Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất ...

Tài liệu Các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn tỉnh Thái Bình (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
87
168
127

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ HƯƠNG LAN CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG ĐỊNH KHUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI BÌNH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐẶNG QUANG PHƯƠNG HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, Luận văn “Các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu được sử dụng trong luận văn đều được dẫn từ nguồn có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của riêng tôi. Học viên LÊ THỊ HƯƠNG LAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng HĐXX Hội đồng xét xử QĐHP Quyết định hình phạt ĐTD Định tội danh CTTP Cấu thành tội phạm DANH MỤC BẢNG BIỂU, Bảng 2.1. Mức độ tổng quan tình hình tội phạm và tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thái Bình (giai đoạn 2013-2017) ...................................................................................................... 50 Bảng 2.2. Bảng số liệu các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt phân theo tội danh từ năm 2013 đến năm 2017 ....................................................... 53 Bảng 2.3. Bảng tỷ lệ các tội trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt qua các năm (từ năm 2013 đến năm 2017) ............................................. 54 Bảng 2.4. Số lượng các bị cáo bị áp dụng các tình tiết tăng nặng định khung các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thái Bình56 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Mối tương quan giữa trong việc giải quyết, xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt (giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017) ..............................................51 Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ các bị cáo phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt so với tổng bị cáo (giai đoạn 2013 đến 2017) ......................................... 52 Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ phần trăm các vụ án trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử (từ năm 2013 đến năm 2017)thể hiện qua biểu đồ sau:........................................................................ 55 Biểu đồ 2.4. Biểu đồ mối tương quan số bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt .......... 56 Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ các bị cáo Tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong 5 năm từ 2013 đến 2017 ........................................................... 57 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG ĐỊNH KHUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .......................................................................... 7 1.1. Khái niệm và cấu thành cơ bản của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ........................................................................................................... 7 1.2. Khái niệm và các đặc điểm của các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ............................................ 14 1.3. Phân loại các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt .............................................................................. 18 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG ĐỊNH KHUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH THÁI BÌNH ..................................................................... 24 2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt..................... 24 2.2. Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tại tỉnh Thái Bình .................................. 49 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG ĐỊNH KHUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ................ 62 3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ...................................... 62 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng, thống nhất các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ............ 65 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 79 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tình hình kinh tế xã hội nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, kéo theo sự thay đổi về mọi mặt trong đời sống xã hội, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế, từ đó tạo ra vị thế ổn định và phát triển đi lên. Nhu cầu càng lớn thì sự hấp dẫn của chủ thể đối với lợi ích càng lớn, do đó, động cơ tư tưởng thúc đẩy hành động của con người càng mạnh mẽ. Tất cả các lợi ích sẽ thúc đẩy và quyết định động cơ hành động của con người. Bên cạnh những mặt tích cực, năng động do nền kinh tế thị trường mang lại thì mặt trái của cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội như: sự tha hoá trong lối sống, tiêu cực, tệ nạn xã hội và đặc biệt là tội phạm có điều kiện phát sinh, tồn tại. Trong đó, có các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, đây là những tội xâm phạm sở hữu có diễn biến phức tạp, xảy ra thường xuyên và ngày càng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Từ chủ thể thực hiện tội phạm đến các đối tượng bị xâm hại đều rất đa dạng, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị rất lớn, có những vụ lên đến hàng chục tỷ đồng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh trật tự của đất nước. Trong đó có tỉnh Thái Bình. Thái Bình là tỉnh ven biển thuộc Đồng bằng sông Hồng, cách Thủ đô Hà nội 110 km, cách Hải Phòng 70 Km, trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Với dân số khoảng trên 1700 ngàn người, mật độ dân số 1.138 người/km². Chủ yếu người dân lao động bằng nghề gieo trồng lúa nước nên tỷ lệ thành phần dân số chênh lệch cao giữa nông thôn và thành thị cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại tỉnh Thái Bình tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu xảy ra khá phổ biến, diễn biến khá phức tạp, đã góp phần gây hậu quả to lớn cho xã hội. Bên cạnh đó, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử những tội phạm này còn nhiều vướng mắc trong việc định tội danh, quyết định hình phạt và xác định tình tiết tăng nặng định khung trong vụ án... nên hiệu quả áp dụng các quy định pháp 1 luật trong xử lý tội phạm xâm phạm sở hữu chưa được đáp ứng theo yêu cầu thực tiễn. Trước tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt diễn biến ngày càng phức tạp, tác động tiêu cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... cũng như trước sự đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, gây nhiều khó khăn đến công tác điều tra, truy tố, xét xử. Việc xác định và áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết tăng nặng định khung ngày càng khó khăn yêu cầu đòi hỏi trình độ nghiệp vụ và kiến thức pháp luật của Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử nhằm giải quyết các vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, với diễn biến phức tạp của loại tội phạm này, các cơ quan tiến hành tố tụng của tỉnh Thái Bình đã nỗ lực nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định như: chưa kịp thời, chưa toàn diện và từ đó mới chỉ đáp ứng phần nào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc nghiên cứu tình tiết tăng nặng định khung trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản dưới một góc nhìn thực tiễn tại địa phương không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong thực tiễn áp dụng của công tác định tội danh và quyết định hình phạt, hiệu quả phòng chống tội phạm nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế định này trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tình chất chiếm đoạt đã được đề cập trong một số công trình khoa học nghiên cứu về luật hình sự như tài liệu “Lý luận chung về định tội danh” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội xuất bản năm 2013; “Định tội danh, quyết định hình phạt” của TS Dương Tuyết Miên do Nhà xuất bản Lao động Hà Nội xuất bản năm 2007. Vấn đề này còn được nghiên cứu trong các tập bình luận khoa học về luật hình sự như 2 “Bình luận khoa học bộ luật hình sự, phần các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Đinh Văn Quế do Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2003; các công trình nghiên cứu như luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phạm Thị Kiều Hạnh năm 2017; luận văn Thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” của tác giả Vũ Thị Hương Mai năm 2017; ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí của Toà án, Viện kiểm sát nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài xâm phạm sở hữu trên các phương diện khác nhau về đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này … Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung các tác giả đã đề cập khá sâu sắc và toàn diện về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này, phân biệt rõ các trường hợp phạm tội này với một số tội phạm khác. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về tình tiết tăng nặng định khung các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Thái Bình dưới góc độ pháp lý hình sự. Nói một cách cụ thể hơn, chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập vấn đề này. Với cách tiếp cận riêng của mình, tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung lý luận của các tình tiết tăng nặng đinh khung các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt dựa trên những số liệu từ thực tiễn tỉnh Thái Bình trong 5 năm qua (từ năm 2013 đến năm 2017). Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện Bộ luật hình sự 2015 đồng thời đưa ra các biện pháp nâng cao nhận thức và hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích khái niệm, cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và khái niệm, phân loại các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, nghiên cứu thực tiễn xét xử, định tội danh, áp dụng pháp luật và thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Bình để đưa ra 3 những đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ sau đây: Một là, nêu và phân tích rõ khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật hình sự Việt Nam; khái niệm phân loạt các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Hai là, trình bày những vấn đề lý luận về áp dụng các quy định đối với các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn tỉnh Thái Bình trong 05 năm từ năm 2013 đến năm 2017. Ba là, nêu và phân tích các yêu cầu đối với áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ đó đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về loại tội phạm này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn dựa trên các quan điểm khoa học pháp lý hình sự, các quy định của pháp luật hình sự, thực tiễn định tội danh và thực tiễn QĐHP đối với các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thái Bình để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung của luận văn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các tình tiết tăng nặng định khung các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. Về khía cạnh thực tiễn, áp dụng pháp luật bao hàm rất nhiều vấn đề, song trong khuôn khổ của luận văn Thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung phân tích thực tiễn hoạt động định tội danh cũng như quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong thời gian từ năm 2013-2017 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Đề tài của Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp luật, về tội phạm, hình phạt và về phòng ngừa tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình làm luận văn, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự, cụ thể như: Phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử và hệ thống, phương pháp phân tích và so sánh,… Tác giả đã sử dụng các phương pháp một cách linh hoạt, đan xen lẫn nhau để đạt được kết quả nghiên cứu cao nhất. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc với cái nhìn tổng quan nhất, đặt trong mối quan hệ biện chứng các vấn đề lý luận góp phần làm phong phú thêm lý luận nhận thức về các dấu hiệu pháp lý liên quan đến các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài này được nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan, toàn diện qua thực tiễn hoạt động định tội danh và thực tiễn quyết định hình phạt của cơ quan tiến hành tố tụng đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Kết quả nghiên cứu là sự đánh giá về thực trạng các vấn đề tích cực cần phát huy và qua nghiên cứu phát hiện được những hạn chế, tìm hiểu nguyên nhân, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tố tụng, đảm bảo các nguyên tắc của Luật hình sự, mục đích của hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục bảng biểu, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thái Bình. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG ĐỊNH KHUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT 1.1. Khái niệm và cấu thành cơ bản của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Theo từ điển tiếng việt, chiếm đoạt được hiểu là “chiếm của người làm của mình bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế” [35,tr.151]. Chiếm đoạt không chỉ là thuộc tính của hành vi phạm tội mà chúng còn biểu hiện là mục đích phạm tội. Khái niệm chiếm đoạt trong dấu hiệu chiếm đoạt cần được hiểu: “là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội” [31, tr.368]. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều trường hợp chủ tài sản không phải là người đang quản lý tài sản do đó theo tác giả khái niệm trên chưa phù hợp với tình hình thực tế và cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và mục đích phạm tội. Vì vậy, khái niệm chiếm đoạt tài sản cần được bổ sung là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lý của người khác thành tài sản của mình và được biểu hiện dưới dạng hành vi và mục đích. Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, chiếm đoạt hoặc nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, do trong từng điều luật quy định chưa chặt chẽ nên bên cạnh việc thiếu thống nhất khi xác định dấu hiệu hành vi của từng tội, thực tiễn còn có những quan điểm khác nhau trong việc xác định dấu hiệu chiếm đoạt đối với các tội này. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả phân tích làm rõ dấu hiệu chiếm 7 đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và nêu lên những quan điểm nhận thức khác nhau trong thực tiễn áp dụng. Trong số 13 tội quy định tại chương XIV Bộ luật Hình sự 1999 (chương XVI Bộ luật hình sự 2015) thì có tới 8 tội có tính chất chiếm đoạt tài sản đó là các tội: tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đặc điểm nổi bật của các tội xâm phạm sở hữu là có tính chất chiếm đoạt nhưng không phải tội phạm nào có tính chất chiếm đoạt đều là tội xâm phạm sở hữu ngược lại tội xâm phạm sở hữu không nhất thiết có tính chất chiếm đoạt như các tội: tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước, tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước. Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những tội xâm phạm sở hữu bằng việc chiếm đoạt nên trong cấu thành tội phạm của những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt. Vì vậy, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, nhằm chuyển dịch trái phép tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác thành tài sản của mình. Hậu quả của các tội xâm phạm sở có tính chất chiếm đoạt là gây thiệt hại về tài sản. Có thể nói thiệt hại về tài sản là thước đo đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trong một số tội, giá trị tài sản bị thiệt hại còn là căn cứ để phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm như: Công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nếu chưa đến mức quy định của Bộ luật Hình sự thì chưa bị coi là tội phạm. 8 Ví dụ: Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới 2 triệu đồng, nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nhưng đã được xóa án tích thì chưa bị coi là tội phạm. Tuy nhiên đối với một số tội phạm ngoài thiệt hại về tài sản, tội xâm phạm sở hữu còn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan tổ chức. 1.1.2. Cấu thành cơ bản của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt a. Về chủ thể Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là chủ thể thường. Theo BLHS năm 1999, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm mà khung hình phạt cao nhất từ 7 năm tù trở xuống. Khoản 2 Điều 12 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng” Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự quy định: “Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm, chung thân hoặc tử hình” [8, tr.322]. Về yếu tố chủ thể đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo BLHS năm 2015 có sự thay đổi, theo đó đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nhiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các Điều 168 (Cướp 9 tài sản), Điều 169 (Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Điều 170 (Cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (Cướp giật tài sản); Điều 173 (Trộm cắp tài sản); b. Về khách thể Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 140 và thực tiễn áp dụng, các tội từ Điều 133 đến Điều 136 Bộ luật hình sự có khách thể là quan hệ sở hữu và quyền nhân thân; Để xâm phạm quan hệ sở hữu, người phạm tội phải có hành vi xâm hại quan hệ nhân thân. Trong đó, quan hệ nhân thân rõ ràng quan trọng hơn quan hệ sở hữu nên các tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành. Như trình bày bên trên, người thực hiện hành vi vi phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều có ý thức chiếm đoạt. Xuất phát từ khách thể được bảo vệ mà hành vi khách quan của các tội này không có dấu hiệu chiếm đoạt cho nên dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, dấu hiệu mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt các tội này với các tội khác do Bộ luật hình sự quy định có hành vi khách quan tương tự như hành vi phạm tội của các tội này. Đối với tội cướp giật tài sản, mặc dù khách thể mà tội này xâm phạm cũng là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân nhưng khác với các tội tại các Điều 133, 134, 135 Bộ luật Hình sự. Hành vi khách quan do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội cướp giật tài sản xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và qua việc xâm phạm quan hệ sở hữu mới xâm phạm đến quan hệ nhân thân nên dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua hành vi chiếm đoạt. Đối với các tội từ Điều 137 đến Điều 140 Bộ luật Hình sự có khách thể chỉ là quan hệ sở hữu. Cũng như tên gọi của chương XIV khách thể là các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, khách thể trực tiếp bị xâm hại là quan hệ sở hữu. Người không phải chủ sở hữu tài sản có các quyền 10 sử dụng, chiếm hữu tài sản, có nghĩa là người không phải chủ sở hữu tài sản cũng sẽ là người bị tội phạm tác động chứ không chỉ người chủ sở hữu tài sản mới là người bị tội phạm tác động. Do đó người phạm tội chỉ cần có hành vi xâm phạm một trong các quyền này sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo một trong những tội phạm quy định tại chương XIV. Nhận thức đúng nội dung này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đó là có trường hợp người sở hữu tài sản bị chiếm đoạt không phải là người bị hại trong vụ án, và ngược lại có trường hợp người không phải là chủ sở hữu tài sản bị chiếm đoạt vẫn là người bị hại trong vụ án để từ đó xác lập đúng quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự. Khách thể trực tiếp của một số tội phạm trong các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt còn là sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, nhân thân của người sở hữu, người quản lý, người chiếm hữu tài sản như trong các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản với tình tiết định khung tăng nặng khi tính mạng, sức khỏe của những người này bị xâm hại. Trên thực tế xét xử ít gặp trường hợp Viện kiểm sát truy tố bị cáo về một tội chiếm đoạt với tình tiết tăng nặng định khung là gây thương tích hoặc dẫn đến chết người như Cướp tài sản theo điểm đ khoản 2, điểm đ khoản 3, điểm đ khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự mà thường gặp các trường hợp bị cáo bị truy tố và xét xử về hai tội Giết người “để thực hiện hoặc che dấu tội phạm khác” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 93 và tội Cướp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự nếu không có các tình tiết định khung tăng nặng khác. Trong quá trình xét xử nhiều Thẩm phán còn mặc nhiên chấp nhận kết quả điều tra, truy tố để xét xử bị cáo về hai tội, một tội xâm phạm quyền sở hữu và một tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, mà thực ra nếu làm kĩ, làm đúng có khi bị cáo chỉ phạm một tội xâm phạm quyền sở 11 hữu với tình tiết tăng nặng định khung là gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người quản lý tài sản. [8, tr.325] Đối tượng tác động của tội phạm trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là tài sản. Theo đó, theo Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 thì “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” [17]. Trong trường hợp chiếm đoạt tài sản là vật có thực gồm các động sản, tiền, vàng... thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã rõ nhưng trong trong trường hợp như sử dụng điện không qua công tơ, sử dụng điện thoại liên lạc trốn phí, chiếm đoạt đồ cổ trong các đền chùa, chiếm đoạt sừng tê giác, ngà voi, cây cảnh... khi tính giá trị tài sản trong các trường hợp này cần phải căn cứ vào kết quả định giá của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự để định tội và định khung hình phạt cho phù hợp. Trường hợp tài sản trong công ty bị chiếm đoạt, trong đó có phần thuộc sở hữu nhà nước để định tội và áp dụng tình tiết tăng nặng cho đúng, nếu phạm tội chiếm đoạt tài sản trong trường hợp này thì cần phải áp dụng thêm tình tiết tăng nặng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự là “xâm phạm tài sản của Nhà nước”. Theo luật Doanh nghiệp thì “Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao và thực tiễn xét xử thì chỉ cần có tỷ lệ phần trăm tài sản của nhà nước trong đó, người phạm tội đã bị coi là có hành vi chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, không cần phải tỷ lệ trên 50% như quy định tại Luật doanh nghiệp. Tài sản bị chiếm đoạt là giấy tờ có giá thường là Trái phiếu chính phủ, trái phiếu Công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, các loại chứng khoán... nhưng trên thực tế tại địa bàn tỉnh Thái Bình thường gặp các trường hợp can phạm chiếm đoạt Sổ tiết kiệm, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, Đăng ký xe ô tô, mô tô... Theo các quy định trên, thì các loại giấy tờ này không phải là giấy tờ có giá. Do đó những hành vi chiếm đoạt 12 giấy tờ này không cấu thành tội phạm quy định trong chương các tội xâm phạm quyền sở hữu nếu không có các yếu tố khác để định tội. Tuy nhiên nếu sau khi chiếm đoạt được giấy tờ này, người chiếm đoạt tiếp tục có hành vi sử dụng giấy tờ này bằng các thủ đoạn khác nhau để chiếm đoạt tài sản của người khác thì hành vi của họ vẫn cấu thành một trong các tội quy định tại chương này. Về quyền tài sản gồm có các quyền như quyền chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, quyền thừa kế, quyền tác giả, bản quyền, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa... không được coi là đối tượng tác động của tội phạm bởi đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu phải là những vật cụ thể. Còn quyền tài sản với tư cách là một khái niệm pháp lý thì không thể trở thành đối tượng bị tác động bởi các hành vi khách quan của các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Nếu có hành vi xâm phạm các quyền này thì sẽ giải quyết bởi những quy định pháp luật khác như tranh chấp về quyền tác giả, về bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ, về nhãn hiệu hàng hóa... hoặc nếu xử lý về hình sự thì với các tội danh khác chứ không phải các tội Xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt. c. Về mặt khách quan của tội phạm Những hành vi nguy hiểm của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện bằng hành động, có thể sử dụng công cụ hoặc phương tiện khác nhau nhằm mục đích chiếm đoạt nhằm gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà ở đây là thiệt hại về tài sản của người khác. Trong các tội xâm phạm sở hữu có 3 tội có cấu thành cơ bản là cấu thành hình thức đó là tội Cướp tài sản, tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội Cưỡng đoạt tài sản [8, tr.330]. Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm trong đó không có dấu hiệu mô tả hậu quả của hành vi phạm tội. Các tội phạm được xây dựng Cấu thành tội phạm là cấu thành tội phạm hình thức là những tội phạm mà riêng dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện 13 được đầy đủ tính chất nguy hiểm của tội phạm đó hoặc dấu hiệu nguy hiểm của tội phạm đó khó xác định [32, tr.57]. Trên thực tế nhiều vụ án Cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, người phạm tội không chiếm đoạt được tài sản bởi những lý do khách quan khác nhau, từ đó có những ý kiến cho rằng bị cáo phạm tội chưa đạt, có ý kiến cho rằng bị cáo phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn dẫn đến áp dụng pháp luật khác nhau, không nhất quán khi giải quyết từng vụ án cụ thể. Còn lại 5 tội trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có cấu thành tội phạm vật chất, tức là cấu thành tội phạm trong đó có dấu hiệu mô tả hậu quả của hành vi phạm tội. Những tội phạm được xây dựng có cấu thành tội phạm là cấu thành tội phạm vật chất là những tội phạm mà riêng dấu hiệu hành vi chưa thể hiện được hoặc chưa thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm đó mà đòi hỏi phải có cả dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội. d. Về mặt chủ quan của tội phạm Các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Tức người phạm tội biết hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện. 1.2. Khái niệm và các đặc điểm của các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.2.1 Khái niệm các tình tiết tăng nặng định khung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Trong cùng một tội phạm có chia nhiều khung hình phạt khác nhau, sự khác nhau giữa các khung hình phạt là do mỗi khung có những yếu tố khác nhau chứng minh tính chất nghiêm trọng so với khung cơ bản; trong cùng một khung hình phạt có một khoảng giới hạn để quyết định hình phạt cụ thể trong khung đó. Chính vì vậy, có thể thấy, nếu có thêm yếu tố đặc biệt làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm hoặc cần thiết phải áp dụng để tăng mức độ giáo dục, cải tạo người phạm tội thì sẽ xảy ra một trong ba trường hợp: 14 Hoặc là chuyển sang tội danh mới cùng loại có mức hình phạt nặng hơn, hoặc là ở khung hình phạt nặng hơn so với khung cơ bản, hoặc là ở trong khung hình phạt đó nhưng mức hình phạt áp dụng sẽ nặng hơn mức trung bình của khung hình phạt. Những tình tiết này bao gồm những tình tiết làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm hoặc tình tiết làm tăng mức độ cần thiết giáo dục, cải tạo người phạm tội. Do đó, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự ở mức cao hơn. Những tình tiết này được nhà làm luật nhận thức và quy định trong pháp luật hình sự nhằm đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật. Trách nhiệm hình sự, hình phạt chỉ đạt được mục đích trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội khi trách nhiệm hình sự, hình phạt được tuyên tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết được luật quy định với tính chất là yếu tố định khung hình phạt đối với một tội phạm tương ứng cụ thể, có nghĩa tình tiết này làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và là căn cứ cho phép Tòa án tăng mức hình phạt đối với người phạm tội chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn, thì trong việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội, Tòa án nhất thiết không thể xem xét nó với tính chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung (quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999). Qua đó, tình tiết tăng nặng định khung là tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm một cách đáng kể nhưng vẫn trong cùng một tội phạm. Trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp này cũng cao hơn thể hiện ở chế tài được quy định ở khung cao hơn đối với chế tài của khung hình phạt cơ bản. Thực hiện nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, tránh quyết định hình phạt một cách tùy tiện, hình phạt được chia thành từng khung nhất định với độ biến thiên nhỏ hơn độ biến thiên của cả tội danh. Khoảng cách giữa mức độ cao nhất và mức độ thấp nhất của hình phạt tội đó càng lớn thì các 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan