Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các yếu tố tác động đến năng lực công nghệ của vài doanh nghiệp ngành than trên ...

Tài liệu Các yếu tố tác động đến năng lực công nghệ của vài doanh nghiệp ngành than trên địa bản tỉnh quảng ninh

.PDF
88
743
76

Mô tả:

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC CÔNG NGHỆ BAN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Luận văn thạc sĩ khoa học CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP NGÀNH THAN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH Người hướng dẫn : TS. Bạch Tân Sinh Người thực hiện : Lê Tuấn Hà Học viên : Lớp cao học khóa X (2005 - 2008) Chuyên ngành : Chính sách Khoa học và Công nghệ Hà Nội - 2009 Mục lục Tên luận văn: Các yếu tố tác động đến năng lực công nghệ của một số doanh nghịêp ngành than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Mở đầu Nội dung Chƣơng I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1. Công nghệ và phân loại công nghệ 1) Khái niệm công nghệ 2) Phân loại công nghệ 3) Quản lý công nghệ 2. Đổi mới công nghệ 1) Khái niệm 2) Vai trò của đổi mới công nghệ trong phát triển kinh tế 3) Vai trò của xã hội trong đổi mới công nghệ II. NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ 1. Khái niệm 2. Phân loại năng lực công nghệ 1) Khái quát về phân loại năng lực công nghệ 2) Phân loại năng lực công nghệ và Chiến lược công nghệ của doanh nghiệp III. PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ 1. Các bước cơ bản phân tích năng lực công nghệ ngành công nghiệp (hay ngành kinh tế) 2. Phân tích năng lực công nghệ cơ sở - Phương pháp ATLAS công nghệ 3. Phân tích định lượng năng lực công nghệ cơ sở theo phương pháp kết hợp Chƣơng 2: Các yếu tố tác động đến năng lực công nghệ của một số doanh nghiệp ngành than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh I. VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH THAN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 1. Tiềm năng tài nguyên than ở Quảng Ninh 2.Tình hình hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp ngành than tại Quảng Ninh II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHỊÊP NGÀNH THAN TRÊN ĐẠI BÀN TỈNH QUẢNG NINH 1) Công nghệ khai thác than hầm lò. 2) Công nghệ khai thác mỏ lộ thiên 3) Công nghệ trong nhà máy tuyển 4) Tình hình cơ giới hoá và tự động hoá trong các doanh nghiệp 5) Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các doanh nghiệp 6) Công tác tổ chức quản lý và nhân lực. III. NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ VÀ CÁC YẾU TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHỊÊP NGÀNH THAN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH 1) Về trình độ công nghệ 2 Về khả năng phát triển công nghệ nội sinh Chƣơng 3: Một số định hƣớng điều chỉnh các yếu tố nhằm nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghịêp ngành than 1. Ngành than và Chiến lược phát triển 2. Một số định hướng điều chỉnh các yếu tố nhằm nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp ngành than 3. Và các khuyến nghị về giải pháp nhằm nâng cao năng lực công nghệ 1) Nâng cao nhận thức và hiểu biết về năng lực công nghệ 2) Xây dựng yêu cầu năng lực công nghệ cơ sở, ngành, quốc gia 3) Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện phương pháp phân tích đánh giá năng lực công nghệ 4) Tạo nguồn nhân lực cho công nghệ 5) Xây dựng và củng cố hạ tầng cơ sở công nghệ 6) Một số giải pháp khác Kết luận 1 Mở đầu Trong giai đoạn phát triển hiện nay, năng lực công nghệ của mỗi quốc gia, mỗi ngành và mỗi doanh nghiệp luôn luôn được coi là yếu tố rất quan trọng, quyết định đến khả năng cạnh tranh và sự phát triển. Đối với nước ta, về phát triển công nghệ, các nghiên cứu và theo đó là các chính sách trong thời gian qua mới chỉ được tập trung vào những vấn đề liên quan tới chuyển giao công nghệ (từ 1988) và đánh giá trình độ công nghệ (trong những năm gần đây). Việc nghiên cứu về năng lực công nghệ, và theo đó là các chính sách hỗ trợ quá trình xây dựng và nâng cao năng lực công nghệ, hỗ trợ đổi mới và phát triển công nghệ đối với các doanh nghiệp tuy cũng đã được tiến hành (ở một số ngành, một số cấp), nhưng nhìn chung, chưa có được sự quan tâm và tổ chức thực hiện một cách hệ thống và hiệu quả. Quảng Ninh là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng Bắc bộ là vị trí quan trọng trong “tam giác phát triển kinh tế” khu vực phía Bắc nước ta (Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh). Với vị trí địa lý thuận lợi, Quảng Ninh có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú (như tài nguyên khoáng sản có trữ lượng lớn: than đá, sét cao lanh, đá vôi...), và là vùng “vàng đen” lớn nhất của tổ quốc (với trữ lượng đã tìm kiếm thăm dò khoảng 3,6 tỷ tấn.). Để có thể định hướng đầu tư một cách đúng đắn và để có được sự phát triển phù hợp đối với ngành than – một ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh và của đất nước – vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp trong ngành phải có đủ trình độ nhận thức và năng lực để đổi mới công nghệ, đáp ứng các yêu cầu phát triển một cách chủ động trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Theo đó, nội dung của Luận văn chủ yếu được hướng vào mục tiêu nghiên cứu là phát hiện và nhận dạng các yếu tố ảnh hưởng/tác độngđến năng lực công nghệ của các doanh nghiệp ngành than trên địa bàn của một tỉnh với nhiều đặc thù như Quảng Ninh. Và trên cơ sở đó, đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp đối với việc xây 2 dựng và nâng cao năng lực công nghệ, hỗ trợ đổi mới và phát triển công nghệ đối với các doanh nghiệp ngành than trên địa bàn tỉnh. Để thực hiện, quá trình nghiên cứu của Luận văn được tiến hành thực hiện trên cơ sở một số phương pháp nghiên cứu và các cách tiếp cận chủ yếu như sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình tìm kiếm các cơ sở lý luận và nhận dạng những diễn biến của xu thế phát triển, những yêu cầu và những khả năng đáp ứng các nhu cầu nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp nói chung, và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu hiện trường: là các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu hiện trạng (hiện trạng về tài nguyên than, về ngành than, về hoạt động của các doanh nghiệp ngành than, về thực trạng công nghệ và năng lực công nghệ của các doanh nghiệp ...). - Tiếp cận định tính và định lượng: được sử dụng để kết hợp và bổ sung lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu hiện trạng và nhận dạng các yếu tố ảnh hưởng/tác động đến năng lực công nghệ của các doanh nghiệp ngành than trên cơ sở quan sát và thu thập thông tin từ các doanh nghiệp. - Tiếp cận cá biệt và so sánh: được sử dụng để nhận biết thực trạng về trình độ công nghệ, và theo đó là năng lực công nghệ của các doanh nghiệp ngành than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh so với các doanh nghiệp cùng ngành khác ở trong nước và trên thế giói. Theo quan điểm như vậy, nội dung cơ bản và chủ yếu của Luận văn được nghiên cứu và xây dựng trên cơ sở kế thừa cao nhất những kết quả nghiên cứu hiện có (cả ở Trung ương, địa phương và quốc tế). Nội dung nghiên cứu của Luận văn cũng dành ưu tiên cao cho việc lựa chọn và đề xuất các giải pháp(vi mô và vĩ mô) để có thể thực thi một cách hiệu quả và đồng bộ việc nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp ngành than nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói trung trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và trong tiến trình toàn cầu hoá như hiện nay./. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này cũng không tránh khỏi những thiếu xót cả về mặt khách quan cũng như chủ quan, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của hội đồng để luận văn được hoàn thiện hơn. 3 4 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1. Công nghệ và phân loại công nghệ 1) Khái niệm công nghệ Thuật ngữ “công nghệ” xuất phát từ chữ Hy Lạp “Techne” có nghĩa là một nghệ thuật hay một kỹ năng, và „logia” có nghĩa là một khoa học, hay sự nghiên cứu. Gần đây, thuật ngữ này đã trở thành một cụm từ được nhiều người thuộc các lĩnh vực khác nhau quan tâm. Trong lĩnh vực quản lý, công nghệ được xem “là khoa học và nghệ thuật dùng trong sản xuất và phân phối hàng hoá và dịch vụ”. Trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, “công nghệ là hệ thống những kiến thức (bao gồm thông tin, bí quyết - có thể bao gồm cả máy móc, thiết bị) được áp dụng để sản xuất một sản phẩm hoặc một dịch vụ”. Và hiện nay, khái niệm này đã được xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực (công nghệ thông tin, công nghệ giáo dục, công nghệ đào tạo, công nghệ du lịch, công nghệ quản lý, công nghệ ngân hàng, công nghệ văn phòng ...) với một định nghĩa được coi là khái quát nhất về công nghệ “ Công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra”. Riêng đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ, các tổ chức quốc tế về khoa học & công nghệ đã có nhiều cố gắng trong việc đưa ra một định nghĩa công nghệ có thể dùng hoà các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hoà nhập của các quốc gia, trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Theo tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp quốc (United Nation‟s Industrial Development Organization - UNIDO): “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp”. Định nghĩa này của UNIDO đứng trên góc độ một tổ chức phát triển công nghiệp, nhấn mạnh tính khoa học là thuộc tính của công nghệ 5 và khía cạnh hiệu quả khi xem xét việc sử dụng công nghệ cho một mục đích nào đó. Theo tổ chức ESCAP (Economic and Social Commison for Asia and the Pacific- Uỷ ban kinh tế và xã hội Châu á - Thái Bình Dương): “Công nghệ là hệ thống kiến thức về qui trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin”. Và sau đó, định nghĩa này đã được ESCAP mở rộng thêm: “ bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin”. Định nghĩa này không coi công nghệ phải gắn chặt với quá trình sản xuất chế tạo ra các sản phẩm cụ thể, mà mở rộng khái niệm công nghệ ra các lĩnh vực dịch vụ và quản lý. Và do vậy, nó được coi là một bước ngoặt trong lịch sử quan niệm về công nghệ. Ở Việt Nam, trước đây thường có quan niệm cho rằng “ Công nghệ là kiến thức, kết quả của khoa học ứng dụng nhằm biến đổi các nguồn lực thành các mục tiêu sinh lợi”. Tuy nhiên, cách hiểu phổ biến nhất hiện nay, phù hợp với các quan điểm, chính sách phát triển và quản lý công nghệ, đó là khái niệm về công nghệ đã được quy định tại Luật Khoa học và công nghệ (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá X, kỳ họp thứ 7, thông qua ngày 9/6/2000). Đó là: Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. 2) Phân loại công nghệ Hiện nay số lượng các loại công nghệ không thể xác định chính xác. Số lượng các công nghệ đưa ra thị trường tăng theo hàm số mũ, do đó việc phân loại chính xác, chi tiết các công nghệ là điều khó thực hiện. Tuỳ theo mục đích, người ta phân loại các công nghệ như sau: - Theo tính chất: Công nghệ sản xuất, công nghệ dịch vụ, công nghệ thông tin, công nghệ đào tạo. - Theo ngành nghề: Công nghệ công nghiệp, nông nghiệp; công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng, công nghệ vật liệu... 6 - Theo đặc tính công nghệ: Công nghệ đơn chiếc, công nghệ hàng loạt, công nghệ liên tục. - Theo sản phẩm: Phân theo sản phẩm mà công nghệ sản xuất ra ; công nghệ xi măng, năng lượng, ô tô, xe đạp... - Theo mức độ hiện đại: Cổ điển, trung gian, tiên tiến. - Theo mục tiêu: Dẫn dắt, thúc đẩy, phát triển. - Theo sự ổn định công nghệ: Công nghệ cứng, công nghệ mềm 3) Quản lý công nghệ Quản lý công nghệ - hiểu theo nghĩa hẹp - bao gồm chủ yếu là hoạt động "quản lý kỹ thuật" trong các xí nghiệp. Nội dung chủ yếu của nó là quản lý việc thực hiện các quy đinh, quy phạm kỹ thuật, quản lý tiêu chuẩn, quản lý đo lường, và quản lý chất lượng sản phẩm. Dần dần, nội dung của khái niệm này được mở rộng ra, để bao quát được các yếu tố khác của công nghệ, đặc biệt là những yếu tố thuộc về phần mềm và thể chế tổ chức của công nghệ. Theo đó, quản lý công nghệ bao gồm cả những khía cạnh của quản lý sản xuất kinh doanh. Theo tài liệu sử dụng trong các trường đại học ở Mỹ và Canada: Quản lý công nghệ được hiểu là bao gồm - lựa chọn và quản lý các dự án công nghệ - công nghệ và cạnh tranh quốc tế - quản lý sự đổi mới công nghệ trong sản xuất quản lý sự đổi mới công nghệ trong khu vực dịch vụ công nghệ và chiến lược kinh doanh - hợp tác và liên kết chiến lược về công nghệ - marketing quốc tế - phát triển các quy trình công nghệ và sản phẩm mới. 2. Đổi mới công nghệ 1) Khái niệm Khái niệm đổi mới (innovation) được xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1911 trong tác phẩm có tựa đề "Học thuyết phát triển kinh tế " của Joseptr Schumpeter. Trong tác phẩm này, ông đã dùng thực tế của lịch sử đổi mới kỹ thuật để giải thích cho chu kỳ phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Và 7 ông cho rằng, nhân tố quan trọng quyết định vận động theo chu kỳ của kinh tế chính là đổi mới kỹ thuật, đổi mới công nghệ. Hay cụ thể hơn, mỗi một chu kỳ phát triển đều thống nhất với cao trào của các phát minh và sáng chế đương thời. Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa từ trước tới lúc đương thời được ông chia thành ba chu kỳ dài: - Thứ nhất là thời kỳ cách mạng công nghiệp (từ những năm 80 của thế kỷ 18 đến năm 1842), tiêu biểu là những sáng chế trong ngành công nghiệp dệt. - Thứ hai là thời kỳ phát triển từ năm 1842 đến năm 1897, với tiêu biểu là các sáng chế về máy hơi nước và các sáng chế trong ngành công nghiệp gang thép. - Thứ ba là thời kỳ phát triển từ sau năm 1889, mà tiêu biểu là các sáng chế trong các lĩnh vực điện khí, hoá học và ôtô. Theo Josept Schumpeter: Đổi mới kỹ thuật là một kiểu dịch chuyển của hàm số sản xuất, hoặc là sự kết hợp mới giữa các yếu tố sản xuất và điều kiện sản xuất, với mục đích là để có được lợi nhuận cao còn đang tiềm ẩn. Theo đó, ông cũng đã khái quát đổi mới thành các loại hình như sau: - Sản xuất ra sản phẩm mới; - Tạo ra phương pháp sản xuất và quy trình công nghệ mới; - Mở ra thị trường mới; - Khai thác và ứng dụng nguyên vật liệu mới hoặc nguồn cung cấp mới; và, - Áp dụng phương pháp tổ chức mới. Xét từ góc độ quản trị kinh doanh, Peter Drucker, nhà kinh tế học nổi tiếng người Áo cho rằng, đối với một doanh nghiệp, đổi mới luôn được sử dụng như một nhân tố quan trọng trong chiến lược cạnh tranh. Bởi lẽ, nếu thiếu khả năng và sự kiên trì, bền bỉ trong việc cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ và sản phẩm/dịch vụ, thì doanh nghiệp sẽ sớm bị đào thải khỏi thương trường khi nhu cầu khách hàng, công nghệ thay đổi và cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Xét từ gốc độ quá trình, đổi mới công nghệ chính là quá trình thương mại hoá và công nghiệp hoá thành quả khoa học và công nghệ. Bởi theo cách hiểu thông thường, thì đổi mới công nghệ chỉ là quá trình và hành vi biến các 8 thành quả khoa học và công nghệ thành sản phẩm thương mại, và sau đó tiêu thụ trên thị trường để thực hiện giá trị kinh tế của nó, từ đó có được hiệu quả kinh tế. Ở nước ta hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng: Đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế phần quan trọng (cơ bản/cốt lõi) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn, hiệu quả hơn. Theo đó: - Đổi mới công nghệ có thể chỉ nhằm giải quyết các bài toán tối ưu các thông số sản xuất như năng suất, chất lượng, hiệu quả v…v… (Đổi mới quá trình) hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm, dịch vụ mới phục vụ thị trường (Đổi mới sản phẩm). - Đổi mới công nghệ có thể là đưa ra hoặc ứng dụng những công nghệ hoàn toàn mới (ví dụ, sáng chế công nghệ mới) chưa có trên thị trường công nghệ, hoặc là mới ở nơi sử dụng nó lần đầu và trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới (ví dụ, đổi mới công nghệ nhờ chuyển giao công nghệ theo chiều ngang). Điều cần chú ý ở đây là, cách hiểu trên hoàn toàn khác với cách hiểu trước đây - với quan điểm cho rằng - đổi mới công nghệ là sự hoàn thiện và phát triển không ngừng các thành phần cấu thành công nghệ dựa trên các thành tựu khoa học nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế, xã hội. Với quan điểm này, một sự thay đổi trong các thành phần công nghệ dù nhỏ cũng được coi là đổi mới công nghệ, nhưng thực ra các hoạt động này nên coi là cải tiến công nghệ thì chính xác hơn. Mặt khác, hệ thống công nghệ mà con người đang sử dụng có tính phức tạp và đa dạng cao, chỉ một loại sản phẩm đã có thể dùng rất nhiều loại công nghệ khác nhau. Do đó, nếu xếp tất cả các thay đổi nhỏ về công nghệ thuộc về đổi mới công nghệ thì việc quản lý đổi mới công nghệ là việc làm không có tính khả thi. 2) Vai trò của đổi mới công nghệ trong phát triển kinh tế Đổi mới công nghệ là tất yếu Trước hết, công nghệ là một sản phẩm của con người nên công nghệ cũng tuân theo quy luật chu trình sống của sản phẩm. Đó là: sinh ra, phát triển và cuối cùng và suy vong. Theo đó, bất kỳ một nhà quản lý nào mà không có 9 những hoạt động nhằm không ngừng đổi mới công nghệ của mình thì chắc chắn hệ thống công nghệ của họ sẽ bị đào thải, và sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp đó sẽ bị đe doạ. Như vậy, đổi mới công nghệ là tất yếu và phù hợp với quy luật phát triển. Tính tất yếu của đổi mới công nghệ còn xuất phát từ các lợi ích khác nhau của các doanh nghiệp cũng như của toàn xã hội. Riêng đối với các doanh nghiệp, các điều tra về đổi mới công nghệ ở trong và ngoài nước đều cho thấy, các lợi ích của đổi mới công nghệ đối với cơ sở đổi mới công nghệ bao gồm: - Cải thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm. - Duy trì và củng cố thị phần. - Mở rộng thị phần của sản phẩm. - Mở rộng phẩm cấp sản phẩm, tạo thêm chủng loại sản phẩm mới. - Đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn, luật lệ. - Giảm tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng. - Cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị. - Giảm tác động xấu đối với môi trường sống. Đổi mới công nghệ là điểm đột phá của bƣớc chuyển biến tăng trƣởng kinh tế, và là con đƣờng duy nhất để tăng trƣởng kinh tế với chất lƣợng cao Tăng trưởng kinh tế của một đất nước luôn gắn liền với việc nâng cao số lượng và cải thiện chất lượng của Hệ thống kinh tế. Và ở đây, cải thiện chất lượng được biểu hiện chủ yếu ở việc nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm và sự giảm thiểu hao mòn nguồn tài nguyên, có nghĩa là vẫn với nguồn tài nguyên đó nhưng có thể tạo ra nhiều của cải hơn. Thực tế cho thấy, lâu nay, sự tăng trưởng kinh tế của các nước chậm phát triển chủ yếu được thực hiện dựa vào việc tăng thêm đầu tư về nguồn vốn và năng lực; trong khi đó, ở các nước công nghiệp phát triển, sự tăng trưởng kinh tế lại dựa vào khoa học và công nghệ. Đối với nước ta, sự tăng trưởng kinh tế rất cần một lượng lớn nguồn vốn và nguồn tài nguyên; trong khi đó, hầu hết các thiết bị công nghiệp đều đã hết khấu hao, lỗi thời, chất lượng sản phẩm giảm sút, chi phí hao mòn nguyên nhiên vật liệu cao, lại gây ô nhiễm môi trường nặng nề. Vấn đề đặt ra là, nếu không tích cực sử dụng các thiết bị tiên tiến để thay thế thiết bị đã lỗi thời, nâng cao trình độ năng lực cho nhân viên thì năng lực kinh doanh và 10 cạnh tranh của hầu hết (thậm chí toàn bộ) doanh nghiệp nước ta sẽ không có triển vọng tốt đẹp, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, chỉ có sự cố gắng và nỗ lực thực hiện nghiên cứu và đổi mới thì các doanh nghiệp mới có được những sản phẩm mới, công nghiệp mới tiên tiến để duy trì và tăng khả năng cạnh tranh. Và chỉ có như vậy, mới có thể giải quyết được vấn đề lãng phí tài nguyên và có được tăng trưởng kinh tế với chất lượng cao. Đổi mới công nghệ là con đƣờng cơ bản cải thiện kết cấu sản phẩm và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, giúp doanh nghiệp làm giàu Từ lâu nay, hoạt động kinh tế của nước ta thường bị đánh giá là hiệu quả không cao. Nói một cách khách quan, nguyên nhân chủ yếu là vì sự lạc hậu của hàng nội địa, và từ đó dẫn đến sản phẩm kém sức cạnh tranh. Trong thực tế, để giải quyết vấn đề này, phần lớn các doanh nghiệp đều sử dụng vốn vay của ngân hàng để mua nguyên vật liệu và phát lương cho công nhân để duy trì sản xuất. Tuy nhiên, kết quả của việc làm này là kết cấu, tính ănng, chất lượng và kiểu dáng sản phẩm đều không được cải tiến nhiều. Và như vậy, các doanh nghiệp không những không giải quyết được vấn đề lạc hậu và suy thoái sản phẩm, mà ngược lại, còn gây nên sự tồn kho lớn. Đó chính là nguyên nhân khiến doanh nghiệp rơi vào hoàn cảnh khó khăn, và sự tổn thất của các doanh nghiệp luôn ở mức cao. Vì vậy, muốn làm sôi động nền kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp, chỉ có một con đường duy nhất. Đó là thông qua cải tiến, đổi mới công nghệ và sản phẩm để cải thiện kết cấu sản phẩm của doanh nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm để thích ứng và đi sâu và nhu cầu của thị trường. Đổi mới công nghệ là con đƣờng hiệu quả để loại trừ giai đoạn chín muồi và thay thế của thị trƣờng, phát triển một sản phẩm mới Trên thị trường, dung lượng của bất cứ sản phẩm nào cũng đều có hạn, và khi thị trường của một loại sản phẩm đã phát triển tới một mức độ nhất định sẽ xuất hiện trạng thái bão hoà. Theo đó, những sản phẩm này nhanh chóng xuất hiện tình trạng cung vượt quá cầu và hầu hết các doanh nghiệp đều gặp phải những khó khăn lớn. 11 Hơn thế nữa, thực thế còn cho thấy, thị trường của một loại sản phẩm không chỉ có xu hướng bão hoà mà còn trở nên chín muồi, tức là bị thay thế bởi một sản phẩm khác. Trong trường hợp này, một mặt, người có thể chiến thắng trong quá trình cạnh tranh chính là người lựa chọn con đường tiếp tục đổi mới công nghệ và sản phẩm để tiếp tục duy trì được ưu thế; Và mặt khác, kẻ thất bại mới bị đào thải khỏi thị trường cũng chỉ có thể thông qua đổi mới công nghệ và sản phẩm mới có thể chuyển sang con đường mưu sinh khác. Như vậy, nếu như sản phẩm phát sinh hiện tượng thay thế thị trường thì doanh nghiệp càng cần phải cố gắng đẩy mạnh đổi mới để tìm cơ hội phát triển mới. Trong quá trình này, cho dù là một doanh nghiệp trẻ hay một doanh nghiệp lâu năm đều cần phải cố gắng thực hiện tốt công tác đổi mới. Bởi lẽ, việc không chủ động đổi mới cũng đồng nghĩa với việc ngồi chờ thất bại, hoặc từ bỏi tương lai phát triển. Đổi mới công nghệ là con đƣờng cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trƣờng và trong bối cảnh hội nhập Cơ chế thị trường có sự khác biệt cơ bản với cơ chế bao cấp truyền thống trên nhiều phương diện. Trong đó, sự khác biệt cơ bản nhất là cơ chế cạnh tranh - sản phẩm được lựa chọn bởi khách hàng chứ không phải được phân phối theo kế hoạch. Như vậy, trong cơ chế thị trường, chiếm lĩnh được thị trường là tiêu điểm của sự cạnh tranh, và trong điều kiện mở cửa hội nhập, kiểu cạnh tranh này còn mang tính chất quốc tế, được tiến hành xung quanh việc chiếm lĩnh thị trường thế giới. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là, đối tượng cạnh tranh không phải là các quốc gia mà chính là các doanh nghiệp, và biện pháp chính để cạnh tranh của các doanh nghiệp chính là thông qua "sự độc đáo trong sản phẩm và dịch vụ" để chiến thắng các đối thủ khác. Để thực hiện, doanh nghiệp có thể lợi dụng ưu thế nghiên cứu, khai thác của bản thân để: 1) Tạo ra sự khác biệt trên các phương diện về chủng loại, tính năng và chất lượng so với đối thủ cạnh tranh; 2) Lợi dụng ưu thế sản xuất với quy mô lớn, thiết bị công nghệ tiên tiến để tạo ra được những sản phẩm cùng chất lượng với doanh nghiệp khác nhưng giá bán thấp hơn; và, 3) Tận dụng khả năng ở các lĩnh vực phân phối, lưu thông, dịch vụ sau bán hàng với chất lượng cao để tạo ra sự khác biệt với các công ty khác về mặt dịch vụ. 12 Như vậy, việc tạo ra cho dù là sự khác biệt nào cũng đều có thể đem lại ưu thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Và vấn đề ở đây là, việc tạo ra bất cứ một sự khác biệt nào, cũng không thể tách rời đổi mới công nghệ và đổi mới sản phẩm/dịch vụ. Ba công ty điện tử lớn là Sony, Samsung và Sanyo là những công ty đã biết dựa vào ưu thế của mình, lựa chọn những chiến lược độc đáo để giúp sản phẩm của doanh nghiệp luôn giữ vị trí hàng đầu; - Công ty Sony mỗi năm cho ra đời tới trên 1000 sản phẩm mới. Độc chiếm thị trường về mặt chủng loại. - Samsung thì biết dựa vào ưu thế dịch vụ của mình để tạo ra sự độc đáo cho doanh nghiệp, giúp khách hàng "vô cùng yên tâm và tin tưởng khi sử dụng sản phẩm của Samsung. - Sanyo thì lại dựa trên nguyên tắc "coi trọng sự hài lòng của khách hàng" để tạo ra sản phẩm có giá thành thấp - tạo ra sự độc đáo về mặt giá cả. Và cả 3 công ty này, nhiều năm đã được xếp hàng trong số 500 công ty lớn nhất thế giới. 3) Vai trò của xã hội trong đổi mới công nghệ Trước hết, đổi mới công nghệ thành công chỉ thực sự có ý nghĩa khi và chỉ khi nó được thương mại hoá tức là được thị trường, xã hội chấp nhận. Xã hội chính là nơi tiếp nhận thành tựu của đổi mới công nghệ, nhưng đồng thời cũng chính là nguồn cung cấp nguồn lực cho đổi mới công nghệ thành công. Mọi đổi mới công nghệ đều bắt nguồn từ những nhu cầu của xã hội hoặc phục vụ cho nhu cầu nào đó của xã hội. Đổi mới công nghệ là một quá trình sáng tạo mà quá trình đó thường xuất phát từ các cá nhân - từ những người muốn chứng tỏ giá trị của mình trên cơ sở thừa nhận giá trị của tính độc lập suy nghĩ, có tư duy mạch lạc, khả năng đánh giá thông tin, kiên trì trong việc theo đuổi mục đích của mình và đặc biệt là quan tâm tới các vấn đề trí tụê và nhận thức. Tuy nhiên, để các cá nhân đó có thể sáng tạo thành công thì cần phải có một môi trường sáng tạo với những đặc trưng sau: - Cho phép người lao động làm việc trong lĩnh vực mà họ yêu thích; 13 - Khuyến khích, tạo điều kiện cho các mối quan hệ, tiếp xúc giữa các đồng nghiệp; - Có thể giảm nhẹ sự rủi ro; - Khoan dung với thất bại và không tuân theo các tập tục; - Có chế độ đãi ngộ thích đáng; - Về giáo dục cần có một nền giáo dục mang tính khoa học - không tuyệt đối hoá mà luôn luôn đặt ra các câu hỏi như tại sao, bản chất của sự kiện ở đâu và đặc biệt cần cảnh giác với sự chắc chắn bề ngoài. Thứ hai, đổi mới là một hoạt động đồng thời tương tác và phi tuyến, nó bao gồm không chỉ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mà cả xã hội, chính trị và các tương tác kinh tế cũng như các chính sách công. Hiện nay, các xu thế có ảnh hưởng một cách chiến lược tới quá trình đổi mới công nghệ có thể kể đến bao gồm: - Xu thế hợp tác quốc tế - Xu thế này nhấn mạnh vào tầm quan trọng của sự hợp tác trong khoa học và công nghệ giữa các quốc gia - một quy luật tất yếu của sự phát triển. Sự hợp tác này có thể rất đa dạng, như thông qua các ấn phẩm xuất bản (sách, báo, tạp chí…) trên phạm vi toàn thế giới. Một dạng khác của xu thế hợp tác nói chung và hợp tác quốc tế nói riêng chỉ mới xuất hiện gần đây một cách đều đặn, đó là các hoạt động liên ngành, đặc biệt là mối quan hệ hữu cơ giữa các trường đại học và khu vực công nghiệp ngày càng trở nên quan trọng. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh được việc nghiên cứu của các trường đại hiọc quyết định đến khả năng của quốc gia về đổi mới và hoàn thiện nền kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, các công ty không hoạt động độc lập, họ hợp tác, buôn bán với nhau trong một số lĩnh vực và cạnh tranh trong một số lĩnh vực khác. Vì vậy, vai trò của các công ty khác là khá quan trọng trong đổi mới. Các trường đại học cũng chỉ tập trung nguồn lực của mình vào một vài lĩnh vực khoa học nhất định. Họ không thể nghiên cứu và giảng dạy trong mọi lĩnh vực bởi sự hạn chế của nguồn lực. Mà chúng ta đều biết, việc nảy sinh, phát triển, triển khai và đạt được thành công về mặt thương mại cho đổi mới đòi hỏi nguồn nhân lực, vật lực rất lớn. Chính vì vậy, đổi mới công nghệ phải 14 là sự kết hợp của một tập hợp các đối tượng, và rõ ràng là đổi mới nói chung và đổi mới công nghệ nói riêng là một hoạt động mang tính tập thể. - Xu thế xuất hiện của những công nghệ phức tạp do thị trường toàn cầu ngày nay đòi hỏi - Theo Dohald và Robertm, 1/4 thế kỷ trước gần 60% sản phẩm xuất khẩu hàng đầu của thế giới là những sản phẩm đơn giản được sản xuất bởi các quy trình đơn giản. Ngày nay, một tỷ lệ tương tự (60%) là những sản phẩm phức tạp được sản xuất bởi những quy trình phức tạp. Điều đó có thể được giải thích do sự phát triển với tốc độ khá cao của hệ thống kinh tế - xã hội của loài người nói chung và của hệ thống khoa học - công nghệ nói riêng trong thời gian qua. Và như vậy, tương lai sẽ thuộc về những người nhận thức được tính phức tạp, có hệ thống nhất các kiến thức da dạng khác nhau trong nhiều tổ chức khác nhau để tạo ra những gì chưa có trước đây. Hay nói cách khác, thành công kinh tế sẽ đến với những người thành công trong việc đổi mới các công nghệ phức tạp. - Xu thế tác động của công nghệ thông tin - Tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người ngày nay đang chịu tác động rất lớn của công nghệ thông tin. Sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin mà đặc biệt quan trọng là công nghệ máy tính, Internet và công nghệ mạng đang làm thay đổi tất cả các loại hình công nghệ của loài người. Theo đó, nó tạo ra các con đường phát triển hoàn toàn mới cho tất cả các công nghệ. Sẽ là điều ngạc nhiên nếu như hiện nay và trong tương lai tồn tại một thành công trong kinh tế và khoa học công nghệ mà lại không ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin. II. NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ 1. Khái niệm Khái niệm năng lực công nghệ đã xuất hiện vào cuối những năm 70 của thế kỷ 20, nó như một làn sóng mới trong quá trình nhận thức về con đường phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển. Trước đó, các công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào lựa chọn kỹ thuật và nhập thiết bị kỹ thuật sau đó lựa chọn và nhập công nghệ. Hậu quả tiêu cực của nhận thức đó là sự trả giá quá đắt cho công nghệ mua do khả năng nhận biết, nắm vững và triển khai còn quá yếu, công nghệ được sử dụng không thích ứng với nguồn lực, điều kiện, nơi áp dụng và dẫn đến hiệu quả quá thấp. 15 Điều đó lý giải, do công nghệ là hàng hoá đặc biệt, có tính chất ẩn, độ bất định cao, để triển khai và làm chủ công nghệ nhập từ bên ngoài vào, bên nhận phải có trình độ nhận thức, năng lực để giải quyết các hoạt động tự lập, giải quyết sự cố một cách chủ động mà không hoàn toàn dựa vào bên bán. Trong nhiều năm qua, năng lực công nghệ đã được nhiều tổ chức, nhiều chuyên gia quan tâm và có nhiều công trình đã nghiên cứu về vấn đề này. Nhiều chuyên gia cho rằng vấn đề trước mắt không phải chỉ quan tâm đưa ra được một định nghĩa tổng quát, mà chính là phải tìm ra những nhân tố nào quyết định năng lực công nghệ. - Tổ chức phát triển công nghệ của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) đã xác định các yếu tố để xây dựng năng lực công nghệ, bao gồm: Khả năng đào tạo nhân lực; Khả năng tiến hành nghiên cứu cơ bản; Khả năng thử nghiệm các phương tiện kỹ thuật; Khả năng tiếp nhận và thích nghi các công nghệ; Khả năng cung cấp và xử lý thông tin. - Ngân hàng thế giới (WB) trong công trình nghiên cứu đã đề xuất phân chia năng lực công nghệ theo ba nhóm độc lập: 1) Năng lực sản xuất, bao gồm: Quản lý sản xuất, Kỹ thuật sản xuất, Bảo dưỡng, bảo quản tư liệu sản xuất, Tiếp thị sản phẩm; 2) Năng lực đầu tư, bao gồm: Quản lý dự án, Thực hiện dự án, Năng lực mua sắm, Đào tạo nhân lực; và, 3) Năng lực đổi mới, bao gồm: Khả năng sáng tạo và Khả năng tổ chức thực hiện đưa kỹ thuật mới vào các hoạt động kinh tế. - C. M.Fransman, một chuyên gia trong công trình của mình đã nêu lên rằng, đối với thế giới thứ ba việc đánh giá năng lực công nghệ phải bao gồm các yếu tố sau: + Năng lực tìm kiếm các công nghệ để thay thế, lựa chọn công nghệ thích hợp để nhập khẩu. + Năng lực nắm vững công nghệ nhập khẩu và sử dụng có hiệu quả. + Năng lực thích nghi công nghệ nhập khẩu với hoàn cảnh và điều kiện địa phương tiếp nhận. + Năng lực cung cấp công nghệ đã có và năng lực đổi mới. + Năng lực thể chế hoá việc tìm kiếm những đổi mới và những đột phá quan trọng nhờ phát triển các phương tiện nghiên cứu và triển khai trong nước. 16 + Tiến hành nghiên cứu cơ bản để tiếp tục nâng cấp công nghệ. Qua các công trình trên chúng ta rút ra một điều, năng lực công nghệ là kết quả phức hợp của nhiều tác động tương tác. Nhưng cần làm rõ và đánh giá được hai yếu tố cơ bản của năng lực công nghệ là khả năng đồng hoá công nghệ nhập khẩu và năng lực nội sinh tạo ra công nghệ. Trong đó: - Năng lực đồng hoá công nghệ nhập khẩu, là khả năng nắm vững và thích nghi công nghệ nhập, tất nhiên phải theo bốn thành phần công nghệ. Ví dụ: - Không thể làm chủ công nghệ nếu chỉ thụ động nhập phần kỹ thuật. Muốn đạt được điều này phải biết thích nghi và nâng cấp phần kỹ thuật với nỗ lực bản thân. Mặc dù phần kỹ thuật có thể mua được trên thị trường quốc tế, song khó mua được loại hiện đại phù hợp và sao chép lại ở trong nước. - Phần con người cũng có thể nhập khẩu tạm thời, song kết quả có được năng lực công nghệ hay không còn phụ thuộc vào khả năng lĩnh hội ở trong nước. - Phần thông tin mà các nhà nhập khẩu có được không vượt quá những hướng dẫn thao tác đơn giản, hướng dẫn các hoạt động đơn giản. Những thông tin có giá trị, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao không được bán hay chia sẻ với người nhập khẩu. - Phần tổ chức không dễ dàng dập khuôn như ở nước ngoài mà phải sửa đổi, điều chỉnh đáng kể để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh trong nước. - Năng lực phát triển công nghệ nội sinh, là khả năng tổng hợp trong nước để có thể thích nghi, cải tiến và sáng tạo công nghệ. Điều này có nghĩa là có khả năng: + Triển khai công nghệ đã biết ở một địa điểm nào đó + Cải tiến công nghệ đã áp dụng. + Sáng tạo công nghệ hoàn toàn mới. 17 Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về năng lực công nghệ chỉ có S.Lall đưa ra được đinh nghĩa mang tính tổng quát và phù hợp. Đó là, “Năng lực công nghệ quốc gia (ngành, cơ sở) là khả năng triển khai những công nghệ đã có một cách có hiệu quả và đương đầu được với những thay đổi công nghệ lớn”. Theo định nghĩa này có hai mức hoạt động phát triển công nghệ, cũng là hai cơ sở để phân tích năng lực công nghệ, đó là: - Sử dụng có hiệu quả công nghệ sẵn có. - Thực hiện đổi mới công nghệ thành công. Khái niệm này cũng đã khái quát được hai mặt cơ bản của năng lực công nghệ mà nhiều chuyên gia đã đề cập là khả năng đồng hoá công nghệ và khả năng phát triển công nghệ nội sinh. 2. Phân loại năng lực công nghệ 1) Khái quát về phân loại năng lực công nghệ Ở thập niên cuối cùng của Thế kỷ trước, đã có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực công nghệ, trong đó các tác giả cố tìm cách chi tiết hoá mỗi một yếu tố cơ bản trong chuỗi phát triển năng lực “mua - sử dụng - thích nghi và hoàn thiện” ra thành từ vấn đề cụ thể. Qua xem xét một cách tổng quan các cách phân loại hiện có về năng lực công nghệ ta thấy có thể xếp các năng lực của một doanh nghiệp trong chuỗi công việc “mua, sử dụng, thích nghi và cải tiến” công nghệ, thành ra ba nhóm cho thuận tiện và có thể gọi các nhóm đó tương ứng là năng lực tiếp thu, năng lực vận hành và năng lực đổi mới - Bảng 1 Bảng 1: Tổng kết những yếu tố chủ yếu trong năng lực công nghệ được đề cập tới qua các tài liệu Loại hình năng lực công nghệ Fransman và King (1984) Năng lực tiếp thu Năng lực vận hành Năng lực đổi mới Các năng lực không có khả năng phân vào Tìm và chọn Sử dụng thành Thích nghi công nghệ thạo công công nghệ nghệ nhập, cải tiến công nghệ đã thích nghi, 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất