Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở nghiên ...

Tài liệu Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố hà nội)

.PDF
102
465
80

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TUẤN THIỆN CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TUẤN THIỆN CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Dũng HÀ NỘI - 2015 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi và tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự trung thực khoa học trong luận văn này. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Tuấn Thiện 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM 9 TÌNH DỤC TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Một số vấn đề về trẻ em và các tội xâm phạm tình dục trẻ em 9 1.1.1. Khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam 9 1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em 11 1.1.3. Lịch sử lập pháp hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em 13 1.2. 24 Quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về các tội xâm phạm tình dục trẻ em 1.2.1. Loại hành vi thứ nhất: hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân 25 1.2.2. Loại hành vi thứ hai: hành vi giao cấu được thực hiện bằng 30 thủ đoạn cưỡng ép trẻ em buộc họ phải miễn cưỡng chấp nhận sự giao cấu 1.2.3. Loại hành vi xâm hại tình dục có sự thuận tình của nạn nhân 33 1.3. 36 Kinh nghiệm lập pháp một số nước đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em 1.3.1. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của Thụy Điển về các tội xâm 36 hại tình dục trẻ em 1.3.2. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của Liên bang Nga về các tội 38 xâm hại tình dục trẻ em 1.3.3. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của Trung Quốc về các tội 39 xâm hại tình dục trẻ em 1.3.4. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của Cộng hòa liên bang Đức về các tội xâm hại tình dục trẻ em 4 39 Chương 2: THỰC TIỄN CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÕNG CHỐNG 43 CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội có ảnh hưởng 43 đến tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em 2.1.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội 43 2.1.2. Đặc điểm tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên 44 địa bàn Hà Nội 2.2. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong việc giải quyết các 49 vụ án phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em và nguyên nhân 2.2.1. Về việc tiếp nhận, thẩm tra, xác minh tin báo về tội phạm 49 xâm hại trẻ em 2.2.2. Về việc xác định tuổi của nạn nhân 51 2.2.3. Vấn đề về chủ thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em 54 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI 59 XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về các tội xâm phạm tình 59 dục trẻ em 3.2. Đề xuất hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các 62 tội xâm phạm tình dục trẻ em 3.2.1. Về định khung hình phạt trong trường hợp nạn nhân chưa đủ 62 13 tuổi trong tội hiếp dâm trẻ em 3.2.2. Về việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với 63 việc nhận thức nạn nhân là trẻ em trong các tội xâm phạm tình dục trẻ em 3.2.3. Về đặc điểm giới tính của chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em 5 65 3.2.4. Quy định lại độ tuổi trẻ em là nạn nhân của tội phạm 67 3.2.5. Cần bổ sung tội "quấy rối tình dục" trong Bộ luật Hình sự 69 3.3. 70 Giải pháp hoàn thiện một số thuật ngữ pháp lý liên quan đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em 3.4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử 77 đối với các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng số liệu xét xử các vụ án hình sự về các tội xâm 45 bảng 2.1 phạm tình dục trẻ em tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2009 đến 6 tháng đầu năm 2015 2.2 Thống kê số vụ án xâm hại tình dục là trẻ em được đưa ra xét xử từ năm 2009 đến năm 2014 tại Hà Nội 7 46 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm…." [36]. Như vậy, bên cạnh quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe thì danh dự và nhân phẩm, trong đó có quyền tự do tình dục của con người nói chung và trẻ em nói riêng là một quyền Hiến định. Nhất là đối với trẻ em, vì họ là đối tượng còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt. Từ khi giành được chính quyền đến nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chăm lo bảo vệ các quyền này của người dân, trừng trị nghiêm khắc những hành vi xâm phạm tình dục nói chung và xâm hại tình dục trẻ em. Nhiều bản án nghiêm khắc, trong đó có cả hình phạt tử hình giành cho người phạm tội thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc đấu tranh không khoan nhượng đối với loại hành vi này, là bài học đắt giá đối với người phạm tội và là tiếng chuông cảnh tỉnh, răn đe chung đối với mọi người. Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, nhất là khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, trên phạm vi toàn quốc, các tội phạm xâm hại trẻ em ở nước ta vẫn diễn biến rất phức tạp và luôn có chiều hướng gia tăng mà nổi cộm là hiếp dâm trẻ em, tội giao cấu trẻ em, tội dâm ô với trẻ em và mua dâm người chưa thành niên. Xét về khía cạnh tội phạm học, thì loại hành vi xâm hại tình dục trẻ em trong thời kỳ này mang những đặc trưng riêng của thời kỳ mở cửa, duy trì kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và thời đại công nghệ thông tin. Tình hình tội phạm này trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, nhất là từ khi mở rộng địa giới hành chính cũng đang có chiều hướng diễn biến hết sức phức tạp và mang đầy đủ những đặc trưng mới như đã nêu ở trên của loại tội phạm 8 này. Theo thống kê chưa đầy đủ, mỗi năm, các cơ quan tố tụng hình sự của Hà Nội tiến hành điều tra, truy tố, xét xử khoảng 7.092 vụ án hình sự, trong đó số vụ án xâm hại tình dục mà nạn nhân là trẻ em chiếm 2,5%. Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm và sức khỏe của trẻ em của các tội xâm phạm tình dục trẻ em và mức độ, diễn biến ngày càng phức tạp của các loại tội phạm này trên phạm vi toàn quốc nói chung cũng như trên phạm vi thành phố Hà Nội nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong việc phát hiện điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội. Theo số liệu thống kê trong khoảng thời gian sáu năm từ năm 2009 đến tháng 6 năm 2015, tổng số các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội là 277 vụ/ 322 bị cáo bị đưa ra xét xử. Tuy nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng chống đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn toàn quốc nói chung cũng như trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng còn chưa đáp ứng được yêu cầu, còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót. Qua tổng kết 14 năm thi hành Bộ luật Hình sự cho thấy những hạn chế, vướng mắc này xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự. Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định các hành vi phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em gồm: Tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em... Thực tế chỉ ra rằng, một số dấu hiệu cấu thành của một số cấu thành tội phạm, cũng như các tình tiết tăng nặng định khung so với thực tiễn hành vi vi phạm còn chưa phù hợp điều đó dẫn đến sự hiệu quả trong xử lý các tội xâm phạm tình dục trẻ em chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, qua nghiên cứu tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên phạm vi toàn quốc, trong sự so sánh với tình hình tội xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội cho thấy, trong thời gian qua, loại tội phạm này xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng có những điểm đặc thù. 9 Do đó đặt ra một yêu cầu cần phải nghiên cứu về tình hình loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội để có những đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về nhóm tội phạm này. Từ những phân tích trên đây, tác giả quyết định chọn đề tài "Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tình hình nghiên cứu ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên, tội phạm xâm hại trẻ em cụ thể như: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Phòng ngừa tội phạm xâm hại trẻ em ở Việt Nam theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Trần Phương Đạt làm chủ nhiệm, năm 2004. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở các tỉnh thành phố phía Nam, thực trạng và giải pháp phòng ngừa đấu tranh, Vũ Đức Trung làm chủ nhiệm, năm 2005. - Luận văn thạc sĩ: Tội hiếp dâm trẻ em và đấu tranh phòng chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bình Định, Đặng Xuân Nam, năm 1999. - Luận văn thạc sĩ: Thực trạng và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở nước ta hiện nay, của Đặng Thị Thanh, năm 2001. - Luận văn thạc sĩ: Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, của Dương Thị Quỳnh Mận, năm 2006. - Luận văn thạc sĩ: Phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội, của Bùi Thị Thanh Loan, năm 2011. - Luận văn thạc sỹ: Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, của Trần Thùy Chi, năm 2011. - Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục, của Dương Tuyết Miên, Tạp chí Luật học, số Đặc san về bình đẳng giới, năm 2005. 10 - Những bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định về một số tội xâm phạm nhân phẩm của con người trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, của Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học, số 1/2010. - Trẻ em hiếp dâm trẻ em, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và sự không hợp lý trong quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự, của Trần Quang Thái, Tạp chí Toà án nhân dân, số 17/2011. - Về các tội phạm nhân phẩm, danh dự của con người, của Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8(169), tháng 4/2010. - Cần sửa đổi các Điều 115 và Điều 116 Bộ luật Hình sự hiện hành, của Trần Quốc Văn, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2011. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, tuy nhiên những công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những biện pháp, phương hướng phòng ngừa, hạn chế một hoặc một số tội xâm phạm trẻ em dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu ở mức độ luận văn Thạc sĩ luật học về những đặc thù của các tội xâm phạm tình dục trẻ em, đặc biệt trên địa bàn thành phố Hà Nội để từ đó đưa ra các đề xuất sửa đổi Bộ luật Hình sự cũng như hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng như các đô thị nói chung. Như vậy, với tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc lựa chọn đề tài " Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ luật học là hợp lý và cần thiết vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành là các tội xâm phạm tình dục trẻ em tập trung chủ yếu là tội hiếp dâm trẻ 11 em, tội cưỡng dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em, tội dâm ô với trẻ em và tội mua dâm người chưa thành niên (tình tiết tăng nặng mua dâm trẻ em) trong Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 góp phần làm rõ các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành và phân tích tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội, như phân tích các thông số về vụ phạm tội, người phạm tội, mức độ thiệt hại, các đặc điểm nhân thân người phạm tội cũng như hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em, tội dâm ô với trẻ em và tội mua dâm người chưa thành niên (tình tiết tăng nặng mua dâm trẻ em) giải pháp phòng ngừa. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Trên cơ sở các số liệu thống kê của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong giai đoạn từ năm 2010-2014 trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng như nghiên cứu tham khảo một số vụ án thực tế nhằm phác họa được thực trạng tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong thời gian vừa qua. Từ đó rút ra đặc điểm của loại tội này trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Nghiên cứu, phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành về các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Qua đó phát hiện những bất cập, thiếu sót cần sửa đổi, bổ sung. - Hệ thống hóa các quan điểm khoa học và làm rõ dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em, phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với các tội cưỡng dâm trẻ em, tội dâm ô đối với trẻ em, tội giao cấu với trẻ em. - Nhận xét đánh giá một số các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em và giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội. 12 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số Nghị quyết số 08/ NQ-TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh quy định pháp luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử nhóm tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội, phân tích các nguyên nhân, những tồn tại, hạn chế và kiến nghị những giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về nhóm hành vi xâm phạm tình dục trẻ em. Ngoài ra, luận văn cũng có tham khảo quy định phá luật hình sự của một số nước trên thế giới. 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Về địa điểm: Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Về thời gian: trong khoảng thời gian 5 năm (2010 - 2014). 13 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn có liên quan. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Xây dựng được bức tranh tổng thể về tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm gần đây; - Phân tích và rút ra được những đặc điểm của loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội; - Hệ thống hóa các quy định của pháp luật làm rõ đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm tình dục trẻ em; - Phân tích những hạn chế của các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan; - Tập trung nghiên cứu về phương hướng phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm xâm hại tình dục trẻ em ở những góc độ khác nhau; - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự một số nước điển hình như Pháp, Liên bang Nga, Trung Quốc... về các tội xâm hại tình dục trẻ em so sánh với pháp luật hình sự Việt Nam. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng các vụ án liên quan đến xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian 5 năm gần đây, từ đó đề ra một số giải pháp góp phần bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như giải pháp đấu tranh phòng chống nhóm tội phạm này. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích không chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu 14 cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời là cơ sở cho các nhà lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, từ đó tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và trẻ em nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số nội dung cơ bản về các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong pháp luật Hình sự. Chương 2: Thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm tình dục trẻ em. 15 Chương 1 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRẺ EM VÀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM 1.1.1. Khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam Thuật ngữ "trẻ em" được quy định ở mỗi quốc gia không giống nhau tùy thuộc vào những đặc điểm riêng về sự phát triển sinh học, cũng như quan điểm về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục đối với trẻ em của mỗi nước. Từ điển tiếng Việt không đưa ra định nghĩa về "trẻ em" mà chỉ mô tả trẻ em giống với trẻ con là "trẻ nhỏ nói chung" [57, tr. 1664], trong từ điều bách khoa Wikipedia định nghĩa trẻ em là một con người ở giữa giai đoạn từ khi sinh và tuổi dậy thì. Trong pháp luật Việt Nam cụ thể là Bộ luật Hình sự Việt Nam không đưa ra định nghĩa về trẻ em một cách cụ thể mà mô tả ngày trong các điều luật về tuổi của trẻ em, ví dụ Điều 112 - Tội hiếp dâm trẻ em quy định "người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm" hay Điều 114 - Tội cưỡng dâm trẻ em "người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm". Tuy nhiên trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam qui định: "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Như vậy khái niệm "trẻ em" trong khoa học pháp lý không đồng nhất với khái niệm trẻ em trong đời sống, đồng thời khái niệm "trẻ em" cũng không đồng nhất với khái niệm "người chưa thành niên", trẻ em là người chưa thành niên, nhưng người chưa thành niên có thể không phải là trẻ em. Khi nghiên cứu vấn đề này chúng ta cần phân biệt rõ người chưa thành niên và trẻ em khác nhau như thế nào. Điều 68 - Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 quy định "người chưa thành niên từ đủ mười bốn tuổi đến dưới mười 16 tám tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương này….". Như vậy, độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi còn trẻ em là dưới 16 tuổi. Hai khái niệm này có sự giao thoa nhau, trong đó khái niệm "người chưa thành niên" rộng hơn khái niệm "trẻ em" Trong hệ thống pháp luật quốc tế liên quan đến trẻ em, đã có nhiều văn bản quy định về quyền của trẻ em; trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ trẻ em như: Tuyên bố Giơnevơ 1924; Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em 1959; Tuyên bố của Liên hợp quốc về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em; Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại; Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 v.v... Liên quan đến khái niệm trẻ em, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam đã phê chuẩn quy định: "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn" [19]. Như vậy, để xác định một người có phải là trẻ em hay không còn phụ thuộc vào luật áp dụng của từng quốc gia quy định về độ tuổi trẻ em. Có thể nói, mỗi quốc gia có luật áp dụng khác nhau đều có những quy định về độ tuổi xác định là trẻ em khác nhau. Nói chung, trẻ em là người chưa phát triển về thể chất, tinh thần, hoặc là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ. Họ là những người đang trong quá trình trưởng thành nên chưa nhận thức đầy đủ về những khái niệm thông thường trong cuộc sống hàng ngày, cũng như họ chưa có đầy đủ khả năng thực hiện và khả năng tự gánh chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Do trẻ em là người đang nằm trong quá trình phát triển ở giai đoạn đầu của người chưa thành niên, họ chưa có đầy đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình trong mọi ứng xử và tình huống của cuộc sống. Chính vì vậy, trẻ em là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ khi tham gia các quan hệ pháp luật. Tùy theo mỗi ngành luật mà năng lực trách nhiệm của trẻ em cũng được quy định khác nhau. Pháp luật dân sự Việt Nam quy 17 định người chưa đủ sáu tuổi không có hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện; người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. Pháp luật hình sự quy định trẻ em chưa đủ 14 tuổi do thể chất và trí tuệ chưa phát triển, chưa nhận thức và làm chủ được hết hành vi của mình, vì vậy, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tóm lại, khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam được coi là người chưa đủ 16 tuổi, là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Tùy thuộc vào quan hệ pháp luật mà trẻ em tham gia, độ tuổi chịu trách nhiệm của trẻ em có khác nhau, nhưng pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền của trẻ em từ mọi hành vi xâm phạm. 1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em Nghiên cứu về khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em góp phần tìm hiểu bản chất, những vấn đề cốt lõi của các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Từ đó, việc tìm hiểu các dấu hiệu pháp lý và đặc trưng của từng tội xâm phạm tình dục trẻ em có thể dễ dàng hơn và chuẩn xác hơn. Từ khái niệm trẻ em đã được phân tích ở trên cho phép cũng ta có thể tìm hiểu một cách thuận lợi hơn về nhóm các tội xâm phạm tình dục trẻ em, đó chính là những người từ dưới 16 tuổi bị người phạm tội có hành vi xâm hại tình dục. Tình dục là một nhu cầu tự nhiên của con người về quan hệ tính giao. Điều này có nghĩa tình dục xuất phát từ nhu cầu mang tính chất bản năng của con người, bằng cách xác định có quan hệ tính giao (gồm hành vi giao cấu và 18 hành vi tình dục nhưng không phải là giao cấu) giữa những đối tượng khác nhau (có thể là tình dục dị tính và tình dục đồng tính). Tình dục có thể được hiểu là: Hành vi tìm kiếm khoái cảm hoặc để sinh sản, có nội hàm rộng, không chỉ có nghĩa là giao hợp giữa người nam và người nữ mà còn bao gồm cả nhiều hành vi khác nhằm đem lại khoái cảm, bằng tay hay bằng miệng, ở vùng cơ quan sinh dục hay ở những bộ phận khác của cơ thể. Cũng vẫn là tình dục khi thực hành tìm kiếm khoái cảm với bạn tình khác giới hay cùng giới, với một hay nhiều hơn một người, tự mình gây khoái cảm (thủ dâm) hay gây khoái cảm cho nhau, mơ tưởng đến chuyện tình dục hay sử dụng dụng cụ chuyên dụng [11]. Xâm phạm tình dục trẻ em là xâm phạm, động chạm đến quyền tự do, đến nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính giao; xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của trẻ em. Điều này được thể hiện bằng việc đối tượng phạm tội có mong muốn và thực hiện các quan hệ tính giao với trẻ em như hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô với trẻ em... Theo quan niệm của pháp luật hình sự hiện hành, các hành vi phạm tội được thực hiện nhằm thỏa mãn những ham muốn tình dục, những dục vọng của cá nhân xâm phạm đến tình dục của trẻ em. Hành vi được biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức hành động, bằng cách sử dụng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần, làm tê liệt khả năng phản kháng hoặc tự vệ hoặc lợi dụng sự non nớt về nhận thức của nạn nhân để đạt được hành vi tình dục. Hậu quả tác hại của tội phạm là những mất mát rất lớn về tinh thần, sức khỏe của nạn nhân, tác động tiêu cực đến đời sống bình thường của nạn nhân và gia đình họ. Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm trong hành vi của mình và thấy trước hậu quả khi thực hiện hành vi và mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. 19 Chủ thể thực hiện tội phạm ngoài các điều kiện chung của chủ thể, tùy từng loại tội mà chủ thể có thể là người từ đủ 14 tuổi trở lên hoặc là người đã thành niên (đủ 18 tuổi trở lên). Do vậy, tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em (người dưới 16 tuổi). 1.1.3. Lịch sử lập pháp hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em 1.1.3.1. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự phong kiến Trong thời kỳ phong kiến, pháp luật Việt Nam ít nhiều cũng đã quan tâm đến việc bảo vệ trẻ em trước tội xâm phạm tình dục và cũng đã có những hình phạt trừng trị nghiêm khắc kẻ phạm tội. Dưới thời vua Lê Thánh tông (1428-1788), nước ta có bộ luật thành văn đầu tiên là Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê). Bộ luật này đã có những quy định bảo vệ trẻ em khỏi sự xâm hại tình dục, Điều 404 quy định "Gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống dù người con gái thuận tình cũng xử như tội hiếp dâm". Và tội hiếp dâm có khung hình phạt là "Hiếp dâm thì xử tội lưu hay tội chết và phải nộp tạ. Nếu làm người đàn bà chết thì điền sản kẻ phạm tội phải trả cho người chết". Đến thời nhà Nguyễn (1815- 1945) vua Gia Long lên ngôi năm 1802, năm 1815 ông ban hành bộ luật Gia Long còn gọi là Hoàng Việt luật lệ. Trong đó có những quy định trong việc trừng trị nghiêm khắc đối với hành vi xâm phạm tình dục trẻ em. Điều 330: "Cưỡng gian bé gái dưới 10 tuổi thì bị chém ngay còn cưỡng gian bé gái trên 10 tuổi dưới 12 tuổi nếu việc cưỡng gian đã thành thì bị phạt treo cổ, nếu việc cưỡng gian không thành thì phạt trăm lượng, lưu ba ngàn dặm". Như vậy, các bộ luật thời phong kiến quy định tuổi được phép quan hệ tình dục đối với nữ giới là trên 12 tuổi, trong chế độ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan