nhận phiến trát trao đổi với thầy thơ lại, biết được Huấn Cao là
người có tài thì viên quản ngục đã nảy sinh ý định gì?
Qua cuộc trao đổi giửa viên quản ngục và thầy thơ lại, Huấn Cao hiện
lên là con người như thế nào?
Thái độ của Huấn Cao xuất hiện tại trại giam ra sao? Khi nhận rượu thịt
mà lính ngục mang vào Huấn Cao có thái độ thế nào? Thái độ khi trả lời viên
quản ngục? Từ đó rút ra nhân cách của Huấn Cao?
Thái độ của viên quản ngục trong lần nhận sáu tử tù?
18
www.sangkienkinhnghiem.com
Tại sao viên quản ngục lại quyết định “biệt đãi” Huấn Cao, theo em,
điều đó có ý nghĩa gì?
Việc viên quản ngục gặp Huấn Cao trong nhà ngục có ý nghĩa như thế
nào ?
Theo em, vì sao Nguyễn Tuân lại gọi cảnh cho chữ là “cảnh tượng xưa
nay chưa từng có” ?
Em hãy nhận xét về thời gian, không gian diễn ra cảnh cho chữ ?
Tư thế, thái độ của người cho chữ và kẻ nhận chữ như thế nào ?
Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả cảnh cho
chữ ?
Qua cảnh cho chữ Nguyễn Tuân muốn khẳng định điều gì ?
Có thể nói với hệ thống câu hỏi này giáo viên sẽ từng bước dẫn dắt học
sinh đi tìm hiểu nội dung của tác phẩm, từ phân tích hình tượng các nhân vật
cho đến rút ra được nội dung tư tưởng nhà văn muốn gửi tới.
3.3. Đánh giá kết quả và rút ra bài học kinh nghiệm
3.3.1. Kết quả kiểm nghiệm
3.3.1.1. Kết quả khảo sát trong quá trình giảng dạy
Lớp 11A6
Trường THPT Bá Thước
Số học sinh
Số bài viết
Số học
đọc tác phẩm
phân tích tác
sinh được
và soạn bài đạt phẩm tự sự đạt
khảo sát
yêu cầu
TB trở lên
Học kỳ I năm học 2011- 2012
40
28 = 70 %
30 = 75 %
Học kỳ II năm học 2011-2012
40
34 = 85 %
35 = 87,5 %
3.1.2. Phạm vi, tác dụng của sáng kiến:
Phương pháp này có thể áp dụng cho cả học sinh lớp 10, 11, 12.
Với phương pháp này, giáo viên luôn đặt học sinh trong tình thế động,
buộc các em phải làm việc một cách nghiêm túc với tác phẩm và tiếp thu bài
học một cách chủ động tích cực.
3.3.2. Nguyên nhân thành công và tồn tại:
3.3.2.1. Nguyên nhân thành công:
Có sự đầu tư lớn trong việc thiết kế bài dạy để phù hợp với đối tượng học
sinh ở từng lớp.
19
www.sangkienkinhnghiem.com
Với phương pháp này, người giáo viên đã phát huy có hiệu quả nhất
những giáo cụ trực quan.
Với phương pháp này, giáo viên đã kích thích, khơi dậy được phần nào
tấm lòng yêu thích và say mê đối với văn học của học sinh.
3.3.2.2. Tồn tại:
Vẫn còn một số em chưa đọc tác phẩm hoặc đoạn trích ở nhà hoặc soạn
bài đối phó.
Một số em làm bài văn vẫn sa vào dạng kể tác phẩm.
Một số học sinh chưa có sự cảm thụ tốt hoặc chưa đam mê với tác phẩm
văn học, đặc biệt là những tác phẩm tự sự
3.3.3. Bài học kinh nghiệm:
- Đối với bản thân:
+ Phải có sự đầu tư trong công tác soạn giảng.
+ Tìm mọi biện pháp để thực hiện được phương pháp dạy học “lấy học
sinh làm trung tâm”.
- Đối với tổ chuyên môn:
Trong tổ chuyên môn phải thường xuyên trao đổi, học hỏi lẫn nhau để
nâng cao tay nghề, kinh nghiệm giảng dạy. Đặc biệt là về phương pháp dạy
học mới, hữu ích.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐÊ XUẤT
1. Kết luận:
Thông qua đề tài này, bản thân đã vận dụng những phương pháp trong
quá trình giảng dạy và nhận thấy rằng học sinh hứng thú với bài giảng, thích
tìm hiểu, thích đọc tác phẩm tự sự, chất lượng học tập của học sinh khi học thể
loại tự sự dần dần được cải thiện.
Thực tế giảng đặt ra cho người giáo viên nhiều thách thức: trong quá
trình giảng dạy nhiều vấn đề vừa có ý nghĩa phương pháp, vừa là nội dung mà
người giáo viên phải luôn suy nghĩ nghiêm túc trong suốt quá trình chuẩn bị và
thiết kế bài dạy. Cần phải bắt đầu bài giảng như thế nào để thu hút sự chú ý
của học sinh ? nên sử dụng những phương pháp nào cho thích hợp với khả
năng trình độ của từng lớp mà mình giảng dạy và với nội dung của từng bài
giảng ? Có thể dùng những biện pháp nào để làm nổi bật, nhấn mạnh trọng
tâm, trọng điểm bài học ? Cần đặt ra những câu hỏi như thế nào để kích thích
sự chú ý, sự suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện, sáng tạo của học sinh ? Sử dụng tài
liệu trực quan nào và sử dụng như thế nào cho có hiệu quả ? Làm thế nào để
vừa hình thành tri thức, vừa rèn luyện củng cố kỉ năng?…Đó là những câu hỏi
20
- Xem thêm -