Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán việt nam
Lời nói đầu
Hiện nay tình hình kinh tế thế giới đã và đang có nhiều biến đổi phức tạp
trong nhiều thập kỷ qua cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong công nghệ hiện
đại đã tạo tiền đề về kinh tế cho nhiều nước phát triển. Họ đã ra sức điều chỉnh
thích nghi và đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao.
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, đã nhiều năm chịu sự tàn phá của
chiến tranh. Vì vậy mà nền Kinh tế phát triển thụt lùi so với những nước phát
triển hàng trăm năm. Để hội nhập với xu hướng hiện nay Đảng và nhà nước ta
đã thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Cuộc cải cách này đã xó nhiều
tác động to lớn tới toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của nước ta và tạo ra nhiều
chuyển biến tích cực trong nền kinh tế. Chính từ đây đã xuất hiện nhiều cơ sở
vững chắc và ngày càng lớn mạnh để hình thành thị trường tài chính mà quan
trọng nhất là thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán là những thực thể phức tạp và là hình thức phát triển
cao của nền kinh tế thị trường. Đối với nước ta vấn đề này còn khá mới mẻ và
đang thu hót rộng rãi sự chú ý quan tâm của các nhà kinh tế trong nước cũng
như nước ngoài. Chính vì lý do thiết thực đó, trong khuôn khổ bài tiểu luận môn
học này, em xin trình bầy những vấn đề lý luận cơ bản nhất về thị trường chứng
khoán và sự hình thành một thị trường chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam. Em
mong muốn được góp 2 phần tri thức nhỏ bé của mình trong việc tìm hiểu và
đánh giá hiện trạng thị trường chứng khoán trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Dù đã hết sức cố gắng, nhưng trong bài tiểu luận này không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Vì thế em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và
các bạn.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
I.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TRÊN THẾ GIỚI.
Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán thế giới trải qua một sự
phát triển thăng trầm. Vào nhiều năm 1075 – 1913, thị trương chứng khoán thế
giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc
đó, nhưng rồi đến ngày 29/ 10/ 1929 thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu và
Nhật Bản đã khủng hoảng. Mãi tới khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các thị
trường mới dần hồi phục và phát triển. Năm 1987 một lần nữa thị trường chứng
khoán thế giới điên đảo, do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được
yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê gớm, mất lòng tin và gây phản
ứng giây truyền mà hậu quả của nó còn nặng nề hơn năm 1929. Gần đây nhất thị
trường ở Châu Mỹ cũng đã rơi vào vòng xoáy của cơn lốc khủng hoảng tài chính
tiền tệ, giảm lòng tin và có tính chất lây lan, tạo ra sù suy giảm ghê gớm chỉ số
giá chứng khoán.
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thể giới
cho thấy giai đoạn đầu thị trường phát triển một cách tự phát với sự tham gia của
các nhà đầu cơ. Dần dần về sau mới có sự tham gia của công chúng. Khi phát
triển đến mức độ nhất định thị trường chứng khoán bắt đầu phát sinh nhiều trục
trặc dẫn đến phải thành lập cơ quan quản lý nhà nước và hình thành hệ thống
pháp lý để điều chỉnh hoạt động của thị trường. Kinh nghiệm cho thấy, phần lớn
các thị trường chứng khoán sau khi thiết lập có hiệu quả, ổn định và phát triển
vững chắc phải có sự chuẩn bị chu đáo mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con
người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát trong quản lý nghiêm ngặt của
nhiều nước.
Cho tới nay, thị trường chứng khoán phát triển ở mức có thể nói là
không thể thiếu trong đời sống kinh tế của nhiều nước theo cơ chế thị trường và
nhất là những nước đang phát triển, cần thu hót luồng vốn dài hạn cho nền kinh
tế quốc dân.
II.
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN.
1) Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán có thể được định nghĩa như là nơi tập trung các
nguồn nhân tiết kiệm để phân phối lại cho nhiều người muốn sử dụng nhiều
nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả. Nói cách khác thị
trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn đầu tư này, có thêm
nguồn vốn để đưa vào sản xuất trong nền kinh tế vì vậy có thể làm cho nền kinh
tế tăng trưởng và tạo nên sự thịnh vượng.
Theo định nghĩa trên, thị trường chứng khoán không phải cơ quan mua vào
hoặc bán ra các chứng khoán. Thị trường chứng khoán cũng không sở hữu các
loại chứng khoán. Thị truờng chứng khoán là nơi giao dịch, ở đó việc mua bán
chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán không phải là nơi giao dịch (mua
– bán) chứng khoán của nhiều người muốn mua hay bán chứng khoán mà của
những nhà môi giới. Gía cả chứng khoán được hình thành một cách khách quan
theo hệ thống bán đấu giá hai chiều: người môi giới mua cạnh tranh với những
người môi giới khác để mua với những người môi giới khác để mua được với
giá thấp nhất, người môi giới bán cạnh tranh với nhiều người môi giới bán khác
để bán được với giá cao nhất. Vì thế mà thị trường chứng khoán là thị trường có
tính tự do cao nhất trong các loại thị trường.
2) Phân loại thị trường chứng khoán:
a) Thị trường chính khoán chính thức:
Hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều có thị trường chứng khoán
chính thức, điều chỉnh là các thị trường chứng khoán tại New York, Paris,
London, Tokyo ....
Thị trường chứng khoán chính thức là 1 tổ chức có trung tâm giao dịch, có
hội đồng quản trị, có hội viên và có trụ sở riêng. Hội đồng quản trị thảo ra điều
lệ riêng cho thị trường chứng khoán đặt trụ sở. Điều lệ thị trường có tính pháp lý
đối với các thành viên và chịu sự giám sát của hội đồng giám sát tại thị trường
chứng khoán. Thị trường chứng khoán mở cửa hàng ngày, hội viên họp tại hội
trường trụ sở với những trang thiết bị hiện đại. Các nhà môi giới có thể liên lạc
với những khách hàng của họ ở khắp mọi nơi hoặc với một nhà môi giới chứng
khoán khác. Chứng khoán cạnh tranh nhau để mua bán theo hình thức đấu giá.
Người ta cạnh tranh để mua bán chứng khoán sao cho có lợi nhất cho họ. Ngày
nay luật chứng khoán ở các nước quy định chặt chẽ và tỉ mỉ đối với các hoạt
động giao dịch trên thị trường chứng khoán, tránh khủng hoảng cho thị trường
khi mà ta có vốn lớn thực hiện đầu cơ để đẩy giá lên hoặc dìm gía xuống 1 cách
giả tạo, gây tổn hại cho người Ýt vốn Ýt cổ phần.
b) Thị trường chứng khoán phi chính thức
Là một tổ chức không có trung tâm giao dịch, không có hội đồng quản trị.
Tuy vậy, người ta cũng tiến hành bán theo phương thức đấu giá. Các nhà môi
giới liên lạc với nhau giúp thực hiện việc mua bán. Sự tiện lợi ở thị trường phi
chính thức là ở chỗ đối với cổ phần của một xí nghiệp nhỏ, mới hoặc Ýt được
nhiều người biết đến hay chưa được mọi người tin tưởng khi cần mua hay bán
chứng khoán có thể giao dịch trên thị trường này có độ tin tín nhiệm thấp hơn so
với các loại chứng khoán được giao trên thị trường tập trung. Do tính không tập
trung nên khó xác định được quy mô của thị trường này lớn hơn trên thị trường
chính thức do tính chất thông thoáng hơn trong các công việc phát hành và yết
giá chứng khoán trên thị trường này so với trên thị trường chính thức.
III. CHỨC NĂNG, NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
1. Chức năng:
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng
khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động
sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, thị trường
chứng khoán đã có nhiều tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền các
địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư
phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ nhu cầu chung của Xã hội.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: Thị trường chứng khoán
cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lùa
chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính
chất, thời hạn và độ rủi ro cho phép các nhà đầu tư có thể lùa chọn cho loại hành
hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy thị
trường chứng khoán góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
- Tạo tính thanh toán cho các chứng khoán: Nhờ có thị trường chứng
khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền
mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn khả năng thanh toán. Là một
trong những tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố
cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt
động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh
khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
- Đánh hoạt động của các doanh nghiệp: Thông qua giá chứng khoán hoạt
động của các doanh nghiệp được phản ánh 1 cách tổng hợp và chính xác, giúp
cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng
và thuận tiện, từ đó cũng tạo hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công
nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
- Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vi mô.
Các chỉ bảo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một
cách nhạy bén trong chính sách. Gía các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu cơ
đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại chứng khoán giảm sẽ cho
thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế và là một công cụ quan trong giúp
chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng
khoán, chính phủ cũng có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn
thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có
thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán
nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
2) Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán.
- Nguyên tắc cạnh tranh theo nguyên tắc này giá cả trên thị trường chứng
khoán phản ánh quan hệ cung cầu vè chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh
tranh giữa các công ty. Trên thị trường và cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với
nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự
do lùa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ
cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tù do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận
cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá
- Nguyên tắc công bằng: Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi Ých cho tất
cả những người tham gia thị trường. Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia
thị trường đều phải tuân thủ nhiều quy định chung, được bình đẳng trong việc
chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm
những quy định đó.
- Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là các hàng hoá trìu tượng. Người
đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá
thông thường mà phải dùa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy thị
trường chứng khoán phải được xây dựng trên có sỏ hệ thống công bố thông tin
tốt. Theo luật định, các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy
đủ, trung thực và kịp thời nhiều thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành tới
đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu tiên
thông tin đại chúng. Sở giao dịch, các công ty chúng khoán và các tổ chức có
liên quan khác.
Nguyên tắc này nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm
nghĩa rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì
người đầu tư phải chịu trách nhiệm và các quyết định đầu tư của mình.
-Nguyên tắc trung gian: Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán, các
giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng
khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư chính khoán thường không mua
trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo hành. Trên thị trường thứ
cấp thông qua các nghiệp vụ môi giới, Kinh doanh các công ty chứng khoán,
bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhauqua
việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán của mình.
-Nguyên tắc tập trung: Thị trường chứng khoná phải hoạt động trên nguyên tắc
tập trung. Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên cơ sở giao dịch và trên thị
trường OTC, có sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ
chức tự quản. Các chứng khoán hàng hoá của thị trường chứng khoán là các sản
phẩm, tài chính cao cấp nên việc giao dịch chúng đòi hỏi thị trường phải có
nhiều có sở vật chất nhất định chứ không thể diễn ra 1 cách tuỳ tiện.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
THỊ TRƯỜNG CHỨNGKHOÁN VIỆT NAM
I.
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN:
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế Việt Nam
đã đạt được nhiều tiến bộ hết sức quan trọng trên cơ sở ổn định chính trị Xã hội
đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ cho đầu tư
phát triển. Tuy nhiên để thực hiện mục tiêu đến năm 2001 là phấn đấu đưa nước
ta về cơ bản thành 1 nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý đảm bảo nhịp độ tăng trưởng bình quân GDP ở mức 9 – 10%
năm.
Trước tình hình đó nhu cầu nguồn vốn trung và dài hạn cho tăng truởng kinh
tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ hậu qủa so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, chúng ta cần phải có các chính sách huy động tối đa mọi
nguồn lực tài chính trong nước, biến các nguồn vốn nhàn rỗi thành vốn đầu tư
hoạt động sinh lời và thu hót vốn nước ngoài bằng hình thức như phát hành trái
phiếu, cổ phiếu, mở rộng các mối đầu tư .... tiến tới hình thành từng bước thị
trường chứng khoán tại Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau
-Dưới góc độ kinh tế , với tư cách là bộ phận của thị trường tài chính có chức
năng huy động và phân bổ nguồn vốn và dài hạn có hiệu quả, thị trường chứng
khoán là trung tâm thu nhập, phân phối và giao lưu các vốn tiết kiệm cho dầu tư
của toàn xã hội, găn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính –
tiền tệ cấu thành nên tính chất quốc gia.
-Thị trường chứng khoán là 1 loại có sở hạ tầng về tài chính của nền kinh tế
giúp cho đồng vốn đầu tư đi vào nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp biết tạo ra
hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn.
-Thị trường chứng khoán hoạt động tốt cung cấp sự dự báo tuyệt vời về chu kỳ
kinh doanh trong tương lai. Đặc biệt thị trường chúng khoán tạo ra môi trường
không thể thiếu cho chương trình cổ phần hoá thanhf công vững chắc, đồng thời
việc cổ phần hoá cũng tạo lực phát triển thị trường chứng khoán.
-Thị trường chứng khoán cũng sẽ mang lại nhiều tiện Ých cho công chúng,
giúp công chúng có hình thức đàu tư vào các công ty, cho nhà nước vay dài hạn
qua các trái phiếu, chuyển dịch vốn một cách dễ dàng trước các hình thức đầu
tư.
II.
CÁC YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ THÀNH LẬP THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
Xây dựng một thị trường chứng khoán nhưng để tổ chức nó hoạt động lành
mạnh để nó đem lại những tác động tích cực cho nến kinh tế thì lại là một vấn đề
lớn. Để có được 1 thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và hạn chế tối đa
nhiều tiêu cực mà nó có thể gây ra cho nền kinh Từ. Đảng và nhà nước cần phải
chuẩn bị một môi trường chứng khoán hoạt động thuận lợi .
1)
Kinh tế: Đây là yếu tố nền tảng bảo đảm cho khả năng có các
loại chứng khoán lưu thông trên thị trường. Yếu tố này được quyết định bởi các
chính sách phát triển kinh tế và các định chế tài chính của nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 xác định chế độ kinh tế của nước ta là chế độ kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần dựu trên chế độ sở hưũ toàn dân, tập thể và sở hữu tư
nhân. Trên cơ sở này các thành phần kinh tế, các công ty liên doanh, cổ phần
ngày càng phát triển cùng với các đơn vị kinh tế quốc doanh. Đây là đơn vị kinh
tế có thể phát hành các loại cổ phiếu trái phiếu là hàng hoá để giao dịch trên thị
trường chứng khoán.
Bên cạnh đó Việt Nam cũng đang tiến hành cổ phần hoá các daonh nghiệp nhà
nước, việc này tạo ra được hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Xét về yếu tố
kinh tế, Việt Nam hiện nay có thể nói là đã thoả mãn yêu cầu của thị trường
chứng khoán. Nhà nưứoc cho phép các công ty cổ phần hoạt động cho phép các
loại chứng khoán được lưu hành hợp pháp tức là tạo ra hàng hoá cho thị trường
chứng khoán. Điều này cho phép thị trường chứng khoán có thể ra đời.
2) Pháp lý: Nếu yếu tố kinh tế là nền tảng để hình thành thị
trường chứng khoán thì yếu tố pháp lý là công cụ duy trì cho thị trường chứng
khoán hoạt động đều đặn, lành mạnh có hiệu quả và ngày càng phát triển.
Còng như các nước khác, Việt Nam sẽ xây dựng và ban hành luật chứng
khoán và giao dịch chứng khoán. Trong luật này, các vấn đề sẽ được luật hoá là:
các quy định về các tổ chức phát hành chứng khoán, các quy định về các trung
gian tài chính tham gia phát hành chứng khoán, các phương pháp phát hành
chứng khoán mới, quy chế đấu thầu chứng khoán mới. Ngoài ra các quy chế về
tổ chức và hoạt động của sở giao dịch chứng khoán cũng cần phải được quy
định chặt chẽ.
Hiện nay ở Việt Nam, một số điều khoản liên quan đến quyền huy động vốn
của các công ty cổ phần và các doanh nghiệp nhà nước được quy định trong luật
công ty và luật doanh nghiệp nhà nước. Còn bộ phận lớn các quy định cần thiết
khác chúng ta vẫn còn đang thiếu. Do vậy cần làm nhiều việc để xây dựng
khung pháp lý chuẩn bị cho thị trường chứng khoán ra đời taị Việt Nam.
3) Kiểm soát và kỹ thuật.
Hoạt động của thị trường chứng khoán phải được đặt dưới sự kiểm soát của
nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi của người mua chứng khoán và hạn chế các
yếu tố tiêu cực của thị trường chứng khoán. Nhà nước cần thành lập một uỷ ban
chứng khoán quốc gia để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị
trường chứng khoán. Uỷ ban này có nhiệm vụ xây dựng hoàn chỉnh hệ thống
pháp lý cho thị trường chứng khoán đồng thời xây dựng 1 hoặc 1 số sở giao dịch
chứng khoán và hệ thống các cơ quan liên hệ như công ty môi giới chứng khoán,
quỹ đầu tư trọng tâm quản lý lưu giữ chứng khoán trong thanh toán bù trừ.
Yếu tố kỹ thuật của thị trường chứng khoán bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật
thuần tuý và con người. Cơ sở vật chất kỹ thuật thuần tuý là các máy móc thiết
bị, phương tiện thông tin, tính toán, văn phòng giao dịch. Trước mắt cần phải có
chương trình đào tạo khẩn cấp các cán bộ trong ngân hàng tài chính sau đó sẽ
đào tạo với quy mô dài hơn. Chúng ta cần đưa môn học về thị trường chứng
khoán vào các trường Đại học, trung học kinh tế tài chính ngân hàng. Ngoài các
yếu tố nói trên, cần có sự tuyên truyền sâu rộng trong dân cư về tính hấp dẫn khi
đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng như đưa các đảm bảo cho quyền lợi hợp
pháp của các nhà đầu tư.
III.
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.
1) Những thuận lợi:
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi cơ bản tạo được thuận
lợi cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Chúng ta đã tạo
được những thành tựu đáng khích lệ. Lạm phát đã giảm từ 67% năm 1992 xuống
còn 14.4% năm 1994. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm trở lại
đây luôn được duy trì ở mức tốt, nền kinh tế đã bắt đầu ổn định. Thu nhập của
dân cư tăng và trong nội bộ nền kinh tế đã có tích luỹ.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, chính sách 1 giá tạo điều kiện
cho hàng hoá lưu thông thuận tiện giữa các khu vực trong nước, lãi suất tín dụng
và lãi suất tiết kiệm đã được Ên định trên cơ sở tương quan giữa cung cầu vốn
trên thị trường. Quy luật cung cầu và quy luật giá trị đang phát huy những tác
dụng tích cực đến nền kinh tế.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá mạnh. Số doanh
nghiệp cổ phần và công ty liên doanh thu hót nhiều vốn trong nước cũng như
vốn tư nước ngoài cũng tăng nhanh. Sù ra đời của các cổ phiếu, trái phiếu do các
công ty cổ phần, các doanh nghiệp nhà nước phát hành tạo điều kiện thuận lợi
cho thị trường chứng khoán ra đời.
Thêm vào đó nền kinh tế thị trường cũng đang làm thay đổi dần thãi quen và
nếp nghĩ của dân chúng trong công việc đầu tư vốn mà họ tích luỹ được.
Các yếu tố trên đây tạo điều kiện thuận lợi cho sù ra đời của thị trường chứng
khoán vf khẳng định là thị trường chứng khoán sẽ được công nhận vì nó được
đáp ứng nhu cầu của người đầu tư vốn, người sử dụng vốn và cả của nhà nước.
2) Những khó khăn:
-Hàng hoá để giao dịch trên thị trường chứng khoán chưa đủ tiêu chuẩn về chất
lượng cũng như chưa đủ về khối lượng để giao dịch khi thị trường chứng khoán
chính thức được hình thành. Số lượng và giá trị cổ phiếu hiện nay còn quá nhỏ
chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường chứng khoán khi nã ra đời. Các loại
trái phiếu tuy có đa dạng nhưng phần lớn là các trái phiếu ngắn hạn không phải
là đối tượng chính để mua bán trên thị trường chứng khoán.
-Hệ thống ngân hàng tuy đã có nhiều thay đổi nhưng chưa mạnh cần tiếp tụa
phát triển để đáp ứng các yêu cầu về thanh toán, chuyển giao, lưu trữ và thực
hiện các dịch vụ khác khi thị trường chứng khoán ra đời.
-Chưa có khung pháp lý đồng bộ và đầy đủ cho sự hoạt động của thị trường
chứng khoán. Hiện nay mặc dù đã có luật công ty, Luật dân sự... chúng ta vẫn
thiếu các văn bản pháp luật về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. Các
văn bản có liên quan khác về phát hành chứng khoán, kiểm toán, kế toán tuy đã
có nhưng chưa đủ và đồng bộ để có khả năng bao quát toàn bộ hoạt động của thị
trường chứng khoán. Thêm vào đó là việc chấp hành không nghiêm chỉnh luật
pháp đã kéo theo những hậu quả tiêu cực làm giảm lòng tin trong dân chúng về
hiệu lực của pháp luật.
Đây là khó khăn có ý nghĩa đặc biệt nghiêm trọng. Khi mà khó khăn này chưa
được khắc phục thì việc tổ chức được một thị trường chứng khoán hoạt động
lành mạnh là không thể có được.
Như vậy, để thành lập được một thị trường chứng khoán hoạt động tốt cần
phải tiến hành một khối lượng các công việc chuẩn bị rất lớn; đồng bộ trên nhiều
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Chúng ta cũng cần tuyên truyền, giáo dục
các kiến thức cơ sở về thị trường chứng khoán cho nhân dân, củng cố lòng tin
của họ bằng các luật, qui định chặt chẽ và khẩn trương đào tạo đội ngò cán bộ
chứng khoán và thiết lậ hệ thống thông tin kinh tế tài chính rộng lớn (qua vô
tuyến truyền hình, radio, báo chí...)
KẾT LUẬN
Phát triển thị trường chứng khoán là giải pháp quan trọng được khẳng định
trong khuôn khổ cuộc cải cách cơ bản nhất của Đảng và nhà nước ta. Nhằm tác
động nội lực mới thông qua sù thay đổi hình thức sở hữu và cơ cấu tổ chức. Nhờ
đó mà những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng
kể. Vì vậy trong thời gian tới để thoả mãn nhu cầu tạo ra hàng hoá giao dịch trên
thị trường chứng khoán chúng ta cần phải xúc tiến mạnh việc chuẩn bị hàng hoá
thông qua các giải pháp cơ bản như: Đẩy mạnh phát triển trái phiếu chính phủ
trung và dài hạn trên thị trường trong nước, xem xét việc phat hành trái phiếu
chính phủ ra thị trường vốn quốc tế. Xúc tiến đẩy nhanh tiến trình thực hiện cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Phát triển thị trường chứng khoán, đi kèm với sự thành lập nhiều công ty cổ
phần mới sẽ đóng vai trò quan trọng xác lập nền kinh tế thị trường vững chắc ở
Việt Nam. Vì thế việc phát triển thị trường chứng khoán được sự lãnh đạo và chỉ
dạo chặt chẽ của Đảng và nhà nước.
Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy cô đã gợi ý cho em về đề tài lý thó và thiết
thực này. Em xin chân thành cảm ơn và mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I : Cơ sở lý luận chung về thị trường chứng khoán
I.
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế
giới
II.
Thị trường chứng khoán và phân loại thị trường chứng khoán
1. Thị trường chứng khoán
2. Phân loại thị trường chứng khoán
III.
Chức năng nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
Chương II phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán việt
nam
I.
Tính tất yếu khách quan
II.
Các yếu tố cần thiết để thành lập thị trường chứng khoán
III.
Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam
1. thuận lợi
2. Khó khăn
- Xem thêm -