Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các di tích tiền óc eo ở vùng tứ giác long xuyên trong quá trình hình thành văn ...

Tài liệu Các di tích tiền óc eo ở vùng tứ giác long xuyên trong quá trình hình thành văn hóa óc eo ở miền tây nam bộ tt

.PDF
14
163
122

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUỐC MẠNH CÁC DI TÍCH TIỀN ÓC EO Ở VÙNG TỨ GIÁC LONG XUYÊN TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VĂN HÓA ÓC EO Ở NAM BỘ Chuyên ngành: Khảo cổ học Mã số: 9.22.90.17 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC HÀ NỘI-2019 Công trình được hoàn thành tại: DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 1. Nguyễn Quốc Mạnh (2008), Gốm cổ Gò Me (Nhơn Trạch-Đồng Nai) trong quá trình phát triển tiền sử Đông Nam Bộ, Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam-tập 3, Nxb. KHXH, tr. 177-228. Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI CHÍ HOÀNG 2. Nguyễn Quốc Mạnh, Cao Kiều Thúy Linh (2014), Khu di tích Nhơn Thành-Tư liệu và nhận thức, TCKHXH (số 8/2014), tr.97-111. 3. Nguyễn Quốc Mạnh (2015), Di tích tiền sử muộn ở An Giang-Đặc Phản biện 1: PGS. TS. Hoàng Văn Khoán trưng và niên đại, TCKHXH (số 11/2015), tr. 80-96. Phản biện 2: PGS. TS. Tống Trung Tín 4. Nguyễn Quốc Mạnh (2016), Một số vấn đề về niên đại văn hóa Óc Phản biện 3: TS. Phạm Quốc Quân Eo ở tỉnh An Giang. Kỷ yếu Hội thảo “Giá trị di sản văn hóa Óc Eo-An Giang trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội”, tr. 116-130. 5. Lê Thị Liên, Nguyễn Quốc Mạnh, Nguyễn Thị Mai Hương (2016), Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện Context of the port-cities establishment in the coast of Southern họp tại Học viện Khoa học Xã hội Vietnam: Understanding from recent surveys, Southeast Asia Regional Vào hồi………. giờ……phút, ngày……tháng……. năm 2019. Centre for Archaeologie and Fine Arts, from 30th May to 2nd June 2016), Bangkok, Thailand, pp. 160-177. 6. Bùi Chí Hoàng, Nguyễn Quốc Mạnh, Lê Hoàng Phong (2018), Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Khảo cổ học Nam Bộ thời sơ sử, Nxb. KHXH, Hà Nội. Thư viện Quốc gia Việt Nam Thư viện Học viện Khoa học Xã hội 25 Trên không gian Nam Bộ, dấu ấn của giai đoạn chuyển tiếp này cũng thể hiện rất rõ ở các khu vực hay phân vùng địa lý khác nhau, gắn liền với quá trình chinh MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án phục và làm chủ vùng đồng bằng thấp. Sự hình thành các trung tâm dân cư mang Tìm hiểu nguồn gốc của văn hóa Óc Eo là một nội dung nghiên cứu quan tính chất cảng thị sơ khai ở các vùng cửa sông là kết quả từ việc quá trình gia tích trọng. Các học giả người Pháp ngay từ giai đoạn tiếp cận đầu tiên với nền văn hóa cực vào hệ thống thương mại quốc tế đã được định hình và phát triển mạnh mẽ từ này đã có những nhận xét về vai trò quan trọng của cơ tầng bản địa của nó. nửa sau thiên niên kỷ I BC mà Đông Nam Á là cửa ngõ kết nối quan trọng. Với những thành tựu nghiên cứu trong những thập niên gần đây, chúng ta đã có thể xác lập một phổ hệ phát triển văn hóa tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên Sau nhiều thập niên khám phá, khảo cổ học đã dần nhận diện được các yếu tố mầm mống của văn hóa Óc Eo trong nhiều di tích hậu kỳ Kim khí-sơ kỳ Sắt, thể hiện mối quan hệ gần gũi với giai đoạn mở đầu của nền văn hóa này. nói riêng và đồng bằng Nam Bộ nói chung. Và, riêng vùng Tứ Giác Long Xuyên Vùng Tứ Giác Long Xuyên là không gian chính của văn hóa Óc Eo, ở đây gồm có ba giai đoạn phát triển liên tục, tương ứng với quá trình phát triển từ thời cũng có nhiều di tích tiền Óc Eo đã được phát hiện, song việc nghiên cứu về mối Tiền sử sang Sơ sử, từ thời tiền Óc Eo phát triển lên văn hóa Óc Eo. Trong đó, giai quan hệ giữa chúng còn nhiều khoảng trống cần được làm rõ. đoạn văn hóa 2 là giai đoạn có tính chất chuyển tiếp, là bước phát triển quá độ từ Từ nhu cầu thực tiễn và sự cần thiết đối với công tác nghiên cứu văn hóa Óc Eo thời Tiền sử sang văn hóa Óc Eo, có thể gọi là “giai đoạn tiền Óc Eo” (proto-Óc hiện nay, vấn đề “các di tích tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên trong quá Eo), hay có thể lấy tên di chỉ Giồng Xoài (Óc Eo - Ba Thê) làm tên gọi cho giai trình hình thành văn hóa Óc Eo ở miền Tây Nam Bộ” được chọn làm nội dung đoạn chuyển tiếp này - giai đoạn Giồng Xoài. nghiên cứu của luận án. Trong bối cảnh chung của văn hóa Tiền sử - Sơ sử ở Nam Bộ, vùng Tứ Giác 2. Mục đích nghiên cứu Long Xuyên hội tụ các điều kiện cần và đủ về điều kiện thông tin, môi trường, vị trí Mục đích nghiên cứu của luận án là hệ thống tư liệu tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác địa lý, cư dân… để nhanh chóng phát triển và nổi lên là một địa điểm dân cư - kinh Long Xuyên; Làm rõ đặc trưng văn hóa, quan hệ văn hóa, niên đại,phân kỳ quá tế - văn hóa lớn nhất của Nam Bộ. Để từ đây, khởi phát nên một nền văn hóa - văn trình phát triển từ tiền Óc Eo sang văn hóa Óc Eo. minh đô thị đầu tiên ở Nam Bộ và khu vực, là văn hóa Óc Eo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Qua việc làm rõ phức hệ phát triển tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên và vị trí quan trọng của nó trong quá trình hình thành văn hóa Óc Eo ở miền Tây Nam - Đối tượng nghiên cứu: di tích, di vật tiền Óc Eo-Óc Eo sớm ở vùng Tứ Giác Long Xuyên, đặt trong bối cảnh Nam Bộ và khu vực. Bộ, có thể nhận thức được rằng đô thị cổ Óc Eo hẳn đã hình thành trên một vùng - Khung thời gian nghiên cứu từ nửa sau thiên niên kỷ I TCN sang đầu CN; đất được tạo dựng và chinh phục bởi những cư dân bản địa, trên một truyền thống không gian nghiên cứu: vùng Tứ Giác Long Xuyên, nghiên cứu so sánh trên địa văn hóa có cội nguồn từ văn hóa tiền sử ở Nam Bộ trong đó vùng tư liệu khảo cổ bàn Nam Bộ và khu vực. học phát hiện trong khu vực Tứ Giác Long Xuyên đóng vai trò rất quan trọng. 4. Các phương pháp luận và phương pháp đã sử dụng - Các phương pháp điền dã khảo cổ học, mô tả, nghiên cứu so sánh. - Phương pháp thống kê, phân tích số liệu. 24 1 - Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Lý thuyết về văn hóa vùng và phân vùng văn hóa, lý thuyết về giao lưu và tiếp KẾT LUẬN Công trình luận án đã tập hợp, hệ thống hóa, phân loại khối tư liệu tiền Óc Eo biến văn hóa, lý thuyết về di cư, lý thuyết về sự hình thành đô thị cổ. và Óc Eo sớm ở vùng Tứ Giác Long Xuyên và Nam Bộ. Xử lý và phân lập được 5. Những đóng góp chính của luận án: các giai đoạn phát triển văn hóa của vùng Tứ Giác Long Xuyên gồm ba giai đoạn Hệ thống tư liệu, làm rõ đặc trưng cơ bản của các loại hình di tích-di vật tiền Óc Eo, niên đại và các giai đoạn phát triển từ tiền Óc Eo sang văn hóa Óc Eo. Xác định mối quan hệ với các di tích tiền Óc Eo ở Nam Bộ và làm rõ vị trí của vùng TGLX trong quá trình hình thành VHOE. phát triển. Vùng Tứ Giác Long Xuyên là một bộ phận cấu thành quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Nam Bộ cũng như của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Những dấu tích sớm nhất của con người ở vùng này có mối quan hệ truyền 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Tư liệu được tổng hợp, phân tích trong đề tài góp phần đem lại nguồn tư liệu thống lâu dài với văn hóa tiền sử Đông Nam Bộ, đặc biệt là lưu vực sông Vàm Cỏ. đầy đủ đối với việc tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề sự hình thành của VHOE ở vùng Ba giai đoạn văn hóa được xác định ở vùng Tứ Giác Long Xuyên tương ứng TGLX và Nam Bộ. với quá trình phát triển liên tục từ tiền Óc Eo lên văn hóa Óc Eo. Nó gắn với quá Góp phần làm rõ lịch sử hình thành của đồng bằng sông Cửu Long. trình dịch chuyển từ không gian truyền thống ở thềm đất cao phù sa cổ xuống Đề tài góp phần xác lập một truyền thóng phát triển, nhận thức đầy đủ về một chinh phục các vùng đất thấp và miền phù sa mới châu thổ sông Cửu Long nhanh giai đoạn lịch sử quan trọng của vùng đất Nam Bộ. chóng trở thành không gian trung tâm định hình các cấu trúc kinh tế, xã hội mới - 7. Kết cấu của luận án văn hóa Óc Eo. Việc làm rõ mối quan hệ giữa giai đoạn văn hóa 2 và 3 đã phản Luận án có phần mở đầu và kết luận, phần nội dung gồm ba chương: ánh cụ thể cho sự phát triển liên tục, có tính chất kế thừa và tính chuyển tiếp từ giai Chương 1: Tổng quan nghiên cứu (25 trang) đoạn tiền Óc Eo sang giai đoạn Óc Eo sớm. Quá trình chuyển tiếp này thể hiện trên Chương 2: Di tích, di vật tiền Óc Eo ở vùng TGLX (61 trang) nhiều mặt, từ không gian phân bố đến phương thức sản xuất, nội hàm văn hóa, từ Chương 3: Đặc trưng, niên đại và quan hệ văn hóa (51 trang) cấu trúc làng cổ truyền thống đến đô thị/cảng thị phát triển ở đầu Công nguyên. Trên cơ tầng văn hóa truyền thống được kế thừa, sự phát triển của nông nghiệp Chương 1: Tổng quan nghiên cứu 1.1. Đặc điểm địa lý, môi trường vùng Tứ Giác Long Xuyên 2 Vùng Tứ Giác Long Xuyên có diện tích khoảng 4.900km , phân bố trên địa bàn hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, địa hình có đặc điểm phân bậc từ cao xuống thấp, gồm thềm cao phù sa cổ quanh các khối núi sót và đồng bằng châu thổ phù sa mới có đặc điểm mở rộng nối thông với vùng vịnh Thái Lan. Trên không gian vùng Tứ Giác Long Xuyên có thể chia ra thành ba khu vực, mỗi khu vực có đặc điểm địa lý, môi trường với các di tích khảo cổ học đặc trưng. 2 thúc đẩy các ngành thủ công và trao đổi thương mại mở rộng là những tiền đề đưa đến sự tiếp nhận những yếu tố văn hóa ngoại sinh - có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của văn hóa Óc Eo vào đầu Công nguyên. Địa bàn miền tây sông Hậu vào giai đoạn chuyển tiếp ở đầu Công nguyên có một hệ thống di tích tiền Óc Eo có nội hàm văn hóa thể hiện mối quan hệ chặt chẽ với giai đoạn sớm trong văn hóa Óc Eo và có vai trò chính đối với quá trình hình thành và phát triển của nền văn hóa này. 23 càng phổ biến của các loại đồ trang sức bằng thủy tinh, đá quý, đồ gốm mịn, vật liệu kiến trúc (ngói lợp)… Có thể nói, mối quan hệ thương mại, văn hóa với Ấn Khu vực Núi Sam-Bảy Núi: là không gian có địa hình bán sơn địa với các di tích cư trú tiền Óc Eo và di tích kiến trúc Óc Eo muộn. Độ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của vùng đất Nam Bộ nói riêng, Khu vực Thoại Sơn-Núi Sập: hai dạng địa hình thềm cao phù sa cổ đan xen góp phần định hình nên một cấu trúc văn hóa mới, định chế xã hội mới mang đặc với đồng bằng trũng thấp, là không gian tập trung nhiều di tích văn hóa Óc Eo có điểm quốc gia sớm hình thành đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á vào đầu Công quy mô lớn như Óc Eo-Ba Thê, Đá Nổi (An Giang). nguyên - vương quốc Phù Nam. Khu vực Hà Tiên-Rạch Giá: là dải đồng bằng thấp trũng cận biển có các con sông ngắn kiểu lạch triều, có cửa đổ vào vịnh Thái Lan. Ở đây có các di tích tiền 3.5. Vấn đề chủ nhân văn hóa Óc Eo Trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long đã có những nghiên cứu về mặt nhân Óc Eo như K9, Giồng Cu, Xoa Ảo bên cạnh các khu di tích Nền Chùa, Đá Nổi … học qua các mẫu sọ cổ thu thập được ở Óc Eo-Ba Thê, Cạnh Đền, Gò Tháp… có Lịch sử hình thành vùng Tứ Giác Long Xuyên gắn liền với lịch sử thành tạo kết quả phân tích phản ánh dấu ấn của loại hình nhân chủng Indonesien hay vùng đất Nam Bộ, trải qua quá trình vận động địa chất, bồi tụ… với đặc trưng nổi Malayo Polynesien. bật là hệ thống núi sót và địa hình thềm cao phù sa cổ và vùng đồng bằng. Vùng Kết hợp tài liệu nhân học, văn liệu cổ và tư liệu khảo cổ học với các hiện vật đồng bằng phù sa mới của vùng tứ giác có đặc điểm hình thành dưới tác động của mang đậm nét văn hóa của vùng hải đảo cho chúng ta nhận thức về dấu ấn hải đảo các đợt biển tiến-thoái, đặc biệt là dao động trong Holocene II và III đã tác động của cư dân văn hóa Óc Eo bên cạnh sự đa dạng sắc thái trong nền văn hóa này. mạnh đến đặc điểm địa hình và phân bố các di tích khảo cổ học tiền Óc Eo và văn 3.6. Tiểu kết chương 3 hóa Óc Eo, gắn liền với các phân bậc thềm: > +5m (2.700-2.200BP), +2m đến Trên cơ sở tư liệu đã được phân loại, thống kê ở chương 2, vùng Tứ Giác Long +3m (2.200-2.000BP) và từ +1 đến +2m (thế kỷ I-III AD). Nói cách khác, quá Xuyên có ba giai đoạn phát triển liên tục từ tiền Óc Eo sang giai đoạn Óc Eo sớm, trình hạ thấp dần của mực nước biển có tác động quyết định đối với sự hình thành phản ánh quá trình phát triển chuyển tiếp từ thời Tiền sử sang Sơ sử, từ tiền Óc Eo đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, cũng là một trong những điều kiện cần thiết sang văn hóa Óc Eo. và tối quan trọng đối với sự hình thành văn hóa Óc Eo vào đầu Công nguyên. Vùng Tứ Giác Long Xuyên là một bộ phận trong tổng thể quá trình phát triển 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu văn hóa tiền-sơ sử của Nam Bộ, có quan hệ chặt chẽ với các vùng/khu vực khác 1.2.1. Thời kỳ trước năm 1975 gắn với bước đầu phát hiện và những nghiên cứu nhau cũng như có vai trò quan trọng trong hệ thống thương mại quốc tế. tập trung vào vấn đề đô thị, quốc gia cổ… của các học giả người Pháp. Trên cơ sở Với những điều kiện đặc thù và đặc điểm thuận lợi riêng, vùng Tứ Giác Long đánh giá nội hàm văn hóa của văn hóa Óc Eo, căn cứ vào tư liệu vật chất thời tiền Xuyên đã nhanh chóng phát triển từ nửa cuối thiên niên kỷ I trước Công nguyên để sử phát hiện ở miền tây sông Hậu, các học giả người Pháp đều nhận thấy vai trò vượt lên trở thành trung tâm hội tụ, là trung tâm dân cư, trao đổi thương mại lớn quan trọng của cơ tầng bản địa trong nền văn hóa này. của vùng đất Nam Bộ và quốc tế, để đưa đến sự hình thành văn hóa Óc Eo vào đầu 1.2.2. Thời kỳ sau năm 1975 đến nay các nhà khảo cổ học Việt Nam xác định rõ Công nguyên. Và nhà nước cổ đại đầu tiên ở khu vực - vương quốc Phù Nam cơ tầng bản địa là nền tảng cho sự hình thành của văn hóa Óc Eo, gắn liền với sự cũng được hình thành trên nền tảng vật chất của nền văn hóa này. phát triển của thời đại kim khí. Thông qua những phát hiện mới ở Dầu Giây (Xuân 22 3 Lộc), lưu vực sông Đồng Nai vùng ngập mặn miền Đông Nam Bộ… văn hóa tiền Nam Bộ, trong cùng một truyền thống văn hóa lâu dài ở Nam Bộ. Trong quá trình sử Đồng Nai hay văn hóa tiền sử Đông Nam Bộ được cho là nền tảng vật chất có phát triển đỉnh cao của thời đại kim khí, sự mở rộng các hoạt động thương mại vai trò trực tiếp đối với sự hình thành của văn hóa Óc Eo. trong khu vực và quốc tế đã hình thành nên những trung tâm dân cư có cấu trúc Những phát hiện mới ở khu vực Cần Giờ, Vàm Cỏ và Tứ Giác Long Xuyên tiền đề của đô thị cảng ở các vùng cửa sông của Nam Bộ như khu vực Cần Giờ- gồm các yếu tố là mầm mống nảy sinh của văn hóa Óc Eo dần được nhận diện. bán đảo Long Sơn, vùng rìa phía bắc Đồng Tháp Mười đến vùng Tứ Giác Long Theo đó, khái niệm “tiền Óc Eo” định hình cùng với sự phổ biến của giả thuyết về Xuyên. Trên một bình tuyến phát triển văn hóa-xã hội chung của Nam Bộ và khu sự hình thành đa tuyến của văn hóa Óc Eo, được các nhà khảo cổ học Việt Nam cụ vực, mối liên hệ trao đổi giữa các khu vực định hình và phát triển thông qua thể hóa qua ba tuyến phát triển: Giồng Cá Vồ-Giồng Phệt-Giồng Lớn; Gò Cao Su- thương mại và được gắn kết trên nền tảng truyền thống văn hóa tiền sử Đông Nam Gò Ô Chùa-Gò Hàng và một tuyến qua di chỉ Gò Cây Tung (tuyến sông Hậu). Bộ đã hình thành từ trước đó. Bên cạnh quan điểm về sự hình thành đa tuyến còn có tiếp cận khác về những 3.4. 3. Quan hệ với duyên hải miền Trung yếu tố phát triển văn hóa tiền Óc Eo ở Nam Bộ khi xem xét vấn đề trên bình diện Mối quan hệ giữa vùng Tứ Giác Long Xuyên với duyên hải miền Trung Việt tổng thể văn hóa tiền-sơ sử ở Nam Bộ. Từ kết quả phân tích và nhận diện đặc trưng Nam thể hiện rõ nét qua các loại đồ gốm và táng tục mộ vò xuất hiện trong giai kinh tế, văn hóa, xã hội ở từng vùng/khu vực cụ thể và xem xét quá trình hình đoạn văn hóa 3-giai đoạn Óc Eo sớm vào đầu Công nguyên. Có thể thấy mối quan thành văn hóa Óc Eo đặt trong nền cảnh chung của văn hóa Tiền-Sơ sử Nam Bộ. hệ này được thể hiện rất rõ nét qua mộ vò Linh Sơn Nam, đồ gốm kiểu Sa Huỳnh 1. 3. Tiểu kết chương 1 thời đại sắt… Mối quan hệ này được định hình và phát triển trong sự phát triển của Kết quả nghiên cứu cho thấy điều kiện tự nhiên môi trường có vai trò quan hệ thống trao đổi thương mại đường hàng hải quốc tế kết nối phương Đông và trọng đối với quá trình định cư và phát triển của con người ở đồng bằng sông Cửu phương Tây. Long nói chung và vùng Tứ Giác Long Xuyên nói riêng, cũng như là điều kiện cần 3.4.4. Quan hệ với khu vực Đông Nam Á thiết cho sự ra đời và phát triển của nền văn hóa Óc Eo. Văn hóa Óc Eo có nội hàm gồm hai thành tố nội sinh và ngoại nhập, trong đó Vùng Tứ Giác Long Xuyên có mối quan hệ với vùng hải đảo từ rất sớm, thể hiện qua bộ công cụ đá, vòng trang sức đá. Trong các giai đoạn 2 và 2, mối quan truyền thống, bản địa có vai trò then chốt. Quanh vấn đề này có hai quan niệm: hệ này tiếp tục phát triển cùng với sự hình thành của hệ thống trao đổi thương mại 1. văn hóa Óc Eo được hình thành từ các tuyến phát triển tiền Óc Eo; quốc tế đường biển, trong đó, vùng Tứ Giác Long Xuyên nhanh chóng phát triển 2. Văn hóa Óc Eo hình thành trên cơ tầng văn hóa Tiền sử bản địa, gắn với sự phát trở thành trung tâm trong hệ thống này. triển lan tỏa từ vùng đất cao xuống miền đồng bằng thấp, trên một bình tuyến văn 3.4.5. Quan hệ giữa vùng Tứ Giác Long Xuyên với Ấn Độ hóa chung của Nam Bộ. Qua các tài liệu hiện vật gốm, ngói, đồ trang sức,… có thể thấy ngay từ nửa Vùng Tứ Giác Long Xuyên là địa bàn quan trọng đối với việc nghiên cứu và cuối thiên niên kỷ I BC, vùng Tứ Giác Long Xuyên đã có mối quan hệ trao đổi nhận thức vấn đề nguồn gốc của văn hóa Óc Eo với nhiều di tích đã được phát hiện thường xuyên và lâu dài với văn hóa Ấn Độ. Và, dấu ấn văn hóa Ấn Độ ngày càng và nghiên cứu. sâu đậm trong nội hàm văn hóa cư dân vùng đất này, thể hiện qua sự có mặt ngày 4 21 - Giai đoạn 1 (2.700-2.200BP): Gò Cây Tung giai đoạn 1. Đặc điểm thành tạo vùng Tứ Giác Long Xuyên gắn liền với quá trình hình - Giai đoạn 2 (2.200-2.000 BP) : Gò Cây Tung giai đoạn 2 Giồng Xoài, K9. thành và phát triển của miền đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Các phân bậc địa - Giai đoạn 3 (2.000-1.800BP, hay thế kỷ I - III AD): lớp văn hóa sớm ở Gò Óc hình và sự mở rộng đồng bằng trong khoảng thiên niên kỷ I TCN sang đầu CN có Eo, Gò Cây Thị, Gò Tư Trâm, Linh Sơn Nam. Mối quan hệ có tính kế thừa ở các loại hình di tích-di vật phản ánh quá trình tác động mạnh mẽ đối với quá trình hình thành và phát triển của lớp cư dân đầu tiên trên miền đồng bằng châu thổ, phản ánh một phần quan trọng sự hình thành phát triển liên tục từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 3. Trong đó, giai đoạn văn hóa 2 có của văn hóa Óc Eo. tính chất chuyển tiếp được thể hiện trên nhiều đặc điểm phân bố di tích, loại hình di Chương 2: Di tích-di vật tiền óc eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên tích cũng như là sự chuyển biến từ mô hình cấu trúc làng-xưởng của vùng cao đến 2.1. Di tích làng thủ công-thương mại ở các gò-giồng ở các cửa sông, từ cấu trúc cộng đồng làng nông nghiệp nương rẫy truyền thống phát triển trên vùng cao phù sa cổ sang Di tích tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên phát hiện trên ba khu vực phân bậc địa hình, gồm: hình thức tổ chức mang tính chất đô thị, các cảng-thị hình thành và phát triển mạnh * Nhóm di tích ở khu vực Núi Sam-Bảy Núi ở vùng đất thấp phù sa mới, trên các cửa sông nhìn ra vùng vịnh Thái Lan. Các di tích được phát hiện phân bố trên các thềm gò cao phù sa cổ tập trung 3.4. Vùng Tứ Giác Long Xuyên trong bối cảnh văn hóa tiền Óc Eo ở Nam Bộ 3.4.1. Quan hệ với vùng Vàm Cỏ-Đồng Tháp Mười Giữa vùng Tứ Giác Long Xuyên với vùng chuyển tiếp giữa miền Đông và xung quanh chân các khối núi sót. - Di tích Gò Cây Tung (xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang), phát hiện năm 1990 và đã được khai quật nhiều lần. miền Tây Nam Bộ là không gian trên lưu vực Vàm Cỏ và rìa phía bắc của Đồng Kết quả các đợt khai quật đã xác định cột địa tầng di chỉ cư trú tiền Óc Eo dầy Tháp Mười có mối quan hệ truyền thống chặt chẽ thể hiện qua đồ gốm Gò Cây từ 1,3-4,7m, gồm hai giai đoạn cư trú I và II. Cấu trúc tầng văn hóa cơ bản thống Tung với gốm Lò Gạch, những nét tương đồng cao trong truyền thống chế tác và nhất giữa hai lớp với đặc điểm cấu thành bởi các lớp đất nền đắp cứng hoặc cháy, sử dụng đồ đá phiến sừng đến trang sức bằng đá phiến… xen giữa là các tàn tích sinh hoạt (đồ gốm, xương, sừng, công cụ đá, vòng trang sức Sang giai đoạn văn hóa 2 có một hệ thống di tích tiền Óc Eo hình thành và phát triển mạnh trên rìa chuyển tiếp giữa thềm cao phù sa cổ xuống đồng bằng thấp phù sa mới phân bố từ rìa phía bắc Đồng Tháp Mười đến vùng Tứ Giác Long Xuyên, đá…). Ngoài ra, còn có di tích kiến trúc tôn giáo thuộc giai đoạn Óc Eo muộn và 28 ngôi mộ huyệt đất có niên đại muộn hơn di tích kiến trúc. thuộc không gian chung của đồng bằng miền Tây Nam Bộ. Các di tích này có Hiện vật tiêu biểu gồm các loại công cụ lao động và vòng trang sức, tượng thú quan hệ trực tiếp với nhau và có tính chất chuyển tiếp sang giai đoạn Óc Eo sớm bằng đất nung. Đồ gốm chiếm số lượng áp đảo với loại chất liệu gốm thô truyền hình thành trên đồng bằng châu thổ vào đầu Công nguyên. thống có tô màu bên ngoài (chiếm 99,6% tổng số mảnh gốm). Trong giai đoạn 2 3.4.2. Quan hệ với lưu vực Đồng Nai và vùng ngập mặn miền Đông Nam Bộ xuất hiện số lượng nhỏ các loại gốm mịn với đặc điểm kỹ thuật, màu sắc, chất liệu Giữa vùng Tứ Giác Long Xuyên với vùng ngập mặn miền Đông Nam Bộ có quan hệ trao đổi văn hóa được đặt trong tổng thể không gian văn hóa tiền-sơ sử 20 và loại hình hoàn toàn khác biệt so với loại gốm thô phổ biến tại đây, song lại mang nhiều nét tương đồng với các di tích đồng đại khác ở miền Tây Nam Bộ. 5 -Di tích An Phú (thị trấn Xuân Tô, huyện tịnh Biên, tỉnh An Giang) có diện 2 Mộ vò Linh Sơn Nam có đặc điểm đặc trưng của loại hình mộ vò phổ biến tích rộng 42.407m . Trên bề mặt đất xuất lộ rất nhiều mảnh gốm thô, rìu đá, mảnh trong các di tích khảo cổ học ở khu vực. vòng đá, mảnh tước và các di vật khác. Trong hố thám sát năm 2008 có quy mô 3.1.2.3. Di tích cư trú-xưởng thủ công chế tác đá và sản xuất đồ gốm 2 1,5m xác định được lớp văn hóa có chứa di vật rìu đá, vòng tay, bàn mài và Trong các di chỉ tiền Óc Eo như Gò Cây Tung, Phum Quao, Gò Me-Gò Sành, 11.184 mảnh gốm thô và 12 mảnh xương, sừng, hươu - nai. Năm 2015, một lần K9… có các hoạt động chế tác thủ công như chế tác công cụ, đồ trang sức bằng đá, nữa di tích được khảo sát và được đánh giá tương tự. làm gốm hay chế tác thủy tinh… - Di tích Gò Cây Sung (thị trấn Xuân Tô, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang), có 2 3.2. Đặc trưng di vật quy mô 11.000m . Các hố thám sát được triển khai trong khu vực đã tìm thấy 2 Đồ đá gồm nhóm loại hình công cụ đá, vòng trang sức đá cùng được làm bằng phác vật rìu, 1 mảnh rìu, 2 mảnh bàn mài, 1 bùa đeo (đồ trang sức bằng gốm), 1 loại đá phiến sừng (phtanite) với các kỹ thuật chế tác đỉnh cao của nghề thủ công vòi ấm và 1 mảnh nồi nấu kim loại; 1 bát gốm, 3 bi gốm, 1 mảnh gốm ghè tròn, chế tác đá như ghè-đẽo, cưa, khoan, mài, đánh bóng. 1.419 mảnh gốm thô, 02 mảnh sành, 10 mảnh xương động vật… có đặc điểm tương tự các di tích tiền Óc Eo trong khu vực. Đồ trang sức đá quý gồm các loại hạt chuỗi bằng agate và carnelian có nguồn gốc ngoại nhập. - Di tích Gò Cây Trôm (xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang), Đồ thủy tinh có các loại hạt chuỗi Indo-pacific, phổ biến ở châu Á-Thái Bình nằm ở phía bắc núi Cấm, trên một khu vực gò thấp có phạm vi phân bố rộng Dương từ nửa cuối thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Các hạt chuỗi đều được chế 2 khoảng 11.000m . tác bằng kỹ thuật kéo la-da vốn có xuất xứ từ Ấn Độ. 2 Di tích được đào thám sát năm 2008 với diện tích 1,5m . Kết quả thám sát đã Đồ kim loại: các loại vòng, nhẫn, hạt chuỗi… có nguồn gốc trao đổi. xác định một lớp văn hóa cư trú tích tụ trong lớp đất pha cát màu xám đen, dầy Đồ gốm: gồm hai dòng gốm mịn và gốm thô, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ qua 0,5m chứa nhiều mảnh gốm, gồm 294 mảnh gốm pha cát lẫn ít bã thực vật, xương ba giai đoạn văn hóa từ tiền Óc Eo sang Óc Eo sớm. Trong đó, dòng gốm thô gốm mỏng màu xám đen, ngoài ra còn ghi nhận 01 rìu có vai… gần gũi các di tích mang tính bản địa và thể hiện sự phát triển liên tục tính chất kế thừa, có thể thấy rõ tiền Óc Eo trong khu vực. qua sự chuyển biến trong chất liệu, loại hình mà tiêu biểu là các loại đồ đựng hình - Di tích Phum Quao (xã Tân Lợi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), phát hiện cầu, nồi nhỏ (nồi nấu kim loại), cà ràng…; dòng gốm mịn xuất hiện từ giai đoạn trong thập niên 1980 và đã khảo sát nhiều lần, có phạm vi phân bố trên không gian văn hóa 2 cũng phát triển nối tiếp sang giai đoạn văn hóa 3, thể hiện những nét đặc khoảng 3-4 hecta. Kết quả khảo sát đã xác định được lớp văn hóa dày hơn 1,3m có trưng riêng bên cạnh những đặc điểm tiếp biến văn hóa với dòng gốm thô bản địa, chứa nhiều mảnh gốm, xương động vật, đồ đá… mang đặc trưng của loại hình di đặc biệt ở kỹ thuật chế tác và trang trí hoa văn… chỉ cư trú, có đặc điểm loại hình hiện vật gần gũi với các di tích trong khu vực. 3.3. Niên đại và phân kỳ các giai đoạn phát triển - Di tích Gò Me-Gò Sành (thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), Ba giai đoạn phát triển tiền Óc Eo-Óc Eo sớm ở vùng Tứ Giác Long Xuyên phân bố trải rộng trên không gian khoảng 4 hecta. Di tích được phát hiện năm 1988 gắn với các cột địa tầng chuẩn ở Gò Cây Tung , K9, Giồng Xoài, Gò Óc Eo, Gò và khảo sát năm 2008, 2015, qua đó xác định lớp tích tụ văn hóa dày từ 1,2m đến Cây Thị, Gò Tư Trâm có niên đại từ 2.700-1.800 BP. 6 19 Chương 3: Các di tích tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên - đặc hơn 1,6m trong lớp đất cát pha màu xám ghi có chứa nhiều gồm mảnh gốm gồm trưng, niên đại và quan hệ văn hóa các loại hình nồi, vò, ly cốc, cà ràng, tô sâu lòng có đáy tròn, bát bồng… vừa có sự 3.1. Đặc trưng di tích tương đồng cao với sưu tập gốm Gò Cây Tung (giai đoạn II), vừa gần gũi với gốm 3.1.1. Phân bố di tích. ở di tích K9, Giồng Cu, Giồng Xoài… Các di tích tiền Óc Eo và Óc Eo sớm ở vùng Tứ Giác Long Xuyên phân bố - Di tích Gò Đam Pô (xã Ninh Hòa, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), trên một trên các dạng địa hình khác nhau tương ứng với ba giai đoạn văn hóa từ sớm đến gò có diện tích khoảng 150m2, được phát hiện năm 1988 và khảo sát thẩm tra vào muộn như sau: năm 2008. Trên bề mặt di tích ghi nhận dầy đặc mảnh gốm có đặc điểm tương tự Giai đoạn 1: di tích tiền Óc Eo phân bố tập trung trên thềm cao phù sa cổ quanh các khối núi sót, cao độ trên +5m so với mực nước biển. như gốm ở các di tích tiền Óc Eo trong khu vực như Phum Quao, Gò Cây Tung, Gò Me - Gò Sành…. Giai đoạn 2: di tích tiền Óc Eo phân bố trên cả hai địa hình thềm phù sa cổ và - Di tích Gò Châu Thi (xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) nằm trên gò, giồng thấp trên đồng bằng châu thổ phù sa mới, cao độ từ +2 đến +3m, mang khu vực có thế đất gò thấp có kết cấu đất cát pha màu xám ghi, rộng khoảng 3 dáng dấp của cảng thị sơ khai. hecta. Hố thám sát năm 2014 đã xác định tầng văn hóa dầy đến 3,5m có số mảnh Giai đoạn 3: các di tích phân bố tập trung trên đồng bằng trũng thấp phù sa mới, có hoạt động chế tác thủ công và trao đổi thương mại phát triển mạnh, mang gốm có mật độ cao trong lớp đất pha cát màu xám ghi, gồm các loại đồ đựng (bình, nồi, vò, tô/bát, bát bồng, ly chân cao), cà ràng… đặc điểm của cấu trúc đô thị, cảng thị. * Nhóm di tích ở khu vực Thoại Sơn-Núi Sập 3.1.2. Loại hình di tích - Khu di tích Óc Eo-Ba Thê là một phức hợp nhiều di tích thuộc nhiều giai đoạn phát triển từ tiền Óc Eo đến Óc Eo và hậu Óc Eo… 3.1.2.1. Di tích cư trú Nhóm di chỉ cư trú trên thềm cao phù sa cổ: phổ biến hình thức cư trú trên nền gia cố đất đắp, có tầng văn hóa dầy tích tụ thành gò cao. Nhóm di tích cư trú trên gò-giồng thấp: hình thức gia cố nền vẫn tiếp tục tồn tại bên cạnh lối cư trú trên nhà sàn cao xuất hiện và phổ biến. Di tích tiền Óc Eo duy nhất ở khu di tích Óc Eo - Ba Thê tìm thấy đến nay chỉ mới tìm thấy duy nhất ở di tích Giồng Xoài (nằm về phía tây khu di tích). + Di tích Giồng Xoài là một gò đất cát pha có địa hình thấp và trải dài theo hướng đông bắc-tây nam. Tại đây đã phát hiện nhiều di tích, di vật quan trọng Nhóm di tích cư trú trên đồng bằng tập trung quanh các bàu trũng với loại hình thuộc văn hóa Óc Eo cùng với một lớp văn hóa cư trú tiền Óc Eo chứa mảnh vỡ nhà sàn phổ biến, gồm các cụm lớn hợp thành trong một không gian rộng lớn, tiêu các loại vật dụng gốm sinh hoạt. Đồ gốm cơ bản có hai dòng gốm thô và mịn gắn biểu là tại Óc Eo-Ba Thê. với các loại hình bình, nồi, vò, tô lớn, cà ràng. Di tích được xếp vào giai đoạn tiền 3.1.2.2. Mộ táng Óc Eo và là điểm hội tụ đầu tiên ở Óc Eo-Ba Thê. Các mộ huyệt đất phát hiện ở Gò Cây Tung có thể thuộc giai đoạn tiền Óc Eo song hầu hết đều bị phá hủy cấu trúc, tư liệu chưa rõ ràng. Giai đoạn Óc Eo sớm ở Óc Eo - Ba Thê phát hiện trong nhiều di chỉ sau: + Di tích Gò Óc Eo đã phát hiện bên dưới lớp kiến trúc giai đoạn Óc Eo phát triển là một lớp tích tụ cư trú trong lớp đất màu đen lẫn bùn nhão, chứa mảnh gốm 18 7 sinh hoạt gồm các loại nồi, vò, ly cốc chân cao, cà ràng mảnh ngói kiến trúc, hạt di chỉ Gò A3 (Óc Eo-Ba Thê) song kích thước nhỏ hơn và chất liệu gốm cát thô chuỗi thủy tinh, đá quý… loại 2 so với chất liệu gốm pha nhiều bã thực vật lẫn vỏ trấu của chạc gốm Gò A3. + Di tích Gò Cây Thị là gò có quy mô lớn nhất ở khu trung tâm của “đô thị Dọi xe chỉ: 02 hiện vật, phát hiện ở Gò Cây Tung. Trong đó có 1 hiện vật có cổ” Óc Eo. Trên gò đã phát hiện phần nền móng của hai kiến trúc tôn giáo có quy hình nón cụt là đặc điểm đặc trưng của loại dọi xe chỉ tìm thấy trong nhiều di tích mô rất lớn có kết cấu bằng đá, gạch, được trên nền gia cố đất đắp rất kỹ lưỡng. thời đại kim khí ở Nam Bộ. Dưới lớp kiến trúc là lớp Óc Eo sớm có nhiều mảnh gốm sinh hoạt như nồi, vò, ly 2.2.5.4. Nhóm đồ gốm có nguồn gốc ngoại nhập cốc, nắp đậy hình đĩa có vành móc nhỏ, chai gốm… Gốm cứng văn in, gốm kiểu Sa Huỳnh tìm thấy trong lớp văn hóa Óc Eo sớm + Di tích Gò Da là một gò nhỏ và thấp nằm liền kề với Giồng Cát ở phía nam. ở các di chỉ Gò Cây Thị, bát bồng, vò gốm miệng loe lớn bằng chất liệu gốm cát Trong hố thám sát ở phía đông của gò giáp với Lung Lớn đã phát hiện trắc diện địa pha ở di tích mộ vò Linh Sơn Nam và di chỉ cư trú Gò Óc Eo, Gò Cây Thị… có tầng dầy trên 3,0m. Trong các lớp đất đó có chứa nhiều mảnh đồ gốm (bình, nồi, đặc điểm gần gũi với loại bát bồng phát hiện ở di tích Hòa Diêm (Khánh Hòa). vò, chạc gốm…) và những di vật hạt chuỗi, chì lưới, bánh thiếc, nhiều dấu vết than gỗ, cọc gỗ… có đặc điểm đặc trưng thuộc giai đoạn Óc Eo sớm. - Gốm kiểu Kalanay: các mảnh vỡ có trang trí kiểu đắp nổi ấn lõm hoặc ấn mép vỏ sò, chấm dải các mô típ hình học… trên nền gốm pha cát mịn có áo nâu + Di tích Linh Sơn Nam nằm trong không gian của quần thể di tích chùa Linh đen mang đặc trưng của gốm Kalanay, giống với đồ gốm cùng loại trong các di Sơn. Tại đây đã phát hiện một mộ vò nằm bên dưới lớp di tích kiến trúc thuộc thời tích ở Philippines, duyên hải miền Trung Việt Nam đến vùng vịnh Thái Lan (đảo kỳ văn hóa Óc Eo. Vò gốm lớn đặt ngửa, trên dùng một bát bồng đã ghè bỏ phần Thổ Chu, Hòa Diêm thuộc Khánh Hòa, Ko Samui). đế làm nắp đậy. Trong mộ có 05 hạt chuỗi bằng vàng, 01 hạt chuỗi carnelian bị vỡ 2.3. Tiểu kết chương 2 vụn và tàn tích hữu cơ. Bên ngoài có một bình gốm mịn. + Di tích Gò Tư Trâm nằm ở khu vực chân núi phía đông núi Ba Thê. Tại đây, trong các cuộc khai quật từ năm 2001 đến năm 2008 đã phát hiện cột địa tầng dầy 2,6-3,2m, chứa tích tụ của 3 giai đoạn phát triển liên tục từ Óc Eo sớm đến Óc Eo muộn. Trong đó, lớp văn hóa sớm thể hiện quan hệ với giai đoạn tiền Óc Eo với đặc điểm đồ gốm rất gần gũi với gốm Gò Cây Tung giai đoạn 2, Giồng Xoài, Các di tích được phân nhóm theo đặc điểm phân bố gắn với địa hình của ba khu vực, tương ứng với ba phân bậc địa hình là khu vực thềm cao phù sa cổ, vùng gò giồng cửa sông, cận biển và đồng bằng châu thổ. Các loại hình di vật gồm các nhóm loại hình được phân loại theo chất liệu, loại hình, được phân loại và mô tả chi tiết theo hệ thống. Trong đó, sưu tập hiện vật gốm được phân tích và nhận diện gắn với cột địa K9, Gò Hàng, Gò Dung, Gò Ô Chùa,… Ngoài ra còn có loại ngói kiểu Ấn Độ. tầng cùa các hố khai quật khảo cổ học là cơ sở khoa học giúp các nhà khảo cổ nhận 2.1.3. Các di tích tiền Óc Eo ở khu vực Hà Tiên-Rạch Giá thức được diễn trình phát triển của các di tích ở vùng Tứ Giác Long Xuyên. Trong - Di tích Giồng Cu (xã Vĩnh Phú, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang), nằm 2 trên một gò thấp có diện tích vào khoảng 3.000m . Di tích được điều tra, khảo sát đó, đồ gốm đã cung cấp nguồn tư liệu quan trọng chứng minh vùng đất Nam Bộ có một truyền thống văn hóa phát triển liên tục từ thời Tiền sử đến văn hóa Óc Eo. nhiều lần, qua đó ghi nhận và thu nhặt trên bề mặt nhiều mảnh gốm sinh hoạt như nồi, vò, chum-vại, cà ràng, tô lớn hình bán cầu, bát bồng chân cao, chạc gốm… 8 17 trúc gồm hai phần đồ đựng và chân đế. Đồ đựng sâu lòng, nối liền với chân đế có được làm chủ yếu bằng loại chất liệu gốm pha cát hạt thô cứng chắc, số khác được dáng loe choãi bẹt, đoạn giữa đế với đáy đồ đựng hình trụ thấp, gồm 2 loại nhỏ: làm bằng loại gốm bã thực vật đen mịn… Ly cốc loại 1: phần đồ đựng dạng chén sâu lòng, đáy thu hẹp. Chân đế loe choãi bẹt, ngoài vành đế vuốt tạo viền rộng có gờ sắc cạnh (loại 1a, 1b và 1c). Ly cốc loại 2: phần đồ đựng có miệng đứng, thân hợp với đáy tạo góc gãy. Chân đế loe choãi bẹt thường không vuốt tạo gờ. - Di tích K9 (xã Bình Giang, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang), phân bố trên không gian rộng khoảng 250-450m mỗi chiều. Tại đây đã ghi nhận vết tích cọc gỗ, mảnh gốm sinh hoạt xuất lộ dầy đặc trong các đường mương dẫn nước hiện đại (sâu khoảng 0,2m), trang sức kim loại, thủy tinh, đá quý… Vết tích văn hóa cổ có + Nắp đậy: gồm 786 mảnh, có hình đĩa được làm bằng chất liệu gốm loại 6. xu hướng phân bố trên khu vực địa hình trũng thấp, đặc biệt tập trung trên bàu Căn cứ vào đặc điểm kích thước, kiểu dáng của phần vành móc hoặc núm cầm trũng hoặc lung cổ. ở mặt trong lòng nắp, nắp đậy bằng gốm mịn có thể chia thành 3 loại sau: Di tích được đào thám sát năm 2006 diện tích 56m2, phát hiện lớp văn hóa cư Nắp loại 1: nắp hình đĩa có kích thước lớn (đường kính 20-22cm), mặt trong trú dầy 0,4-0,6m có 4.627 mảnh gốm các loại, chạc gốm, xương động vật, trang lòng nắp có vành móc lớn, giữa là núm cầm. Bề mặt vành nắp có những đường sức kim loại, đá quý, thủy tinh… Đồ gốm gồm nhóm gốm mịn và gốm thô gồm vạch song song tịnh tiến. các loại hình bình, nồi, vò, bát bồng, ly cốc chân cao, nắp đậy hình đĩa, cà ràng… Nắp loại 2: nắp hình đĩa kích thước trung bình (đường kính miệng 14-18cm), + Di tích Xoa Ảo (ấp Xoa Ảo, phường Thuận Yên, thị xã Hà Tiên) được phát trong lòng nắp có vành móc nhỏ. Bề mặt có những rãnh lõm lòng máng và xoáy hiện năm 2013. Di tích có phạm vi phân bố khoảng 2 hecta, nhiều mảnh gốm, cọc trôn ốc tịnh tiến từ trong ra ngoài. gỗ nhà sàn, mũi thuyền gỗ… được tìm thấy cùng với công cụ đá, đồ sắt và mảnh Nắp loại 3: nắp hình đĩa có kích thước trung bình và nhỏ (đường kính phổ biến bàn mài bằng sa thạch. Đồ gốm gồm các nồi, vò, bình, bát/tô sâu lòng có đáy tròn, 10-13cm), giữa lòng nắp có núm cầm hình mũ đinh. bát bồng, cà ràng… 2.2.5.3. Dụng cụ chế tác, sản xuất bằng đất nung 2.2. Di vật - Bàn xoa gốm: có hình nấm gồm chuôi cầm hình trụ tròn, bề mặt sử dụng hình 2.2.1. Đồ đá có 205 hiện vật thuộc nhóm công cụ (108 hiện vật) và dụng cụ bằng tròn dẹt mặt đáy cong lồi. Loại bàn xoa này được phát hiện trong các di tích tiền Óc đá (55 hiện vật), 27 mảnh vòng trang sức bằng đá, 02 lõi vòng đá và 13 hiện vật Eo ở khu vực Núi Sam-Bảy Núi và cánh đồng Óc Eo, là những dụng cụ sử dụng trang sức bằng đá quý. trong hoạt động chế tác đồ gốm. 2.2.1.1. Công cụ đá - Chạc gốm: thống kê được 15 hiện vật, phát hiện ở di tích Gò Cây Tung, K9, Phum Quao, Gò Me-Gò Sành và Óc Eo-Ba Thê, gồm 2 loại: Chạc loại 1: hình trụ tròn, một đầu có bốn mấu nhỏ. Gồm có 109 công cụ đá, trong đó có 76 công cụ rìu, 05 cuốc và 01 hiện vật đục. Số còn lại là mảnh vỡ các loại công cụ. Các công cụ đá được làm bằng loại đá phiến sừng hạt mịn (phtanite), có các Chạc loại 2: gồm 12 hiện vật, có hình trụ vuông, thuôn dài và thu nhỏ ở một cạnh bên được mài vát hoặc bo cong, phổ biến loại hình công cụ rìu không có vai, đầu. Loại chạc này phát hiện ở K9, có đặc điểm gần gũi với chạc gốm phát hiện ở kích thước nhỏ có lưỡi gần ngang và được mài vát từ một mặt có diện mài hình 16 9 bán nguyệt hoặc gần hình thang. Bên cạnh đó là loại công cụ cuốc đá có kích thước lớn, hình trụ thuôn dài, lưỡi trũng sâu với diện mài lưỡi bo cong tròn theo rìa lưỡi. Cà ràng: có 6.726 mảnh, gồm 3 loại tương ứng với 3 giai đoạn văn hóa tiền Óc Eo và Óc Eo sớm. Trong đó loại 1 đặc trưng cho giai đoạn 1 của Gò Cây Tung; cà - Rìu đá gồm rìu không vai và rìu có vai. ràng loại 2 đặc trưng cho giai đoạn 2 và tiếp tục tồn tại ở giai đoạn 3 với một số Rìu không vai: 66 hiện vật, gồm các loại rìu tứ giác thân ngắn, rìu lưỡi xòe, rìu thay đổi về kỹ thuật và số lượng giảm hẳn; cà ràng loại 3 xuất hiện từ giai đoạn 2 hình thang, rìu có thân hình trụ tròn và rìu hình chữ nhật hoặc gần vuông. bên cạnh cà ràng loại 2, đồng thời tiếp tục phổ biến trong giai đoạn văn hóa 3. Cà Rìu có vai: 16 hiện vật gồm rìu vai nhọn, vai cân và vai xuôi lệch. ràng loại 3 có đặc điểm kiểu dáng và kỹ thuật gần gũi với cà ràng đặc trưng trong - Cuốc đá gồm 15 hiện vật, trong đó có 12 cuốc hình trụ dài không có vai và 03 giai đoạn văn hóa Óc Eo phát triển vào thế kỷ IV-VII AD. hiện vật là cuốc có vai. * Dòng gốm mịn: Loại cuốc không vai có thân dầy, bề mặt mài nhẵn với các rìa cạnh được mài vát hoặc bo cong, tạo tiết diện hình thấu kính dầy hoặc gần tròn. Có các loại hình bát bồng, bình, vò, nồi gốm hình cầu, bình, vò, ly chân cao… + Vò, nồi gốm: gồm hai loại: gốm loại 1 và gốm loại 2. Đục có 04 hiện vật có kích thước nhỏ. Gốm loại 1-vò gốm có miệng loe cong lật, vai hẹp và vai xuôi. Nhóm công cụ không có vai tìm thấy phổ biến trong các di tích tiền Óc Eo ở Gốm loại 2-vò gốm có miệng loe xiên khum (loại miệng 7d), thân hình cầu khu vực Núi Sam - Bảy Núi, cụ thể phổ biến trong tầng văn hóa của di chỉ Gò Cây (giai đoạn văn hóa 2). Tung. Trong khi đó, mặc dù có đặc điểm gần gũi với công cụ không có vai qua đặc + Bình gốm: gồm bình gốm có thân hình cầu và hình con tiện. điểm mài nhẵn toàn thân với bề mặt cong lồi, song các công cụ có vai hầu hết được Gốm loại 3: bình gốm có miệng loe xiên khum (kiểu 7e-f-g), chân đế loe choãi thu nhặt trên bề mặt hoặc tìm thấy trong địa tầng hóa tích tụ ngay trên lớp văn hóa thẳng hoặc loe xiên khum (loại 2a), gồm hai loại nhỏ là loại 3a (bình hình cầu) và muộn thuộc giai đoạn Óc Eo muộn hoặc hậu Óc Eo. loại 3b (bình hình con tiện). + Tô/bát sâu lòng đáy tròn-Gốm loại 4: chất liệu gốm loại 5 và 6, có các kiểu 2.2.1.2. Dụng cụ chế tác Thống kê được 70 hiện vật, phát hiện phổ biến trong nhiều di tích tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên, gồm các loại bàn mài bằng (54); bàn mài rãnh (03), bàn mài lõi (01), hòn ghè (07), bàn nghiền (01) và chày nghiền (04). Các bàn mài được làm bằng sa thạch các loại, từ sa thạch hạt thô, hạt mịn màu xám trắng đến sa thạch mịn màu xám đen. miệng thuộc miệng loại 4b-c-d-e và f. Gốm loại 4 chia thành bốn loại nhỏ, thể hiện sự chuyển tiếp giữa giai đoạn 2 sang giai đoạn 3. + Bát bồng-Gốm loại 5: chất liệu gốm loại 5, có phần đồ đựng hình đĩa hoặc miệng có vành bẻ lật với chân đế dáng cao gồm 2 loại nhỏ: Loại 5a: bát bồng có chân đế loe choãi (đế K1a), phần đồ đựng có nhiều khả năng tương thích với loại miệng K2d. 2.2.1.3. Đồ trang sức * Nhóm trang sức bằng đá phiến: gồm 29 mảnh vòng phát hiện ở Gò Cây Tung (27), An Phú (01) và Gò Óc Eo (01). Vòng đá có các loại tiết diện hình tam giác cân, tam giác dẹt (hình đĩa) hoặc gần hình vuông và gần tròn. Loại 5b: chân đế loe choãi, eo đế nhỏ hình trụ (đế K3a, K3b), có miệng hình đĩa nông lòng (K2b, K2c). + Ly chân cao: thống kê được 1.220 mảnh tìm thấy trong giai đoạn văn hóa 2 và 3 của các di tích tiền Óc Eo và Óc Eo sớm ở vùng Tứ Giác Long Xuyên, có cấu 10 15 Ở giai đoạn 3 phổ biến lối trang trí văn vạch sử dụng dụng cụ nhiều mũi nhọn để tạo hoa văn, trong đó tiêu biểu với các hoa văn hình cánh sóng, hình cánh sóng nối tiếp uốn lên-xuống… bằng thủ pháp xoay compa, là tiền đề của các loại hoa văn hình sóng nước, sóng nước lệch… phổ biến trong giai đoạn Óc Eo phát triển. + Văn in: có dạng hình lá dừa hoặc những ô vuông nhỏ hoặc in mép vỏ sò. Lõi vòng: có 02 hiện vật phát hiện trong tầng văn hóa di chỉ Gò Cây Tung, là phế phẩm từ quy trình khoan tách lõi vòng. * Nhóm hạt chuỗi bằng đá quý: hạt chuỗi agate (06 hiện vật) có hình thoi thuôn dài và thu nhỏ về hai đầu thuộc loại hình banded bead; nhóm hạt chuỗi carnelian (07 hiện vật) có hình tròn, hình thoi mài lục giác… Loại trang trí in mép vỏ sò trên nền gốm cát mịn thể hiện ở bờ vai tô gốm nông 2.2.2. Đồ thủy tinh 06 hạt chuỗi thủy tinh phát hiện ở di chỉ K9 và 09 hạt ở Gò lòng giống với kiểu gốm Kalanay. Cây Thị, đều là loại thủy tinh đơn sắc thuộc nhóm loại hình hạt chuỗi Indo Pacific - Gốm tô màu: xuất hiện và rất phổ biến từ giai đoạn 1 của Gò Cây Tung. Loại rất phổ biến ở Nam Bộ Việt Nam, Đông Nam Á và rộng hơn. Trong số này cũng màu đỏ, nâu đỏ hay nâu vàng được sử dụng tô trên vành miệng, bờ vai và bề mặt có 03 hạt chuỗi màu đỏ gạch hay “đỏ Ấn” (multisalah), được chế tác bằng kỹ thuật chân đế của các loại đồ đựng gốm, đặc biệt là loại gốm mịn loại 5 và 6 rất phổ biến kéo lada (lada technique). trong các giai đoạn văn hóa 2, 3. 2.2.3. Đồ kim loại 2.2.5.2. Các loại hình gốm tiêu biểu trong các di tích tiền Óc Eo và Óc Eo sớm 2.2.3.1. Đồ vàng 05 hạt chuỗi bằng vàng là đồ tùy táng trong mộ vò Linh Sơn ở vùng Tứ Giác Long Xuyên Nam, có hình bầu dục, hình đa diện… kích thước nhỏ. * Dòng gốm thô: 2.2.3.2. Đồ chì, thiếc - Nhóm đồ đựng hình đĩa hoặc tô nông lòng thường cóc chân đế (bát bồng), gồm có 3 loại hình đồ gốm loại 1, loại 2 và loại 3. - Nhóm đồ đựng gốm có thân hình cầu gồm có 07 loại (gốm loại 4 đến loại 10), - Vòng: 03 hiện vật được phát hiện ở K9, được chế tác bằng kỹ thuật đúc tạo thành thanh kim loại tiết diện tròn và uốn con lại thành vòng hở. - Nhẫn: 01 hiện vật, phát hiện trong tầng văn hóa di chỉ Gò Cây Thị là nhẫn với các loại nồi hình cầu miệng loe xiên, vò gốm lớn có thân hình cầu miệng thấp tròn trơn (đường kính 1,7-1,9cm). có dáng loe xiên và vành miệng đắp dầy, vò hình cầu có miệng loe xiên cong… 2.2.4. Đồ đất nung - Nhóm gốm nhỏ dầy, hình bán cầu hay “nồi nấu kim loại” có kích thước nhỏ, song xương gốm thô và rất dầy. Hầu hết hiện vật loại này được phát hiện trong các 2.2.4.1. Tượng đất nung 02 hiện vật được phát hiện trong di chỉ Gò Cây Tung, là tượng của loài vật ăn di tích tiền Óc Eo ở khu vực Núi Sam-Bảy Núi, trong đó Gò Cây Tung sau nhiều cỏ (hươu hoặc nai) song đã bị gãy mất đầu và bốn chân. lần khai quật có đến 1.145 mảnh, xuất hiện trong cả hai giai đoạn văn hóa với năm 2.2.4.2. Ngói lợp kiến trúc (335 tiêu bản) loại có các kiểu miệng biến đổi từ loại 1 đến loại 5 phản ánh rõ trật tự phát triển từ sớm đến muộn có tính kế thừa giữa các giai đoạn. - Nắp đậy bằng gốm thô có phần núm hình trụ tròn to, vành nắp tròn bẹt với xương gốm rất dầy, được tìm thấy trong các di tích Gò Cây Tung, Phum Quao, K9, Giồng Cu, Xoa Ảo. và thô. - Ngói hình thang cân, ngói hình chữ nhật và ngói hình lòng máng, được tìm thấy phân bố trong tầng văn hóa cư trú ở các di chỉ Gò Óc Eo, Gò Cây Thị, Gò Tư Trâm. Trên bề mặt có 6-7 vệt lõm song song, ở đầu có lỗ xỏ dây. - Ngói hình lòng máng: 03 mảnh được phát hiện trong di chỉ Gò Tư Trâm, có thân hình lòng máng dài. Ở hai đầu có đắp gờ nổi chắn ngang. 14 11 2.2.5. Đồ gốm trong hầu hết các di tích tiền Óc Eo ở khu vực Núi Sam-Bảy Núi như An Phú, Gò 2.2.5.1. Phân loại Me-Gò Sành, Phum Quao, Gò Châu Thi… Loại gốm này ở di tích K9 chiếm a) Chất liệu có gồm hai dòng là gốm thô và gốm mịn. 8,5% tổng số, số lượng mảnh gốm này trong giai đoạn Óc Eo sớm ở Óc Eo-Ba * Gốm thô: gồm 04 loại có chất liệu gốm pha cát mịn hoặc thô, bã thực vật… Thê là 47,6%. - Loại 1: trong tầng văn hóa di chỉ cư trú Gò Cây Tung có 301.019 mảnh, có b) Loại hình miệng, chân đế và hoa văn gốm: xương gốm đều đặn, áo gốm được xoa láng và thường có tô màu vàng nhạt, nâu đỏ hoặc trắng ngà, được gọi chung là gốm thô truyền thống Gò Cây Tung. - Loại 2: xuất hiện ở giai đoạn văn hóa 2, có thành phần xương gốm pha cát hạt thô. Trong di chỉ K9 có 2.378 mảnh (chiếm 52% tổng số). - Loại 3: gốm pha cát hạt mịn, có đặc điểm khá gần với gốm loại 1 song gốm loại 3 có xương đen và bở mềm hơn, bề mặt không được xoa miết láng lớp áo có màu sắc như gốm loại 1. Gốm loại 3 ở K9 chỉ có 155 mảnh (chiếm 3,4% tổng số). Loại hình miệng gốm tiền Óc Eo gồm có 9 loại, được xác định căn cứ vào dáng miệng và loại hình đồ đựng cơ bản tương ứng như bát bồng, tô gốm sâu lòng có và không có chân đế, nồi, vò, ly cốc chân cao… c) Hoa văn gốm: - Văn kỹ thuật: gồm các loại văn thừng đập và văn chải. Văn thừng là loại hoa văn chiếm số lượng nhiều nhất trên tổng số mảnh gốm có hoa văn được thống kê trong các di tích tiền Óc Eo và Óc Eo sớm ở vùng Tứ Giác - Loại 4: gốm bã thực vật đen xốp. Loại gốm này cùng xuất hiện trong lớp văn Long Xuyên (từ 69,2% đến 93,7%), được tạo ra từ quá trình chế tác tạo dáng sản hóa 2 của Gò Cây Tung với số lượng rất ít <0,1%, ở K9 có tỷ lệ là 14,8% và lớp phẩm gốm bằng kỹ thuật bàn đập kết hợp hòn kê. Dấu thừng chủ yếu tập trung từ văn hóa sớm ở Óc Eo-Ba Thê là 17,2%. thân-vai xuống đáy đồ đựng. Phần vai, phần trên thân lên miệng được miết láng * Gốm mịn: có thành phần sét mịn lọc kỹ, xương gốm mịn và đều đặn, sử dụng trên các loại vật dụng đặc trưng, gồm hai loại: - Loại 5: gốm đen mịn, xương gốm rất mịn, màu xám đen, bề mặt ngoài có lớp áo dầy màu xám trắng hoặc tô/xoa láng một lớp áo mỏng màu đen bóng hoặc lớp áo dầy màu xám trắng đục, được dùng làm các loại vò, bình, bát bồng chân cao. Loại 5 phổ biến trong các di tích tiền Óc Eo, song giảm nhiều trong giai đoạn Óc Eo sớm ở vùng Tứ Giác Long Xuyên: ở di chỉ K9 chiếm tỷ lệ cao - đến 21,3%, trong lớp cư trú thuộc giai đoạn Óc Eo sớm ở Óc Eo-Ba Thê có tỷ lệ 4,3%. - Loại 6: Gốm mịn màu vàng cam, có thành phần sét mịn được lọc rất kỹ, xương gốm có màu vàng nhạt hay nâu vàng, bề mặt áo gồm thường có tô lớp màu rất mịn, láng màu vàng cam hay nâu đỏ. Gốm chất liệu loại 6 có số lượng nhỏ trong lớp văn hóa 2 của Gò Cây Tung với một số ít mảnh vỡ miệng bình, vòi bình, chân đế ly cốc…, song có mặt phổ biến 12 dành cho việc tô màu hoặc trang trí văn khắc vạch. Văn đập dấu nan đan: xuất hiện số lượng ít trong di chỉ Giồng Xoài với dấu văn đập rất mịn hình sợi cỏ hoặc cuống rạ. Văn in: 05 mảnh gốm cứng pha cát hạt mịn, bề mặt có dấu văn in hình lá dừa và hình ô vuông carô giống kiểu hoa văn đặc trưng của gốm Hán. - Văn trang trí: tạo bằng kỹ thuật vạch, đắp nổi, in mép vỏ sò… Văn khắc vạch: có tỷ lệ thấp trong tổng số mảnh gốm có hoa văn (từ khoảng 6%-10%) song lại rất phong phú và đặc trưng về kiểu loại đồ án, gồm có 08 loại đồ án, được vạch bằng dụng cụ có 1 mũi nhọn (tạo nét đơn), 2 mũi nhọn (tạo nét đôi) và 4-6 mũi nhọn. Về kỹ thuật vạch có nhiều kỹ thuật khác nhau, trong giai đoạn 1 và 2 phổ biến sử dụng các nét vạch đơn, đôi thể hiện những đường cong nối tiếp, hình răng cưa (hay hình tam giác), vạch xiên…vạch hình xương cá. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất