Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong bộ luật hình sự năm 1999...

Tài liệu Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong bộ luật hình sự năm 1999

.DOC
96
130
92

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THU HƯƠNG CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thu Hương MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng, Biểu đồ MỞ ĐẦU..................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.............................7 1.1. Ý nghĩa của việc điều chỉnh hành vi xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình bằng các quy phạm pháp luật hình sự........................................7 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy pháp pháp luật hình sự về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình.....................................11 1.2.1. Từ thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945...................11 1.2.2. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.....................................17 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 cho đến nay ................................................................................................................... 21 1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình.............................................................25 Tiểu kết chương 1..................................................................................................30 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999.............................................32 2.1. Thực trạng pháp luật của các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình.....................................................................................................32 2.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình........................32 2.1.2. Dấu hiệu pháp lý chung của các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình ................................................................................................................... 35 2.1.3. Các tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự năm 1999................................37 2.2. Thực tiễn xét xử Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình...................54 2 2.3. Những tồn tại, hạn chế, các nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình ................................................................................................................... 58 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế...............................................................................58 2.3.2. Các nguyên nhân cơ bản............................................................................60 Tiểu kết chương 2..................................................................................................61 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH......................................62 3.1. Ý nghĩa của việc hoàn thiện pháp luật hình sự về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam......................................................62 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 ................................................................................................................... 64 3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình........................................................................................72 Tiểu kết chương 3..................................................................................................81 KẾT LUẬN............................................................................................................83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................85 DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ 1. Bảng Bảng 2.1. Số vụ án/ Số bị cáo xét xử sơ thẩm qua các năm 2005-2012..........55 Bảng 2.2. Tỷ lệ số vụ án xét xử sơ thẩm về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong tổng số tội phạm các năm 2005-2012.............56 Bảng 2.3. Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm chế độ hôn và gia đình các năm 2005-2012.........................................................................57 2. Biểu đồ Biểu đồ 2.1. Số vụ án/ Số bị cáo xét xử sơ thẩm qua các năm 2005-2012..........55 Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm chế độ hôn và gia đình các năm 2005-2012.........................................................................58 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới" và liên tục trong các Nghị quyết Đại hội VII, VIII, IX đều đề cập đến vị trí, vai trò của gia đình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đến Đại hội X của Đảng thì vị trí, vai trò của gia đình lại được xác định cụ thể và rõ ràng hơn: “Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Việt nam, thích ứng với những giá trị của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trong hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Gia đình với ý nghĩa “hạt nhân” của xã hội có vai trò duy trì những giá trị văn hóa, đạo đức của mỗi cộng đồng, góp phần xây nên văn hóa, đạo đức cả xã hội. Cha ông ta cho rằng: “Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân” (mỗi gia đình làm điều nhân thì cả nước sẽ vươn tới điều nhân). Một nhà tư tưởng phương Tây khẳng định: gia đình khó phá bỏ hơn quốc gia, có nghĩa là không thể phá bỏ gia đình, nếu gia đình tan rã thì nhân loại sụp đổ. Gia đình là môi trường lành mạnh nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách con người, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy, việc nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vai trò, vị trí của gia đình vẫn là vấn đề đặt ra thường xuyên đối vận mệnh phát triển của một dân tộc, một đất nước. Trong điều kiện hiện nay, sự phát triển nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng không nhỏ tới thiết chế hôn nhân và gia đình. Đặc biệt, tội phạm trong 1 lĩnh vực hôn nhân và gia đình ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp trong thực tiễn cuộc sống. Đây là tiếng chuông báo động về lối sống lệch lạc, nhân cách bị biến dạng của một bộ phận người trong xã hội, làm lung lay nền tảng gia đình vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Tội phạm trong lĩnh vực này còn kéo theo một loạt các loại tội phạm nghiêm trọng khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội, đến pháp chế xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu cấp thiết là phải nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm thuộc nhóm này, góp phần thực hiện chính sách pháp luật hình sự trong thực tiễn. Việc lựa chọn “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự năm 1999” làm đề tài nghiên cứu luận văn, tác giả sẽ góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự, những vấn đề lý luận, thực tiễn xét xử, hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. 2. Tình hình nghiên cứu Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình được quy định tại Chương XV – Bộ luật Hình sự năm 1999. Từ trước cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình dưới những góc độ khác nhau như sau: - Tìm hiểu các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và các tội phạm tối với người chưa thành niên phạm tội, Nguyễn Ngọc Điệp (2000), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. - Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng các quy định tại chương Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Khoa học pháp lý số 01 năm 2003. - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần các tội phạm) Tập III – Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, Đinh Văn Quế (2004), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 2 - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình – một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học, Quản Thị Ngọc Anh (2005), Luận văn thạc sỹ luật học.v.v... Các công trình nghiên cứu trên cũng đã cung cấp cho bạn đọc những kiến thức căn bản về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, mới chỉ nghiên cứu ở từng khía cạnh của vấn đề, mà chưa đi sâu nghiên cứu tổng thể từ lịch sử, lý luận cho đến thực tiễn và hoàn thiện. Chính vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự năm 1999. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ nhận thức – khoa học về lịch sử hình thành và phát triển, những vấn đề lý luận và thực tiễn về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Trên cơ sở đó có cái nhìn rõ nét hơn, để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, góp phần vào chính sách đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu như sau: Về mặt lý luận: Nghiên cứu làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý trên cơ sở tổng thể Chương XV – Bộ luật Hình sự năm 1999 và từng tội cụ thể thuộc chương. Trên cơ sở đó, có sự đối chiếu, so sánh với các quy định tương ứng trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu thực tiễn xét xử các tội và chỉ ra những 3 tổn tại, hạn chế, để từ đó chỉ ra được các nguyên nhân cơ bản trong việc áp dụng pháp luật. Trên cơ sở, đề ra phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm thuộc nhóm này. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các quy phạm pháp luật tương ứng với Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong lịch sử lập pháp qua các thời kỳ lịch sử; những quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới có điểm tương đồng với Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu số liệu của thực tiễn xét xử của Các tội này từ năm 2005 – 2010 trên toàn quốc. 3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề về lịch sử lập pháp, lý luận và thực tiễn về Các tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự năm 1999 và các văn bản hướng dẫn dưới góc độ luật hình sự. Đồng thời đề cập đến những quy định của pháp luật có liên quan, hỗ trợ cho quá trình giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu trên. Thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử, áp dụng pháp luật hình sự về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự năm 1999 giai đoạn 2005-2010. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những chính sách quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình nói chung. Luận văn trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các chuyên ngành 4 khoa học pháp lý khác như: Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Lịch sử Nhà nước và pháp luật, tội phạm học, xã hội học, triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học luật hình sự được đăng trên sách báo tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo... Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp... 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Đây là đề tài khoa học đầu tiên trong khoa học luật hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự năm 1999. Điểm mới của luận văn bao gồm: - Hệ thống, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; Đối chiếu, so sánh với các quy định có tính tương đồng trong Bộ luật hình sự của một số nước trên thế giới. - Chỉ ra những tồn tại, hạn chế của quá trình sáng tạo pháp luật và áp dụng pháp luật về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự năm 1999; chỉ ra những nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này. - Đề ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự năm 1999, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong lĩnh vực này, góp phần nâng cao hiệu quả triển khai chính sách pháp luật hình sự nói chung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về lịch sử hình thành và phát triển, khái niệm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và 5 gia đình, góp phần vào quá trình nhận thức khoa học, triển khai tốt chính sách hình sự trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở có cái nhìn tổng quan về lịch sử của vấn đề và so sánh với các tội phạm có điểm tương đồng với Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới. Với nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đề xuất hướng nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói riêng, tội phạm nói chung, củng cố và duy trì pháp chế xã hội chủ nghĩa. 7. Bố cục của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm ba chương với kết cấu như sau: Chương 1. Nhận thức chung về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình. Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự 1999. Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 1.1. Ý nghĩa của việc điều chỉnh hành vi xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình bằng các quy phạm pháp luật hình sự Gia đình là nền tảng của mọi xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và hình thành nên nhân cách của mỗi con người, một gia đình hạnh phúc, êm ấm, hòa thuận sẽ là cơ sở cho sự phát triển toàn diện của mỗi thành viên trong gia đình đó. Gia đình gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội. Trong công cuộc đổi mới đất nước, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế; gia đình vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm trở về của mọi chính sách pháp luật. Do vậy, để chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, phát huy những giá trị tích cực, trước hết cần phải nâng cao tăng cường những giá trị đạo đức và truyền thống của từng gia đình, thiết chế hiệu quả giám sát chặt chẽ giữa các thành viên trong gia đình với nhau, nâng cao ý thức pháp luật của từng thành viên cũng là ý thức của từng công dân trong xã hội, tránh, tiến tới loại trừ mầm mống của tệ nạn xã hội. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực có tri thức, có công nghệ cao là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Phát triển con người, là phát triển từng thành viên trong gia đình trên nền tảng tư tưởng, đạo đức, lối sống tôn trọng và yêu thương lẫn nhau-những yếu tố 7 thuộc tinh hoa của truyền thống dân tộc, của dòng họ, của gia đình những giá trị cơ bản của văn hóa Việt Nam. Hôn nhân là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người đàn bà được gọi là vợ một cách hợp pháp. Hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, thủy chung, gắn bó yêu thương nhau mới là nền tảng vững chắc của gia đình. Tuy nhiên, trong xã hội xưa và nay, những hành vi xâm phạm đến mối quan hệ hôn nhân, quan hệ gia đình vẫn diễn ra. Từ những hành vi cản trở hôn nhân hoặc cưỡng ép kết hôn xâm phạm đến quyền kết hôn, ly hôn của người khác, đến khi hôn nhân đã được xác lập, tuy nhiên do quá trình tha hóa về nhân cách, dẫn đến hành vi ngoại tình xâm phạm đến chế độ một vợ một chồng tiến bộ. Trong xã hội hiện đại, mặc dù độ tuổi kết hôn của nam và nữ đã được quy định rõ ràng cụ thể trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nhưng vì những mục đích cá nhân, hoặc vì kém hiểu biết mà hành vi tổ chức tảo hôn, tảo hôn vẫn tái diễn, ảnh hưởng đến sự phát triển hoàn thiện của giống nòi, bởi lẽ những ông bố, bà mẹ trẻ khi chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý sẽ khó có thể đảm bảo được điều kiện nuôi dạy con trẻ. Đặc biệt hơn nữa, hành vi giao cấu với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh, chị em cùng huyết thống là hành vi vi phạm đạo đức bị xã hội lên án kịch liệt, nó ảnh hưởng xấu đến nhận thức của những thế hệ đi sau, đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của giống nòi. Bên cạnh đó, có những hành vi cũng đáng lên án và cần có một hình thức xử lý nghiêm khắc khi con ngược đãi bố mẹ, cháu ngược đãi ông bà, người có công nuôi dưỡng mình khôn lớn và ngược lại; từ chối hoặc trốn tránh việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng.... Nền tảng duy trì gia đình là sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm đến nhau của từng thành viên, ngoài việc xâm hại đến mối quan hệ tốt đẹp vốn có của gia đình, 8 biểu hiện của nhân cách xấu, nó còn xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, thậm chí là tính mạng của người bị xâm hại. Chế độ hôn nhân và gia đình được bảo vệ bằng các thiết chế xã hội, bằng các biện pháp đạo đức và bằng cả các biện pháp pháp luật. Trước tiên là bằng các thiết chế pháp luật hành chính, tiếp đó khi hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội thì phải có biện pháp nghiêm khắc nhất, đủ sức răn đe và phòng ngừa tội phạm chung. Trên cơ sở đó, chế độ hôn nhân và gia đình được nhà nước ta bảo vệ bằng pháp luật hình sự, cụ thể hóa bằng các điều luật trong Bộ luật hình sự năm 1985, năm 1999. Ví như vụ án cha đẻ Ngân Văn Túp (54 tuổi, trú tại xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn, Thanh Hoá), vừa bị tuyên phạt 1 năm tù về tội loạn luân. Nạn nhân chính là con gái thứ hai của người đàn ông này với vợ. Hành vi mất nhân tính của Túp chỉ bị đưa ra ánh sáng khi dân bản Khạn làm đơn tố cáo tới cơ quan chức năng. Theo cáo trạng của viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Sơn, suốt từ cuối năm 2004 đến khoảng tháng 5/2011, Ngân Văn Túp (SN 1958, trú tại bản Khạn, xã Trung Thượng, huyện biên giới Quan Sơn, tỉnh Thanh Hoá) đã thường xuyên ngủ với con gái ruột của mình là chị Ngân T. M. (SN 1983, cùng trú tại bản Khạn, xã Trung Thượng, là con gái thứ 2 của ông Túp với vợ) như vợ chồng. Phát hiện hành vi bất chính của Túp, dân bản đã nhiều lần khuyên can nhưng ông này không nghe, vẫn tiếp tục ngựa quen đường cũ. Nhiều năm trôi qua, đến ngày 26/8/2011, Ban quản lý bản Khạn đã quyết định làm đơn tố giác hành vi đồi bại của Ngân Văn Túp đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Quan Sơn. Ngày 15/3/2012 Tòa án nhân dân huyện quan Sơn đã tuyên phạt Ngân Văn Túp 1 năm tù giam về tội "Loạn luân". Cũng theo kết quả điều tra, Ngân Văn Túp là người hoàn toàn bình thường, không có biểu hiện bệnh lý, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Đối với Ngân T. M., tuy 9 đồng ý quan hệ tình dục với cha đẻ của mình, nhưng xét về ý thức chủ quan, các lần quan hệ tình dục, M. là người bị động, do ông Túp chủ động "đòi hỏi". Vì vậy, Ngân T.M. được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Chỉ qua trường hợp trên đây, có thể thấy được các hành vi xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình mặc dù có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn, nhưng đối với truyền thống, đạo đức của dân tộc là nghiêm trọng. Có thể thấy sức ảnh hưởng ghê gớm của những hành vi như thế đến đời sống xã hội, ý thức của những người trong cuộc và cả những người xung quanh. Ảnh hưởng xấu đến ý thức của một bộ phận không nhỏ trong xã hội, dường như là vô hình nhưng lại len lỏi đến từng ngóc ngách tâm hồn của mỗi một con người. Nếu không khéo léo điều chỉnh thì tâm hồn, nhân cách bị tha hóa sẽ khiến cho con người đó suy nghĩ và hành động không theo lối sống tốt đẹp, mà lệch lạc, thậm chí còn trở thành tội phạm trong tương lai. Do đó, việc điều chỉnh các hành vi xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình bằng các quy phạm pháp luật hình sự thật sự có ý nghĩa trong việc phòng ngừa và chống loại tội phạm trong lĩnh vực này. Một lần nữa cần khẳng định, giá trị của gia đình, của hôn nhân hạnh phúc là giá trị bền vững mà bất cứ một xã hội phát triển, một xã hội văn minh cần hướng tới và bảo vệ. Tương ứng với từng giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội, các hành vi xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình đã được điều chỉnh ở mức độ khác nhau và có không ít các quy phạm pháp luật hình sự được áp dụng đối với các hành vi này như trong Bộ luật Hồng Đức hay Bộ luật Gia Long – những bộ luật điển hình cho thời kỳ phong kiến mà giá trị của nó vẫn còn mang tính thời đại cho đến ngày nay. Không chỉ ở Việt Nam chúng ta, mà pháp luật hình sự các nước trên thế giới cũng dành sự quan tâm đến việc bảo vệ quan hệ hôn nhân và gia đình khỏi sự xâm hại của tội phạm. Do đó, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển cũng như là kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế 10 giới trong các phần dưới đây là cần thiết để thấy được vị trí nền tảng của gia đình của hôn nhân trong bất cứ một xã hội nào. 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy pháp pháp luật hình sự về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình 1.2.1. Từ thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng được chính quyền phong kiến thời kỳ này quan tâm. Do ảnh hưởng của Nho giáo mà pháp luật của Nhà nước quân chủ Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống pháp luật phong kiến Trung Quốc, ở một chừng mực nhất đình thì không phải là mô phỏng hoàn toàn. Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, lập nên nhà Lý. Việc soạn thảo và ban bố pháp luật được chú trọng. Cụ thể, năm 1042 vua Lý Thái Tông đã ban hành bộ Hình thư có 3 tập với tư cách là bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam. Nhưng đáng tiếc đến nay bộ luật đó không còn, nên chúng ta không có điều kiện để tìm hiểu về nội dung của các điều luật trong đó. Bởi theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, trong thời kỳ nhà Minh đô hộ nước ta (1407-1427), họ đã thu nhiều sách quý của nước ta và trong đó có Bộ hình thư đã được đem về Kinh Lăng, Trung Quốc. Tuy, qua nghiên cứu một số chiếu do vua Lý ban bố mà đến nay sử sách còn lưu giữ, có thể biết đến một số quy phạm về hôn nhân-gia đình như [35, tr26]: Chiếu năm 1042 quy định, kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm với vợ người ta thì bị chủ nhà đánh chết mà không bị tội. Chiếu năm 1128, cấm gia nô và lính của quan lấy con gái của dân. Chiếu năm 1130, buộc con gái của các quan phải ưu tiên đưa vào tiến cung, chưng nào không trúng tuyển mới được phép lấy chồng... 11 Theo các tác giả Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh, dưới thời nhà Lý cũng đã có quy định về các tội thập ác [33, tr5]. Trong đó, đương nhiên là có các quy định về tội phạm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình như: Ác nghịch: đánh giết ông bà, cha mẹ; Bất hiếu: chửi mắng ông bà, cha mẹ; Bất mục: mưu giết người hay bán người thân; Nổi loạn: thông dâm với người trong họ. Mặc dù trong một thời gian dài trước đó đất nước ta bị Trung Hoa phong kiến xâm lược, nhưng pháp luật hình sự Việt Nam với những giá trị của nó vẫn giữ được những bản sắc riêng có của mình, mà những quy định mang tính nhân văn vẫn còn được ghi nhận trong Bộ luật sau này của nước ta. Năm 1428, sau khi đánh tan quân phong kiến xâm lược nhà Minh, giành lại độc lập cho Tổ quốc, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Lê Thái Tổ. Nhà Lê trị vì được hơn ba thế kỷ. Trải qua một thời gian dài nhưng hầu như các luật lệ quan trọng chủ yếu được ban hành vào thời cực thịnh của triều Lê khoảng 70 năm đầu từ năm 1428-1497. Đến khi Lê Thánh Tông lên ngôi (1460-1497), hoạt động lập pháp nói chung, lập pháp hình sự nói riêng được phát triển và hoàn thiện nhất trong toàn bộ lịch sử tồn tạo của chế độ phong kiên Việt Nam với sự ra đời của Quốc triều hình luật (còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) vào năm 1438 và Hồng Đức thiện chính thư (văn bản này chứa đựng một số quy phạm pháp luật hình sự) ban hành dưới thời nào đến nay vẫn chưa rõ. So với Bộ luật nhà Đường, Bộ luật Hồng Đức chứa đựng nhiều điều hơn và một số nội dung mà Bộ luật nhà Đường không có. Bộ luật Hồng Đức được chia làm 6 quyển, 13 chương với 722 điều. Quan điểm pháp trị của Nho giáo được thể hiện qua hệ thống ngũ hình cổ điển mà Bộ luật quy định, với các hình phạt dã man (xuy, trượng, đồ, lưu và tử). Hình phạt tử hình được áp dụng cho các tội thuộc thập ác, trong đó các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình chiếm phần không nhỏ. Song song với 12 đó, Bộ luật còn chứa đựng quan điểm nhân trị, một đặc điểm chung của các hệ thống pháp luật cổ phương Đông. Đối với một số hành vi xâm phạm đến mối quan hệ gia đình mà Bộ luật quy định là tội phạm, ngày nay chúng ta chỉ coi là vi phạm đạo đức như: “Tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường; nghe tang ông bà, cha mẹ mà giấu, không cử ai (tổ chức tang lễ); nói dối là ông bà cha mẹ chết” bị khép vào tội Bất hiếu. “Gian dâm với người trong họ từ hàng tiểu công trở lên, cùng nàng hầu của ông cha” bị xem là phạm tội Nội loạn [25, tr37]. Riêng các quy định tương ứng với các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình, trong Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi Quốc triều hình luật) ngoài việc quy định trong nhóm các tội thập ác tại Điều 2, thì còn có hẳn một chương. Chương Hộ hôn, với 58 điều, có quy định cụ thể về tội phạm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, còn được quy định rải rác trong chương Thông gian với tội nội loạn – tội loạn luân trong Bộ luật hình sự hiện nay. Tội ép gả người vợ thủ tiết (tương ứng với tội cưỡng ép kết hôn trong Bộ luật hình sự hiện hành), Điều 320 Quốc triều hình luật quy định: “Tang chồng đã chết mà người vợ muốn thủ tiết, nếu ai không phải là ông, bà, cha, mẹ mà ép gả cho người khác thì bị xử biếm ba tư...”. Tội ngăn cản người khác lấy vợ mà mình đã bỏ lửng 5 tháng (tương ứng với tội cản trở hôn nhân tự nguyện trong Bộ luật hình sự hiện hành), Điều 308 Quốc triều hình luật quy định: “Phàm người chông đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại thì mất vợ... Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy người vợ cũ thì phải tội biếm” Năm 1802 Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Gia Long, sáng lập ra triều Nguyễn, đặt kinh đô ở Phú Xuân (Huế ngày nay) và đây chính là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan