Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong luật cạnh tranh...

Tài liệu Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong luật cạnh tranh

.PDF
76
381
149

Mô tả:

Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 1 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 2 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 3 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH LIÊN QUAN ĐẾN GIÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH .......................................................................................................26 2.1. Hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ .................................26 2.1.1. Chủ thể thực hiện hành vi..................................................................27 2.1.2. Nội dung của thỏa thuận....................................................................27 2.2. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh ..............................................29 2.3 Thỏa thuận loại bỏ thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận ............................................................................................32 2.4 Hành vi áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng .................................33 2.4.1. Áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý ....................................34 2.4.2. Áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý .....................................34 2.4.3. Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng..............36 2.5 Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh .............................................................................................37 2.6 Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.................................................................42 2.6.1. Chủ thể thực hiện hành vi..................................................................42 2.6.2. Biểu hiện khách quan của hành vi ....................................................43 2.6.3. Tác động của hành vi .........................................................................43 2.7 Ngăn cản việc tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh mới ......45 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH VỀ GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LUẬT CẠNH TRANH .............................................................................48 3.1. Thực tiễn các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh.................................................................................................48 3.1.1. Những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật ....................48 3.1.2. Trình độ nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng nói chung về các quy định trong Luật Cạnh tranh chưa cao.....................55 3.1.3. Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh chưa được xử lý và kiểm soát chặt chẽ...........................................................................56 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh .........................................58 GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 4 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh 3.2.1. Về quy định của pháp luật liên quan đến hành vi cạnh tranh về giá ............................................................................................................58 3.2.2. Thúc đẩy các biện pháp để đưa Luật Cạnh tranh vào cuộc sống ....63 3.2.3. Một số kiến nghị khác ........................................................................63 KẾT LUẬN............................................................................................................66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................68 GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 5 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cạnh tranh là quá trình tất yếu xảy ra trong sự phát triển kinh tế. Sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng đồng thời với sự gia tăng số lượng cũng như quy mô của các doanh nghiệp trong cùng một ngành đã tạo nên một áp lực cạnh tranh lớn hiện nay trên thị trường. Mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành càng cao thì khả năng để một doanh nghiệp bị thôn tính hoặc buộc phải từ bỏ thị trường do thiếu khả năng thích nghi càng lớn. Điều này đã mang lại một ưu điểm lớn cho nền kinh tế là đảm bảo thị trường luôn mở cửa cho các ngành mới, doanh nghiệp mới, buộc các doanh nghiệp tự cải thiện tình hình sản xuất, kinh doanh dịch vụ thông qua việc đổi mới, nâng cao chất lượng và giá cả, góp phần thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cạnh tranh cũng làm phát sinh những hiện tượng không lành mạnh với những toan tính, những thủ đoạn, những hành vi bất chính của một số doanh nghiệp, không chịu được sức ép của cạnh tranh hoặc của một số doanh nghiệp có lợi thế trên thị trường nhằm tiêu diệt đối thủ, ngăn cản sự phát triển tự nhiên của thị trường, lừa dối khách hàng để trục lợi. Những biểu hiện không lành mạnh ấy ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp trong biểu hiện, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh. Ở Việt Nam, các hành vi cạnh tranh làm ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế ngày càng nhiều, trong đó hành vi cạnh tranh về giá được sử dụng phổ biến nhất. Tuy cạnh tranh về giá luôn được Nhà nước khuyến khích để các doanh nghiệp có thể sản xuất ra những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tốt với mức giá hợp lý, phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng nhưng không phải mọi hành vi cạnh tranh về giá mà các doanh ngiệp thực hiện đều được pháp luật cho phép đặc biệt là các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh. Đây là một hình thức cạnh tranh gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tự nhiên của thị trường. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 là bước tiến trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về cạnh tranh, tạo hành lang pháp lý để bảo vệ các chủ thể tham gia cũng như đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Với những quy định tiến bộ ở giai đoạn này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự gia tăng số lượng doanh nghiệp cũng như sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, một cách khách quan để nhìn nhận, sự điều chỉnh của pháp luật về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá trong Luật Cạnh tranh chưa thật sự cụ thể. Đâu đó, vẫn còn những quy định chưa rõ ràng, chưa điều chỉnh hết các vấn đề mà xã hội phát sinh trong quá trình áp dụng những quy định của luật làm cho việc áp dụng pháp luật khó khăn, do đó chưa bảo vệ một cách triệt để sự phát triển tự nhiên của cạnh tranh cũng như những chủ thể tham gia vào quá trình này. Bên cạnh đó, do nền kinh tế nước ta GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 6 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh đang trên đà phát triển, vận động không ngừng, kéo theo đó là các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá được nhiều doanh nghiệp sử dụng với mức độ tinh vi và phức tạp hơn, gây khó khăn cho việc điều chỉnh và kiểm soát các hành vi này trên thực tế. Từ những vần đề vừa nêu, người viết đã chọn đề tài: “Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp cử nhân ngành luật cho mình. 2. Mục đích nghiên cứu Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh ngày càng diễn ra phức tạp và đa dạng hơn vì vậy mục đích để người viết chọn đề tài này là muốn tiếp cận nghiên cứu các vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn của các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. Từ đó có căn cứ để xác định hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong thực tiễn và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực trên. 3. Phạm vi nghiên cứu Cạnh tranh là nguồn lực để phát triển kinh tế, bên cạnh những mặt tích cực mà cạnh tranh mang lại thì cũng có những mặt tiêu cực song hành. Để giảm bớt áp lực mà môi trường cạnh tranh mang lại, các doanh nghiệp đã tiến hành thực hiện các hành vi cạnh tranh khác nhau nhằm làm ảnh hưởng đến quyền tự do cạnh tranh của các chủ thể khác tham gia thị trường, trong đó hành vi cạnh tranh về giá được sử dụng một cách rộng rãi và phổ biến nhất. Các hành vi cạnh tranh về giá rất đa dạng nhưng trong bài viết này người viết chỉ tập trung xoáy sâu nghiên cứu pháp luật về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá trong Luật Cạnh tranh. Ngoài ra, trong bài viết này người viết cũng không đề cập đến phần thủ tục xử lý đối với hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, từ việc tham khảo những quy định của pháp luật, các tạp chí, giáo trình…và những thực tế phát sinh, người viết sử dụng phương pháp liệt kê, phân tích luật viết; phương pháp sưu tầm kết hợp với việc tham khảo, tổng hợp các tài liệu liên quan trong các sách tham khảo, giáo trình, báo, tạp chí và trên các trang mạng điện tử. 5. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục thì kết cấu luận văn gồm 3 chương: GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 7 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh Chương 1: Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh Trong chương 1, nội dung mà người viết tập trung để làm rõ là nêu lên khái niệm cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh, giá và hành vi cạnh tranh về giá. Bên cạnh đó là nêu lên những đặc điểm cơ bản, vai trò, ý nghĩa của cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh, cách thức xác định hành vi hạn chế cạnh tranh và phân tích sự tác động của hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá. Chương 2: Quy định của pháp luật về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá theo quy định của Luật Cạnh tranh Trong nội dung chương 2, người viết tập trung tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành về các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá. Chương 3: Thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh Trong nội dung chương 3, người viết sẽ nêu lên những bất cập xuất phát từ chính những quy định của pháp luật và việc áp dụng quy định pháp luật liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến giá. Qua đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những vần đề đã nêu. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 8 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH VỀ GIÁ NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LUẬT CẠNH TRANH Sự ra đời của cạnh tranh đã góp phần rất lớn vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như tạo nền tảng cho các doanh nghiệp tham gia thị trường phát huy hết sự sáng tạo của mình, phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng ngày một tốt hơn thông qua các hình thức cạnh tranh khác nhau mà hình thức được sử dụng phổ biến nhất chính là cạnh tranh liên quan đến giá. Trong chương này, nội dung khái quát được đề cập là làm rõ một số khái niệm liên quan đến cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh, hạn chế cạnh tranh, giá và cạnh tranh về giá. Bên cạnh đó, nêu lên đặc điểm, ý nghĩa của cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh, cách thức xác định hành vi hạn chế cạnh tranh cũng như những tác động của hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh đối với các chủ thể của cạnh tranh và nền kinh tế. 1.1 . Khái quát chung về cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh 1.1.1. Khái quát chung về cạnh tranh 1.1.1.1. Khái niệm Cạnh tranh là một hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá thể có chung một môi trường sống đối với điều kiện nào đó mà các cá thể cùng quan tâm. Đó là một khái niệm chung cơ bản dành cho nhiều lĩnh vực trong xã hội. Có thể nói là có cạnh tranh thì mới có phát triển xã hội thành công. Song thuật ngữ “cạnh tranh” này thường được dùng nhiều nhất trong hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường – nền kinh tế hàng hóa như hiện nay. Cạnh tranh được xem như là nền tảng, động lực để phát triển kinh tế, bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường dù muốn hay không đều phải chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau. Các doanh nghiệp thành công trên thị trường là các doanh nghiệp có khả năng thích nghi với cạnh tranh và luôn giành thế chủ động cho mình trong các mối quan hệ kinh tế xã hội bằng các yếu tố thích hợp. Các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ cạnh tranh và các cách thức để nâng cao khả năng cạnh tranh của chính bản thân mình1. Ở Việt Nam vào thời kỳ kinh tế bao cấp khái niệm cạnh tranh chưa được quan tâm, các hoạt động kinh tế của đất nước được tiến hành dựa trên chế độ bao cấp của Nhà 1 Nguyễn Văn Tâm, Lý luận chung về cạnh tranh, http://www.voer.edu.vn/bai-viet/kinh-te/ly-luan-chung-ve-canhtranh.html, [ truy cập ngày 30-12-2012]. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 9 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh nước, công hữu về tư liệu sản xuất. Vì thế cạnh tranh là một hoạt động không phù hợp với điều kiện kinh tế thời kỳ đó. Từ năm 1986, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế mở cửa thị trường, phát triển nền kinh tế theo định hướng đa phương hóa, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh của các chủ thể. Kể từ đây, cạnh tranh được thừa nhận là một quy luật kinh tế khách quan và được coi như là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, điều khiển nền kinh tế quốc dân nói chung và trong tổ chức, điều hành kinh doanh trong các doanh nghiệp nói riêng. Cạnh tranh không những là môi trường của sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, góp phần cho sự phát triển của nền kinh tế. Cạnh tranh đã hình thành và phát triển ở các nước tư bản từ rất lâu nhưng cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa đi đến một định nghĩa thống nhất về cạnh tranh. Theo Black’Law Dictionary, cạnh tranh - với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể kinh doanh - được hiểu là “sự nổ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba”2. Theo từ điển kinh doanh của Anh, xuất bản năm 1992, cạnh tranh với tư cách là một hiện tượng xã hội được định nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”3. Trong cuốn Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi luật và chính sách cạnh tranh, Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD) cho rằng “cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường được dùng để chỉ một hoàn cảnh trong đó các doanh nghiệp hoặc người bán cố gắng một cách độc lập giành được sự quan tâm, chú ý của người mua để đạt được một mục tiêu kinh doanh nhất định như lợi nhuận, doanh thu, thị phần”4. Bên cạnh đó theo từ điển Cornu của Pháp thì cạnh tranh được hiểu là “hành vi của doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm làm thỏa mãn yêu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường xuyên”5. Theo từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh có nghĩa là “cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau”6.Theo cách hiểu này, cạnh tranh là một sự đối đầu giữa các đối thủ kinh doanh 2 3 Bryan A.Garmer, Black’ Law Dictionary, St. Paul, 1999, trâng 278. Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 2004, trang 19. 4 OECD & WB - Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế và Ngân hàng Thế giới, Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi luật và chính sách cạnh tranh, Hoàng Xuân Bắc dịch, 2004, trang 17. 5 Nguyễn Hữu Huyên, Luật cạnh tranh của Pháp và Liên minh Châu Âu, Nxb. Tư pháp, 2004, trang 11. 6 Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2000, trang 112. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 10 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh về giá cả, số lượng, dịch vụ hoặc kết hợp các yếu tố này và các yếu tố khác nhằm thu hút khách hàng. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng về bản chất cạnh tranh được coi là hành vi của hai hay nhiều chủ thể trong kinh doanh (trong nền kinh tế thị trường) với mục đích giành cho mình những ưu thế cao nhất so với các chủ thể khác bằng cách sử dụng những phương thức kinh doanh riêng. Cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, đó là sản phẩm của quá trình chuyển đổi cơ chế của kinh tế quốc gia. Có tự do cạnh tranh, nền kinh tế thị trường mới vận hành theo đúng quy luật tất yếu của nó và phát huy nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả mà cạnh tranh mang lại cho nền kinh tế, cho xã hội thì nó cũng đã đem đến nhiều hệ lụy gây ra hậu quả tiêu cực cho kinh tế quốc gia thông qua việc các chủ thể là đối thủ của nhau tìm cách loại bỏ đối thủ của mình bằng cách sử dụng các chiến lược kinh doanh gian dối, làm lũng đoạn thị trường kinh doanh, ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng, chính vì thế các doanh nghiệp phải tự trang bị và cải tổ hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập như hiện nay, qua đó mang lại hiệu quả tích cực cho xã hội như chất lượng, mẫu mã hàng hóa, dịch vụ tốt hơn với mức giá hợp lý. 1.1.1.2. Đặc trưng của cạnh tranh Cạnh tranh là thành quả tất yếu của nền kinh tế thị trường, làm nền tảng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của đất nước do đó cạnh tranh mang những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, cạnh tranh là một hiện tượng xã hội xảy ra giữa những chủ thể kinh doanh. Cạnh tranh chỉ thực sự xuất hiện khi tồn tại những dấu hiệu sau đây: • Có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau. Bởi vì cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các chủ thể kinh doanh nhằm mục đích chiếm được lợi ích tối đa, mở rộng thị trường kinh doanh, đòi hỏi phải có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh trên thị trường, cạnh tranh không thể nào xuất hiện khi chỉ có một doanh nghiệp. Mặt khác, khi có sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp nhưng chúng chỉ thuộc một thành phần kinh tế duy nhất thì cạnh tranh cũng không còn ý nghĩa nữa vì cạnh tranh là hiện tượng xảy ra giữa các đối thủ của nhau. Cạnh tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy các chủ thể kinh doanh hoạt động động hiệu quả và tốt hơn khi các doanh nghiệp thuộc về các thành phần kinh tế khác nhau cùng tiến GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 11 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh hành tranh giành một lợi ích trên thị trường, sự đạt được mục đích của người này sẽ dẫn đến thất bại của người kia với những tính toán khác nhau. • Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do lựa chọn, quyết định công việc kinh doanh của mình. Cạnh tranh chỉ diễn ra khi các bên cung, cầu có khả năng lựa chọn, thay thế cũng như được tự do tham gia kinh doanh mà không bị bất kỳ một cản trở nào tức là được bảo hộ về mặt pháp luật. Tự do kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác, hình thức kinh doanh và tự chịu trách nhiệm cho hoạt động kinh doanh sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể chủ động trong việc tiến hành các cuộc cạnh tranh gay gắt để tự tìm cơ hội mở rộng và phát triển thị trường qua đó cũng góp phần làm tăng sự sáng tạo của các chủ thể. Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các doanh nghiệp. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định là người tiêu dùng7. Trong kinh doanh, lợi nhuận chính là mục tiêu hàng đầu thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành cạnh tranh với nhau, muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải trang bị cho mình nguồn lực tài chính vững chắc bên cạnh đó là kiến thức kinh tế, xã hội, có trình độ quản lý và tri thức về khoa học công nghệ cao, có kinh nghiệm thương trường tốt8, nhằm nắm bắt tốt thị hiếu của người tiêu dùng bởi vì chính người tiêu dùng là người quyết định sự thành bại của một sản phẩm, là thước đo sự thành đạt của một chủ thể kinh doanh. Các doanh ngiệp có khả năng thích nghi với sự biến đổi của thị trường thì sẽ thu hút được khách hàng bằng những sản phẩm chất lượng cao, giá cả phù hợp thông qua đó cũng thu hồi được nguồn vốn mình bỏ ra và một khoản lợi nhuận kinh doanh và ngược lại doanh nghiệp yếu kém sẽ không có lợi nhuận và quan trọng hơn là mất khách hàng, rời khỏi thị trường. Đây chính là quy luật cạnh tranh, buộc các chủ thể tham gia trên thị trường phải tiến hành tranh giành với nhau bằng tiềm lực chất xám và tài chính. Cạnh tranh là sự ganh đua, giành giật khách hàng giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau. Khách hàng được coi là trung tâm thị trường, họ là những “trọng tài” vô tư và khách quan nhất, họ sẽ quyết định sự sống còn, tồn tại hay không tồn tại của các chủ thể kinh doanh trong quá trình cạnh tranh trên thị trường9. 7 Cách diễn tả của Nguyễn Như Phát & Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb. Công an nhân dân, 2001. 8 Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt nam, 2009, trang 9. 9 Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 2004, trang 33. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 12 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm. Cạnh tranh không chỉ diễn ra trên thị trường bán sản phẩm giữa những chủ thể kinh doanh tiến hành cung ứng sản phẩm ra thị trường mà nó còn xuất hiện ngay trên thị trường mua giữa các doanh nghiệp mà đối tượng để cạnh tranh chính là nguyên liệu đầu vào. Với sự giục giã của lợi nhuận, nhà kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn ganh đua để có thể tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm mở rộng thị trường. Với sự giúp đỡ của người tiêu dùng, thị trường sẽ chọn ra người thắng cuộc và trao cho họ lợi ích mà họ mong muốn10. Đặc trưng này thể hiện các nội dung sau: • Mục đích lợi nhuận chính là động lực thúc đẩy để các chủ thể kinh doanh tiến hành hoạt động cạnh tranh trên thị trường mua nguyên liệu lẫn thị trường bán sản phẩm. Việc cùng chung mục đích lợi ích sẽ làm cho các doanh nghiệp trở thành đối thủ của nhau, sự tồn tại của cạnh tranh được xác định dựa trên sự tồn tại của thị trường liên quan đến các doanh nghiệp, cạnh tranh với nhau trong cùng một thị trường kinh doanh sản phẩm ở một khu vực nhất định. Trong cùng một không gian, kinh doanh cùng mặt hàng thì sản phẩm của các doanh nghiệp có khả năng thay thế cho nhau, khi đó họ có chung khách hàng hoặc đối tác để tranh giành, có cùng một nguồn lợi ích để hướng đến, từ đó sẽ làm nảy sinh sự ganh đua, kình địch nhằm giành lấy lợi ích cho riêng mình. Khả năng thay thế của một sản phẩm thường được mô tả bằng tính năng sử dụng, tính chất lý hóa và giá cả tương tự nhau11. Mọi sự khác biệt của một trong ba dấu hiệu trên sẽ làm phân hóa nhóm khách hàng tiêu thụ và các sản phẩm đó sẽ không thể thay thế được cho nhau. • Cạnh tranh là cuộc chạy đua không có hồi kết bởi nền kinh tế thị trường luôn vận động và thay đổi liên tục, các doanh nghiệp phải phát triển không ngừng hoạt động kinh doanh của mình để theo kịp sự biến động của kinh tế hội nhập. Cạnh tranh không chỉ có mặt tích cực mà nó còn có cả mặt tiêu cực, nếu nó mang về cho người thắng cuộc sự tín nhiệm của khách hàng và các yếu tố khác như vốn, nguyên liệu, lợi nhuận…thì sẽ làm cho người thua cuộc phải thu hẹp thị trường và cũng có thể phải rút khỏi cuộc đua trên thương trường, vì vậy các chủ thể kinh doanh phải thực sự tài năng trong cuộc tranh giành gay gắt đó. 10 Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006, trang 12. 11 Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006, trang 12. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 13 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh 1.1.1.3. Ý nghĩa của cạnh tranh Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường12. Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế, giống như những quy luật đào thải của tự nhiên, quy luật cạnh tranh có thể mang lại lợi ích cho người chiến thắng cũng như thiệt hại cho người thua cuộc trong một cuộc đua gay gắt nhằm mục đích giành lấy thị trường và người tiêu dùng, nhưng xét về tổng thể các lợi ích mà cạnh tranh mang lại là rất lớn. Cạnh tranh không những có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp mà nó còn là nền tảng cho nền kinh tế phát triển, góp phần cho các doanh nghiệp cải thiện chất lượng hàng hóa phục vụ khách hàng tốt hơn qua từng thời kỳ của xã hội. Cạnh tranh làm cho thị trường diễn ra theo những quy luật tất yếu của cạnh tranh đồng thời làm tăng các giá trị kinh tế trong xã hội. Chung quy cạnh tranh đã mang lại những thành quả tích cực sau13: - Cạnh tranh giúp cho các nhà kinh doanh xác định đúng nhu cầu trên thị trường, giúp họ có thể điều chỉnh hoạt động kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Bởi vì, khi doanh nghiệp nào được người tiêu dùng lựa chọn nghĩa là doanh nghiệp đó đáp ứng được mong muốn của người tiêu dùng và khi đó các doanh nghiệp khác cũng tiến hành cải tiến để được người tiêu dùng lựa chọn. - Cạnh tranh khuyến khích việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, kinh doanh. Khi một doanh nghiệp đưa ra sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường, sản phẩm đó nhanh chóng chiếm được ưu thế và tạo điều kiện để doanh nghiệp thu lợi nhuận cao. Điều này làm cho các doanh nghiệp đối thủ phải tiến hành cải tiến mẫu mã, chất lượng hàng hóa để đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng. Để đạt được điều đó thì các doanh nghiệp phải tăng cường ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến để cải thiện chất lượng sản phẩm đồng thời giảm chi phí sản xuất. Như vậy, khoa học công nghệ ngày càng được phát triển và áp dụng rộng rãi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. - Cạnh tranh sẽ giúp cho nhu cầu của xã hội được đáp ứng ngày càng tốt hơn, làm cho nhu cầu luôn được thỏa mãn một cách tối ưu nhất. Khi cạnh tranh diễn ra, các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau phải chú ý đến những sự thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng để có thể đưa ra những hàng hóa, dịch vụ phù hợp nhất. Điều này làm 12 Cách diễn tả của Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb. Công an nhân dân, H.2001. 13 Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 23-26. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 14 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh cho hàng hóa luôn có xu hướng được đa dạng hóa, chất lượng tốt hơn và giá cả hợp lý hơn. Chức năng này làm cho các doanh nghiệp phải liên tục sáng tạo và phát triển những sản phẩm, dịch vụ mới tốt và hấp dẫn hơn, cả về chất lượng và giá cả. - Cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu nhất. Do quy luật cạnh tranh trên thị trường, các chủ thể khi tham gia kinh doanh muốn đạt được lợi nhuận tối đa thì không thể thực hiện bằng phương thức bóc lột khách hàng mà phải bằng cách tận dụng tối đa các nguồn lực về vật chất và nhân lực của mình vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Họ luôn phải sử dụng một cách tối ưu và hợp lý nhất các nguồn lực tài nguyên này sao cho chi phí sản xuất là thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng hàng hóa. Chính vì đặc điểm này mà nguồn lực tài nguyên được phát huy triệt để, tránh lãng phí. - Cho phép người tiêu dùng có thể lựa chọn người cung cấp cũng như hàng hóa, dịch vụ mà họ muốn. Điều này làm cho họ có thể tránh được những hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng và được bảo vệ khỏi các hành vi tiêu cực của các chủ thể cạnh tranh trên mặt trái của thị trường, ví dụ khi họ áp đặt điều kiện thương mại, lạm dụng quyền lực thị trường đối với khách hàng… - Cạnh tranh cũng định hướng phân phối nguồn lực và thu nhập tương ứng với hoạt động và tính hiệu quả của các chủ thể tham gia thị trường. Cạnh tranh tạo ra áp lực liên tục đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và vì vậy, không một chủ thể kinh doanh nào có thể mãi mãi thu lợi nhuận cao và thống trị hệ thống phân phối trên thị trường. Trong từng thời điểm, một sản phẩm hàng hóa với những ưu điểm tối ưu được sự tín nhiệm của người tiêu dùng, chiếm ưu thế trên thị trường nhưng vị trí đó luôn bị đe dọa bởi những loại sản phẩm cùng loại khác tiến bộ hơn. Có cạnh tranh, các nhà kinh doanh không thể lạm dụng được ưu thế của mình. Vì vậy, cạnh tranh là một yếu tố tác động tích cực đến việc phân phối và điều hòa thu nhập. - Cạnh tranh là một quá trình lựa chọn những chủ thể đủ năng lực và loại bỏ những chủ thể kinh doanh kém hiệu quả, đồng thời mở ra cơ hội cho những chủ thể mới tốt hơn, năng động hơn gia nhập thị trường. Song hành cùng cạnh tranh là quy luật đào thải những chủ thể hoạt động kém hiệu quả. Khi tham gia vào thị trường các doanh nghiệp phải luôn “làm mới mình” để đáp ứng nhu cầu luôn vận động của khách hàng. Vì thế, những doanh nghiệp nào có năng lực sản xuất tốt nhất thì sẽ thỏa mãn được yêu cầu của người tiêu dùng, có thể chiếm được ưu thế trên thị trường, ngược lại doanh nghiệp kém linh hoạt, hoạt động kém hiệu quả thì sẽ bị cạnh tranh loại bỏ ra khỏi thị trường. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 15 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh - Cạnh tranh công bằng sẽ làm giảm việc tích lũy quyền lực kinh tế và đồng thời làm giảm tình trạng độc quyền, tập trung kinh tế. Khi nền kinh tế mở cửa thị trường, cạnh tranh là quyền tự do của các doanh nghiệp thì quyền lực thị trường của các chủ thể kinh doanh luôn thay đổi theo từng thời kỳ. Thị phần của các doanh nghiệp trên thị trường không đứng im mà luôn luôn thay đổi, do các doanh nghiệp tiềm năng có thể gia nhập thị trường hoặc sự mở rộng thị trường của các doanh nghiệp đang hoạt động, quy luật này đã làm cho tình trạng độc quyền giảm xuống một cách đáng kể. 1.1.2. Tổng quan về pháp luật cạnh tranh 1.1.2.1. Khái niệm pháp luật cạnh tranh Pháp luật xuất hiện là do nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và phải phù hợp với nền tảng của xã hội. Cơ sở cho sự ra đời của pháp luật cạnh tranh chính là sự chuyển đổi cơ cấu từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, mà nền tảng của kinh tế thị trường chính là sự tự do kinh doanh, tự do lựa chọn ngành nghề…theo đó có tự do cạnh tranh. Nhiệm vụ chính của pháp luật cạnh tranh chính là điều chỉnh quan hệ cạnh tranh thông qua việc quy định các hành vi ứng xử của chủ thể tham gia kinh doanh cũng như các biện pháp tác động cần thiết đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, việc ban hành đạo luật cạnh tranh chính là tạo cơ sở pháp lý nhằm mục đích đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng cho các chủ thể cạnh tranh khi tham gia vào thị trường. Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật cạnh tranh bao gồm: “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh; Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh; Những quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong các văn bản pháp luật có liên quan”. Theo nghĩa hẹp, pháp luật cạnh tranh là một đạo luật và những văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh hoạt động cạnh tranh nhằm bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị trường cũng như môi trường cạnh tranh bình đẳng và công bằng14. Người ta có thể tiếp cận pháp luật cạnh tranh từ hai góc độ: những công cụ pháp luật bảo đảm để cạnh tranh có thể diễn ra (pháp luật chống hạn chế cạnh tranh), những công cụ đảm bảo cho cạnh tranh diễn ra một cách văn minh và công bằng (pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh). Điểm khác biệt trọng yếu giữa hai nhóm luật này thể hiện ở chổ: luật kiểm soát hạn chế cạnh tranh xóa bỏ cản trở để cuộc cạnh tranh được diễn ra và ngược lại trong cuộc ganh đua đó xuất hiện hành vi bất chính thì chúng được xử lý bởi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, mọi cách phân chia 14 Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009, trang 38. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 16 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh đều tương đối, khó tránh khỏi chồng chéo, các hành vi bán phá giá, phân biệt đối xử, tẩy chay…vừa có thể là dấu hiệu lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để cản trở cạnh tranh vừa mang tính cạnh tranh không lành mạnh – chúng có thể đồng thời thuộc phạm vi điều chỉnh của cả hai nhóm pháp luật kể trên. 1.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật cạnh tranh Pháp luật cạnh tranh được ban hành nhằm mục đích điều tiết nền kinh tế, đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh tham gia vào thị trường được cạnh tranh một cách công bằng bằng cách sử dụng những thủ thuật kinh doanh khác nhau nhưng phải không trái với quy định của pháp luật để đạt được mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Do đó, pháp luật cạnh tranh có một số đặc điểm cơ bản sau15: - Pháp luật cạnh tranh là một bộ phận của pháp luật điều tiết thị trường nên nó được xây dựng hết sức mềm dẻo để thích ứng với việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh rất đa dạng trên thị trường. Tính mềm dẻo làm cho nhiều hành vi (nhất là trong pháp luật chống hạn chế cạnh tranh) được điều chỉnh ở dạng “có thể bị cấm”. Bởi vậy, khi áp dụng luật, các cơ quan có thẩm quyền thường phải hết sức linh hoạt, cân nhắc lợi ích của các bên trong mỗi trường hợp cụ thể nhằm vừa đảm bảo khuyến khích cạnh tranh, vừa hạn chế những hành vi cạnh tranh trái pháp luật. - Do có nhiệm vụ chính là điều tiết thị trường, điều tiết nền kinh tế, cho nên pháp luật cạnh tranh có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế và phải phù hợp với các chuẩn mực kinh tế. Các quy định pháp luật có liên quan chặt chẽ đến học thuật, kiến thức của kinh tế. Do đó, khi áp dụng các quy phạm pháp luật cạnh tranh vào các trường hợp cụ thể, về cơ bản người ta thường sử dụng phương pháp tiếp cận dưới giác độ kinh tế. - Pháp luật cạnh tranh mang đặc điểm của cả luật công lẫn luật tư, nó nội hàm những vấn đề liên quan đến kinh tế của nhiều lĩnh vực pháp luật quan trọng như: dân sự, thương mại, hành chính… Vì vậy, pháp luật cạnh tranh không có chế tài riêng, khi áp dụng người ta phải sử dụng chế tài của một số lĩnh vực pháp luật khác, đó có thể là chế tài dân sự (áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chủ yếu là bồi thường thiệt hại, buộc chấm dứt hành vi vi phạm…) hoặc chế tài hành chính (áp dụng đối với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, tập trung kinh tế, chủ yếu là phạt tiền). - Khác với các lĩnh vực pháp luật khác, ngoài các quy định về nội dung điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh còn có các quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh. 15 Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009, trang 39-40. GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 17 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh 1.1.2.3. Vai trò của pháp luật cạnh tranh Pháp luật cạnh tranh luôn có hai lĩnh vực cơ bản là pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh nhưng cả hai lĩnh vực pháp luật này đều hướng tới mục đích chung là góp phần tạo lập và thúc đẩy môi trường kinh doanh bình đẳng, tự do cũng như bảo vệ, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh để bảo đảm cho cạnh tranh được diễn ra đúng ý nghĩa vốn có và không trái với quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, các chủ thể cạnh tranh và của Nhà nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế - xã hội. 1.2. Những vấn đề chung về hành vi hạn chế cạnh tranh 1.2.1. Khái niệm và ảnh hưởng của hành vi hạn chế cạnh tranh Nguyên tắc tự do cạnh tranh được pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh, các tập đoàn có sức mạnh kinh tế đã dùng quyền lực tài chính, công nghệ để hạn chế quyền tự do của các chủ thể khác ngày càng diễn ra phổ biến. Đây là tiền đề cho sự ra đời của pháp luật chống hành vi hạn chế cạnh tranh. Nếu như Luật cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới sử dụng chống hoặc kiểm soát độc quyền hay Tờ - rớt thì Luật Cạnh tranh của Việt Nam sử dụng khái niệm “hạn chế cạnh tranh”. Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì “Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hay tập trung kinh tế”. Định nghĩa trên cũng tạo ra cơ cấu pháp luật về các nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh theo thông lệ quốc tế, bao gồm 3 bộ phận: - Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Các – ten); - Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (bao gồm cả vị trí độc quyền); - Tập trung kinh tế. Để phân biệt hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh, chúng ta dựa vào sự ảnh hưởng của chúng đối với mức độ cạnh tranh trên thị trường thông qua đối tượng mà chúng xâm hại và hậu quả xảy ra. Do hành vi hạn chế cạnh tranh nguy hại về mức độ cũng như trên phạm vi rộng lớn hơn cho thị trường so với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nên pháp luật chống hạn chế cạnh tranh thường có biện pháp xử lý nghiêm khắc hơn. Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi thỏa thuận nào cũng bị xem là bất hợp pháp mà chỉ khi nào chúng rơi vào các trường hợp do luật liệt kê thì GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 18 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh mới bị cấm. Ngoài ra còn có rất nhiều trường hợp ngoại lệ về hạn chế cạnh tranh có thể được miễn trừ khi có những lý do kinh tế chính đáng16. Vì đây là pháp luật bảo vệ tự do cạnh tranh, bảo vệ cơ cấu và tương quan trên thị trường nên phải cân nhắc đến quyền lợi của nhiều bên trong quan hệ cạnh tranh. 1.2.2. Đặc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh Tuy có nhiều dạng biểu hiện khác nhau nhưng những hành vi hạn chế cạnh tranh này đều có chung những đặc điểm cơ bản sau17: - Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh Theo Luật Cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, doanh nghiệp là chủ thể của hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo Điều 2 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì doanh nghiệp là các tổ chức và cá nhân kinh doanh, vì vậy, các chủ thể khác như các Hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam và các cơ quan quản lý Nhà nước có những hành vi hạn chế cạnh tranh… thì những hành vi đó không được coi là hành vi hạn chế cạnh tranh theo định nghĩa nói trên. - Thứ hai, về mục đích của hành vi hạn chế cạnh tranh Hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều tác động xấu đến môi trường kinh doanh, làm hạn chế, thậm chí triệt tiêu sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng và lành mạnh, gây khó khăn và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và của chủ thể khác. Tuy nhiên, mức độ nguy hại của hai nhóm hành vi này là khác nhau. Theo quy định của Luật Cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh khi thực hiện sẽ nhằm mục đích làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, thế nào là giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường thì Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 lại không giải thích. Lý giải về điều này là do, hành vi hạn chế cạnh tranh có nhiều loại khác nhau nên không thể đưa ra một khái niệm chung chứa đựng những căn cứ cụ thể để xác định khả năng và mức độ thiệt hại của nó đối với thị trường. Theo đó, từng hành vi hạn chế cạnh tranh có thể làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường ở những mức độ khác nhau. Mục đích thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh là làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường nên những hành vi này có thể làm biến dạng môi trường cạnh tranh, làm thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan giữa các doanh nghiệp. Thậm chí nhiều 16 Tăng Văn Nghĩa, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009, trang 43. Bùi Ngọc Cương, Đồng Ngọc Ba, Lê Đình Vinh, Đoàn Trung Kiên, Giáo trình Luật thương mại, Nxb Giáo dục Việt nam, 2010, trang 74. 17 GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 19 SVTH: Lâm Cẩm Thi Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh hành vi hạn chế cạnh tranh còn có khả năng củng cố và duy trì vị thế thống lĩnh và độc quyền trên thị trường, làm lũng đoạn thị trường, bóc lột khách hàng qua đó ảnh hưởng chung đến nền kinh tế. Vì vậy, Nhà nước sẽ có cơ chế và mức độ can thiệp nghiêm khắc đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh so với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. - Thứ ba, về nội dung của hành vi hạn chế cạnh tranh Nội dung của hành vi hạn chế cạnh tranh thường tập trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp đang cạnh tranh với nhau về giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện kí kết hợp đồng… Khi hành vi hạn chế cạnh tranh xuất hiện thì các yếu tố trên sẽ trở thành tiêu chuẩn thống nhất, triệt tiêu đi sự cạnh tranh trên thị trường. 1.2.3. Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh 1.2.3.1. Xác định thị phần, tổng thị phần Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 tại khoản 5 Điều 3 “Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm”. Như vậy, căn cứ để xác định thị phần là: tổng doanh thu hoặc doanh số của tất cả các doanh nghiệp cùng trên một thị trường liên quan; doanh thu hoặc doanh số của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp bị điều tra. Thị phần là một tiêu chí quan trọng để xác định sự thành công và là chỉ số cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp trên thị trường, có thể xác định thị phần của doanh nghiệp theo công thức: thị phần của doanh nghiệp X = (doanh thu của doanh nghiệp X/tổng doanh thu hoặc doanh số của ngành) * 100. Theo khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định “Thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế”. Trong trường hợp có nhiều doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế thì sẽ xác định thị phần của từng doanh nghiệp có liên quan trong vụ việc, sau đó tính tổng thị phần của các doanh nghiệp đó trên thị trường liên quan sẽ tính được thị phần kết hợp. Tuy nhiên, thị phần luôn thay đổi theo thời gian chứ không cố định lâu dài, mọi diễn biến trên thị trường hoặc những yếu tố khách quan khác đều có thể ảnh hưởng đến cấu trúc thị phần của thị trường GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân Trang 20 SVTH: Lâm Cẩm Thi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan