Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự việt nam ở kh...

Tài liệu Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự việt nam ở khía cạnh pháp luật và xã hội

.PDF
74
304
119

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HIẾU NGHĨA CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Ở KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, Năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦNN HIÉU NGHĨA CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Ở KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA HÀ NỘI – Năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1 NHẬN THỨC VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI .......................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ..6 1.2. Cơ sở của việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ............... 10 1.3. Ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa xã hội của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .............................................................................................................................. 16 Chương 2: QUY ĐỊNH VÀ ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI .... 21 2.1. Quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng ................................................................................................. 21 2.2. Tác động của việc quy định và áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ khía cạnh xã hội .............................................................................................. 52 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ KHÍA CẠNH XÃ HỘI ........................................................................................... 58 3.1. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ khía cạnh pháp luật .............................................................................................. 58 3.2. Nâng cao nhận thức của cơ quan áp dụng pháp luật về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .................................................................................................. 65 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường hiện nay, sự gia nhập và tiếp nhận một số hình thức văn hóa xã hội của các nước ngoài thì sự gia tăng và biến đổi của tội phạm cũng ngày càng tăng. Đặc biệt phát sinh và hình thành thêm nhiều tội phạm mới, đa dạng, phức tạp, tăng tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Khoản 1 Điều 48. Đồng thời quy định tại khoản 2 là: “Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng”. Đến Bộ luật hình sự 2015, cơ bản các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được giữ nguyên, tuy nhiên đối với một số tình tiết đã được quy định rõ và cụ thể hơn, phù hợp hơn trong quá trình áp dụng để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 vừa chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2018 quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 52 có một số tình tiết gây hiểu sai trong cách áp dụng, đòi hỏi cần phải có hướng dẫn áp dụng thống nhất. Quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có những ý nghĩa nhất định về mặt pháp lý và xã hội. Đó là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc áp dụng pháp luật, đồng thời là một trong những dấu hiệu thể hiện sự công bằng khi xử lý tội phạm, thể hiện tính răn đe, giáo dục cao đối với những cá nhân, pháp nhân phạm tội có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thể hiện tính phòng ngừa tội phạm. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có vai trò rất quan trọng, là một trong những căn cứ để Tòa án xem xét, quyết định việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Do đó, nếu cách hiểu, cách áp dụng không thống nhất thì sẽ dẫn đến trường hợp quyết định hình phạt không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm 5 cho xã hội của hành vi. Việc áp dụng đúng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong thực tiễn sẽ góp phần không nhỏ trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo được mục đích trừng trị, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam ở khía cạnh pháp luật và xã hội” làm luận văn thạc sĩ của mình. Nhằm làm rõ quy định các tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, những khó khăn, vướng mắc trong áp dụng. Và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các tình tiết này trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, việc nghiên cứu những quy định của Bộ luật hình sự nói chung, quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói riêng đã được nhiều học giả nghiên cứu ở nhiều mặt và nhiều cấp độ khác nhau. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự liên quan đến nhiều chế định khác nhau của pháp luật hình sự cũng được nhắc đến hoặc đề cấp đến trong nhiều nghiên cứu khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ luật học của Tiến sĩ Dương Tuyết Miên (2003) về Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam; Lê Cảm (2002), Một số vấn đề lý luận cơ bản. Vai trò của các tình tiết tăng nặng & giảm nhẹ thuộc về nhân thân người phạm tội đối với việc cá thể hoá TNHS và hình phạt); Luận văn thạc sĩ “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình” của tác giả Lê Thị Hảo (2017); Luận văn thạc sĩ “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thị Thùy Trang (2015); Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Đức Hồng Hà (1991) về Áp dụng tình tiết định tội, tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng - giảm nhẹ trong luật hình sự Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Trần Mạnh Toàn (2011) về Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội; Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Bùi Văn Lam (2002) về Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Phan Hồng Thúy (2010) về Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - một số 6 vấn đề lý luận và thực tiễn; Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương về Phạm tội vì động cơ đê hèn với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam; Thạc sĩ Lê Văn Luật (2007) về Bàn về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội đối với trẻ em”. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (2018), Trường Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân. Những công trình này nghiên cứu chủ yếu tiếp cận dưới góc độ tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo nghĩa hẹp, chủ yếu theo khía cạnh pháp luật, chứ chưa có nghiên cứu nào về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cả về khía cạnh pháp luật và xã hội. Tuy nhiên, các bài viết này thực sự là những tài liệu có giá trị tham khảo lớn đối với luận văn tốt nghiệp mà bản thân đang nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp lý về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự dựa trên hai khía cạnh, đó là khía cạnh pháp luật và khía cạnh xã hội. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những đề xuất hoàn thiện về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên hai khía cạnh pháp luật và khía cạnh xã hội, nhất là các quy định chưa rõ ràng, các tình tiết liên quan cần được bổ sung hoặc việc hướng dẫn áp dụng chưa cụ thể, rõ ràng và thuyết phục. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Trình bày nhận thức đầy đủ và sâu sắc về những vấn đề lý luận cơ bản của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trên khía cạnh pháp luật và xã hội. - Phân tích và đánh giá nội dung các quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015 ở khía cạnh pháp luật và xã hội. Chỉ ra những vướng mắc, bất cập của quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các quy định chưa rõ ràng, các tình tiết liên quan cần được bổ sung. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ khía cạnh pháp luật và khía cạnh xã hội. 7 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, trong đó có sự vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn bản pháp luật Việt Nam về tội phạm và hình phạt, kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, logic… Để lý giải các vấn đề lý luận, đánh giá các quy định của pháp luật cũng như đánh giá các vấn đề thực tiễn có liên quan, giúp cho việc nghiên cứu được nhìn nhận dưới góc nhìn đa chiều và hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về các tình tiết tăng nặng TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam. Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự dưới khía cạnh pháp luật và xã hội. Chỉ nghiên cứu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với chủ thể là cá nhân, không nghiên cứu chủ thể là pháp nhân. Phạm vi nghiên cứu trong những năm 2013 đến năm 2019. 6. Ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giúp cho các nhà nghiên cứu có góc nhìn toàn diện hơn, đầy đủ hơn về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và việc áp dụng quy định về các tình tiết này ở khía cạnh pháp luật và xã hội. Luận văn cũng bổ sung nguồn tài liệu tham khảo, giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng quy định này. Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật có cách tiếp cận đầy đủ về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định trong pháp Luật hình sự. Từ đó, có thể hoàn thiện pháp luật, đưa ra và thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong giải quyết các vụ án hình sự. Ngoài ra, còn giúp các cán bộ làm công tác thực tiễn nhất là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân hiểu thấu đáo và vận dụng 8 chính xác các quy định của pháp luật hiện hành về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự 2015. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn có bố cục gồm 3 Chương: Chương 1: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: khía cạnh pháp luật. Chương 2: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: khía cạnh xã hội. Chương 3: Các giải pháp tăng cường khía cạnh pháp luật và xã hội của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. 9 Chương 1 CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ: KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT. 1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 thì khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ được Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với cá nhân, pháp nhân phạm tội. Tội phạm là một hiện tượng xã hội, là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm thực hiện. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà cá nhân, pháp nhân thực hiện để xem xét quyết định đó có phải là tội phạm hay không, nếu hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Nếu tính chất và mức độ xâm phạm như nhau thì vẫn có những yếu tố khác nhau như: Nhân thân, không gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh lúc phạm tội, v.v.. Để làm căn cứ xem xét. Chính vì vậy, Bộ luật hình sự không quy định mức hình phạt cụ thể cho từng hành vi phạm tội mà chỉ quy định khung hình phạt cho một nhóm hành vi giống nhau cơ bản về chất nhưng khác nhau về lượng. Sự khác nhau về lượng phụ thuộc vào nhiều yếu tố và được nhà làm luật quy định thành hai nhóm tình tiết có nội dung ý nghĩa trái ngược nhau [22, tr.23]. Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng về cơ bản, có thể khái quát như sau: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết tăng nặng chung và là một trong những căn cứ để Tòa án 10 quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này. Từ khái niệm trên có thể rút ra được các đặc điểm của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bao gồm: Thứ nhất, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phải là các tình tiết được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự. Ngoài Bộ luật hình sự, không có văn bản pháp lý nào được quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà chỉ có văn bản hướng dẫn việc áp dụng và Tòa án cũng không được quyền quyết định một tình tiết ngoài các tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Thứ hai, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án xem xét quyết định hình phạt đối với cá nhân, pháp nhân phạm tội nếu trong vụ án xuất hiện tình tiết này. Còn nếu tình tiết tăng nặng xuất hiện nhưng không liên quan đến vụ án thì Tòa án sẽ không xem xét. Thứ ba, trong một vụ án cụ thể và đối với người phạm tội cụ thể thì tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm theo hướng nghiêm trọng hơn. Thứ tư, khi tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được luật quy định là tình tiết định khung làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và là căn cứ cho phép Tòa án tăng mức hình phạt đối với người phạm tội chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn thì Tòa án không được sử dụng tình tiết đó với tính chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung khi quyết định hình phạt. Vì như vậy là trái với mục đích và nguyên tắc của Bộ luật hình sự. Thứ năm, khi tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được luật quy định là tình tiết định tội thì nghĩa là tình tiết tăng nặng này đã làm thay đổi tính chất nguy hiểm của tội phạm. Trong trường hợp này, Tòa án không được sử dụng tình tiết đó với tính chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung khi quyết định hình phạt. Thứ sáu, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có tính chất ổn định tương đối về cả số lượng và chất lượng. Tùy theo tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của 11 từng thời kì mà các quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được sửa đổi, bổ sung thêm hoặc được bỏ đi sao cho phù hợp. Căn cứ vào tính chất của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có thể phân loại thành: Tình tiết tăng nặng thuộc về mặt khách quan của tội phạm, tình tiết tăng nặng thuộc mặt về chủ quan của tội phạm, tình tiết tăng nặng thuộc về khách thể của tội phạm, tình tiết tăng nặng thuộc về chủ thể của tội phạm và tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người phạm tội. - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về khách thể của tội phạm. Chẳng hạn: Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác và xâm phạm tài sản của nhà nước. Đối tượng bị tác động trong khác thể của tội phạm là một trong các căn cứ tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong phạm vi một khung hình phạt. Khi người phạm tội có một trong những tình tiết này thì mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của họ lớn hơn, mức hình phạt của họ sẽ cao hơn so với trường hợp bình thường. - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về chủ thể của tội phạm. Một số cấu thành tội phạm cụ thể quy định rõ về chủ thể của tội phạm ngoài hai điều kiện về tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự còn phải thoả mãn thêm các dấu hiệu như: Có chức vụ, giới tính, nghề nghiệp, quan hệ gia đình… Những chủ thể này gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm. Dấu hiệu chủ thể đặc biệt có thể quy định là dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung hoặc dấu hiệu tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chủ thể đặc biệt với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với người có chức vụ, quyền hạn. - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về mặt khách quan của tội phạm. Khách quan của tội phạm bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian và hoàn cảnh phạm tội. Những dấu hiệu này đều có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở nhiều mức độ khác nhau. Trong các dấu hiệu trên thì dấu hiệu 12 hành vi nguy hiểm được quy định trong tất cả các cấu thành tội phạm với ý nghĩa là dấu hiệu định tội. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu có tính chất bắt buộc trong tất cả các cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng trong nhiều trường hợp việc xác định hậu quả lại đóng vai trò quyết định. - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về mặt chủ quan của tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm, còn động cơ, mục đích phạm tội không phải là những dấu hiệu trong tất cả các cấu thành tội phạm cụ thể. Tình tiết thể hiện mặt chủ quan của tội phạm như “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” thể hiện tính nguy hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội bình thường hoặc phạm tội do lỗi vô ý. Hoặc trong các động cơ phạm tội, có những động cơ thể hiện sự ích kỷ, xấu xa, bội bạc, phản trắc của người phạm tội được quy định trong pháp Luật hình sự là “động cơ đê hèn” và là tình tiết tăng nặng mức trách nhiệm hình sự trong phạm vi một khung hình phạt nếu tình tiết này không được quy định là tình tiết định tội hay tình tiết định khung của tội phạm đó [33]. - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội. Một số đặc điểm nhân thân người phạm tội còn được xác định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như phạm tội có tính chất côn đồ, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm…. Các tình tiết này thường được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự định khung và tăng nặng trách nhiệm hình sự chung, có ý nghĩa và đóng vai trò quan trọng trong việc xem xét quyết định hình phạt. Tóm lại, dù phân loại các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo tiêu chí nào đi nữa thì vai trò và ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng này cũng chính là làm tăng mức độ nguy hiểm, hoặc tăng tính chất nguy hiểm của tội phạm. 1.2. Cơ sở pháp lý của việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được xây dựng dựa trên các cơ sở pháp lý sau: 13 Thứ nhất, căn cứ vào Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hiện nay là hiến pháp năm 2013. Đây là đạo luật gốc cao nhất, cơ bản nhất của Việt Nam, quy định những nguyên tắc, nội dung tổng quát nhất làm cơ sở cho việc xây dựng các Bộ luật, đạo Luật trong mọi lĩnh vực như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật đất đai… Bộ luật hình sự 2015 nói chung, quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói riêng cũng được các nhà làm luật nghiên cứu xây dựng dựa trên nội dung của Hiến pháp, không được trái với nguyên tắc, nội dung của Hiến pháp. Thứ hai, căn cứ một số Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Pháp luật Việt Nam nói chung, Bộ luật hình sự Việt Nam nói riêng, khi được nghiên cứu xây dựng đều phải cân nhắc, xem xét đến các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia là thành viên. Đối với trường hợp người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của Điều ước quốc tế; Trường hợp Điều ước quốc tế đó không quy định thì được giải quyết bằng con đường ngoại giao, do đó. Thứ ba, quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Bộ luật hình sự 2015 còn được xây dựng mang tính kế thừa từ các Văn bản pháp luật được ban hành trước đó như “Pháp lệnh trừng trị các tội phản Cách Mạng” (ngày 30/10/1967), sau đó đến “Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN”, “Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân” (ngày 21/10/1970); Bản tổng kết thực tiễn vận dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ kèm theo Công văn số 38/NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao (năm 1976); Bộ luật hình sự năm 1985; Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi), bổ sung năm 2009 và nay là Bộ luật hình sự 2015 [30, tr.12-14]. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã kế thừa, hoàn thiện, bổ sung những điểm mới về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phù hợp với yêu cầu của thực tiễn để đảm 14 bảo việc áp dụng mang tính trừng phạt, răn đe, đồng thời mang tính giáo dục, cảm hóa đối với người phạm tội. Tại Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định 15 (mười lăm) tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 52, và các Điều kiện khi áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đối với các tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự quy định, như: Có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp… Tình tiết có thể là hành vi, chủ thể, động cơ…; Nhưng có tình tiết tăng nặng là một “tổ hợp” các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Ví dụ: Điểm n khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: Dùng thủ đoạn (thuộc chủ quan), phương tiện (thuộc khách quan), có khả năng gây nguy hại cho nhiều người (thuộc khách thể bảo vệ của Bộ luật hình sự năm 2015).Trong số các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có tình tiết được quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt trong các Điều luật. Bộ luật hình sự năm 2015 có 15 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì đến 9/15 điểm (chín trên mười lăm) quy định trong định tội, định khung hình phạt. So với Bộ luật hình sự năm 1999 là 12/14 (mười hai trên mười bốn) tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự là dấu hiệu định tội, định khung trong các tội danh cụ thể. Như vậy, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã được quy định chặt chẽ và cụ thể hơn, ít các khoản mang tính “tổ hợp” và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ít lặp lại trong các Điều, khoản định tội hoặc định khung hình phạt so với Bộ luật hình sự năm 1999 [27]. Tại Điều 52, Bộ luật hình sự 2015. Đối với cá nhân phạm tội thì chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội có tổ chức; Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; Phạm tội có tính chất côn đồ; Phạm tội vì động cơ đê hèn; Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên; Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt 15 vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội; Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.Và các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Đặc biệt, lần đầu tiên Bộ luật hình sự 2015 quy định chủ thể của tội phạm ngoài cá nhân còn có pháp nhân phạm tội, và dành hẳn một chương để quy định truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý hình sự đối với pháp nhân phạm tội. Trong đó có quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân tại Điều 85 như sau: Đối với pháp nhân thương mại thì chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách tnhiệm hình sự: Cấu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội; Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng; Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm. Và cũng như đối với cá nhân phạm tội, các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt đối với pháp nhân thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Như vậy, cơ sở pháp lý để xây dựng quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự năm 2015 trước hết chính là Hiến pháp 2013 quy định về những nguyên tắc chung, thẩm quyền của Quốc Hội, cơ quan lập hiến, lập pháp. Trên cơ sở Hiến pháp, một số Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và kế thừa các quy định pháp luật về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong các văn bản pháp lý được ban hành trước đó, Bộ luật hình sự 2015 cùng với quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được xây dựng, ban hành. Quy định các tình tiết tăng nặng 16 trách nhiệm hình sự không được trái Hiến pháp, không được trái với những nguyên tắc cơ bản bản Bộ luật hình sự. 1.3. Ý nghĩa pháp lý của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự có ý nghĩa nhất định về mặt pháp lý. Đó sẽ là căn cứ pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền xác định đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trong trường hợp có thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Và căn cứ vào quy định đối với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tòa án có thể quyết định đúng, chính xác loại, mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm tội phạm và người phạm tội. Việc Tòa án xem xét, cân nhắc và áp dụng chính xác quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong quá trình giải quyết vụ án chính là biểu hiện sự tôn trọng của các cơ quan tư pháp hình sự đối với các nguyên tắc tiến bộ của Luật hình sự Việt Nam như nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng trước Luật hình sự, nguyên tắc công minh… Trong thực tiễn áp dụng pháp Luật hình sự. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có mối quan hệ mật thiết với các quy định của Bộ luật hình sự trong việc xác định tội phạm, định tội danh và định khung hình phạt. Do đó, việc quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong các Điều luật của Bộ luật hình sự là cần thiết và hợp lý. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền cần phải xác định rõ tội danh, khung hình phạt và các tình tiết tăng nặng (và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự). Các loại tình tiết này có vai trò bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong quá trình định tội cũng như lượng hình đối với người phạm tội. Vì vậy, khi áp dụng Tòa án cần phân biệt được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào là tình tiết định tội, là tình tiết định khung hay tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung, mối liên hệ chặt chẽ hữu cơ giữa chúng để có thể đưa ra quyết định hình phạt chính xác, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đây cũng là một trong những ý nghĩa pháp lý quan trọng của quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà các nhà làm luật xây dựng trong Bộ luật hình sự. 17 Đối với một vụ án hình sự cụ thể, chỉ sau khi xác định được tình tiết định tội mới xác định được tình tiết định khung và tình tiết định khung có tác dụng là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội một cách cụ thể, rõ ràng hơn. Khi đã xác định được tội danh và khung hình phạt cụ thể thì mới có cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung (và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự), đây là bước cụ thể hóa tiếp theo để đánh giá mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, giúp Tòa án đưa ra được một biện pháp xử lý đúng. 1.4. Quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với cá nhân phạm tội tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015. Muốn xác định đúng và chính xác các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi chứng minh tội phạm và để có căn cứ quyết định hình phạt thì phải nắm rõ và hiểu được đặc điểm, tính chất của từng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tổ chức Phạm tội có tổ chức là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm, các đối tượng này có sự cấu kết chặt chẽ với. Theo Nghị quyết 02HĐTP/NQ ngày 16/11/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, sự câu kết này có thể thể hiện dưới các dạng sau đây: a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như: Đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… Có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội. Ví dụ: Sau khi đã hết hạn tù, một số tên chuyên trộm cắp đã tập hợp nhau lại và thống nhất cùng nhau tiếp tục hoạt động phạm tội. b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. Ví dụ: Một số nhân viên nhà nước đã thông đồng với nhau tham ô nhiều lần; Một số tên chuyên cùng nhau đi trộm cắp; Một số tên hoạt động đầu cơ, buôn lậu có tổ chức đường dây để nắm nguồn hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả. 18 c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Ví dụ: Trong các trường hợp trộm cắp, cướp tài sản của công dân mà có phân công điều tra trước về nơi ở, quy luật sinh hoạt của gia đình chủ nhà, phân công chuẩn bị phương tiện và hoạt động của mỗi người đồng phạm; Tham ô mà có bàn bạc trước về kế hoạch sửa chữa chứng từ sổ sách, hủy chứng từ, tài liệu hoặc làm giả giấy tờ; Giết người mà có bàn bạc hoặc phân công điều tra sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm. Trong trường hợp phạm tội có tổ chức, mỗi một đối tượng phạm tội đều đóng một vai trò nhất định, có thể là người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức, và những người này được gọi là đồng phạm. Tuy nhiên với một số trường hợp, phạm tội có đồng phạm nhưng khi xem xét thì các đồng phạm này không phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng phạm tội có tổ chức vì thuộc trường hợp đồng phạm mang tính chất giản đơn. Khi đã xác định được trường hợp cụ thể đó là phạm tội có tổ chức thì phải áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với tất cả những người cùng thực hiện tội phạm (người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức). Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào quy mô tổ chức, vai trò của từng người trong việc tham gia vụ án. Người tổ chức được xác định là kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Thường là người khởi xướng việc tội phạm; Vạch kế hoạch thực hiện, kế hoạch che giấu tội phạm; Rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; Phân công trách nhiệm cho những đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; Điều khiển, chỉ huy hành động của những đồng phạm khác; Đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm [26]. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp có hành vi thuộc khách quan của cấu thành tội phạm như: Trực tiếp cầm dao chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận hối lộ. Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiện tội 19 phạm. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện, hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo quy định khác của Bộ luật hình sự. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác phụ thuộc rất lớn vào hành vi của người thực hành. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người xúi giục chỉ chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tổ chức khi hành vi xúi giục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi giục chưa có ý định tội phạm nhưng vì có người xúi giục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm. Tuy nhiên, không phải trường hợp thực hiện hành vi kích động, dụ dỗ nào cũng là người xúi giục. Nếu việc xúi giục không liên quan trực tiếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì đó không phải là người xúi giục trong vụ án có đồng phạm có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tổ chức. Ví dụ: Như A đi nhậu ở nhà bạn về thấy có hai nhóm thanh niên đang đuổi đánh nhau, mặc dù không biết họ là ai nhưng thấy có đánh nhau, A liền hô hào “Đánh chết chúng nó đi”. Hậu quả là hai nhóm thanh niên đánh nhau dẫn đến một người trong đó bị thương tích nặng phải đi cấp cứu và tử vong. Ở đây, hành vi của A hô hào “Đánh chết chúng nó đi” nhưng A không biết họ là ai, không nói là ai đánh chết ai. Việc hô hào của A không phải là xúi giục hành vi phạm tội của nhóm thanh niên, vì hai nhóm thanh niên đã đuổi đánh nhau từ trước, dù A có hô hào hay không thì hai nhóm đó vẫn cứ đánh nhau, không từ bỏ ý định phạm tội, do đó A không phải là người xúi giục mặc dù nhìn qua thì nghĩ rằng A xúi giục nhóm thanh niên phạm tội. Trường hợp thực hiện hành vi xúi giục người dưới 18 tuổi, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi giục được coi là hành vi thực hành thông qua hành vi của người bị xúi giục. Nếu xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội thì người xúi giục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội". 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan