Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Các căn cứ quyết định hình phạt từ thực tiễn thành phố hải dương, tỉnh hải dương...

Tài liệu Các căn cứ quyết định hình phạt từ thực tiễn thành phố hải dương, tỉnh hải dương

.PDF
78
85
72

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN BỐN CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công trình nào khác. Người cam đoan MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT......................................................................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt ...... 6 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển quy định về căn cứ quyết định hình phạt từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 2015 .................................................................................................... 11 1.3. Tìm hiểu căn cứ quyết định hình phạt theo quy định của pháp luật một số nước trên thế giới ............................................................................................ 17 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG. ............ 22 2.1. Căn cứ quyết định hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự ............. 22 2.2. Thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương .................................................................................. 38 Chương 3 YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT .............................................................................................................. 59 3.1. Yêu cầu của bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt .................................................................................................. 59 3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt .................................................................................................. 60 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70 DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử Tr: Trang Nxb: Nhà xuất bản TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao QĐHP: Quyết định hình phạt NQ: Nghị quyết NĐ: Nghị định TNHS: Trách nhiệm hình sự DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN Bảng 2.1. Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của TAND thành phố Hải Dương từ năm 2015 – 2019 .................................... 40 Bảng 2.2. Tình hình thụ lý vụ án hình sự theo các nhóm tội trong giai đoạn từ năm 2015-2019 ................................................................................. 42 Bảng 2.3. Kết quả giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm trong giai đoạn từ 2015-2019........................................................................................................ 43 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật hình sự là văn bản pháp lý duy nhất được quy định về tội phạm và hình phạt, đây không chỉ là đặc trưng trong Bộ luật hình sự mà thể hiện hai hoạt động chính của áp dụng pháp luật hình sự đó chính là định tội danh và quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt chính xác, công bằng và đúng pháp luật không chỉ đảm bảo sự trừng trị của hình phạt mà còn có tác dụng giáo dục cải tạo người phạm tội, tạo sự tin tưởng của nhân dân vào đường lối chính sách pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, mọi trường hợp áp dụng hình phạt nặng hơn hoặc nhẹ hơn mức cần thiết đối với hành vi phạm tội đều không đảm bảo được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Vụ án hình sự không có vụ nào giống vụ nào do đó việc Quyết định hình phạt không phải là việc dập khuôn như nhau với mọi hành vi phạm tội cũng như mọi người phạm tội, mà phải dựa trên các căn cứ cụ thể để quyết định hình phạt theo đúng quy định của BLHS đảm bảo tính chính xác, công bằng cũng như đạt được việc giáo dục và phòng ngừa chung. Trong thực tiễn xét xử, việc áp dụng các căn cứ Quyết định hình phạt theo quy định của BLHS 2015 đã phát sinh một số khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng như Áp dụng căn cứ vào quy định của BLHS nhưng lại áp dụng thiếu Điều luật để quyết định hình phạt; Đánh giá tình chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội không chính xác dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nhẹ hoặc quá nặng; Áp dụng thiếu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo dẫn đến quyết định hình phạt không chính xác. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc nghiên cứu, hướng dẫn, hoàn thiện chế định này. Ngoài ra, hiện nay các căn cứ quyết định hình phạt cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Các căn cứ quyết định 1 hình phạt từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với ngành Tòa án nhân dân nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng, bắt buộc Tòa án nhân dân phải áp dụng vào khi thực hiện hoạt động quyết định hình phạt. Bởi vậy chế định các căn cứ quyết định hình phạt được ghi nhận trong hầu hết các giáo trình hình sự tại các cơ sở đào tạo luật như: Học viện khoa học xã hội thuộc viện hàn lâm; Đại học luật Hà Nội; Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh; Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học kiểm sát... Bên cạnh đó, đề tài về các căn cứ quyết định hình phạt còn được nghiên cứu, phân tích qua các công trình có thể kể đến như: - Sách chuyên khảo, tạp chí: Đoàn Tuấn Minh và Nguyễn Ngọc Điệp, Phương pháp định tội danh với 538 tội danh theo quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nxb Lao động, Hà Nội, 2018; Nguyễn Ngọc Hòa, Bình luận khoa học BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) phần chung, nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2017 ; Đinh văn Quế, Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015 phần thứ nhất Những quy định chung; nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội, 2018; Dương Tuyết Miên, Quy định về tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị, Tạp chí Luật học, số 3/2014; Lê Xuân Sinh, Vướng mắc từ thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23/2007. - Luận văn thạc sĩ: Phan Thị Thanh Hoan, Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015 ; Dương Đức Tùng, Quyết 2 định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quân khu 1, Luận văn thạc sĩ Học viện khoa học xã hội, năm 2016. Các công trình nghiên cứu nên trên cũng đã đề cập, phân tích theo quy định của BLHS 2015, tuy nhiên dưới góc độ luận văn thạc sĩ, chưa có công trình này nghiên cứu một cách toàn diện kết hợp hài hòa giữa lý thuyết và thực tiễn áp dụng căn cứ quyết định hình phạt từ một địa phương cụ thể là thành phố Hải Dương, do đó luận văn đảm bảo không trùng lặp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu toàn diện, có hệ thống trên cơ sở phân tích các căn cứ quyết định hình phạt theo quy định Bộ luật Hình sự hiện hành; phân tích thực tiễn áp dụng các quy định về các căn cứ quyết định hình phạt tại TAND thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương để từ đó đưa ra kiến nghị tiếp tục hoàn thiện chế định và các giải pháp khác bảo đảm cho việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt đúng 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và pháp lý về các căn cứ quyết định hình phạt; thực tiễn áp dụng tại TAND thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn nghiên cứu các căn cứ quyết định hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các văn bản hướng dẫn. Ngoài ra có tham khảo nghiên cứu BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, BLHS liên bang Nga, BLHS Cộng hòa liên bang Đức. 3 Về không gian: Luận văn nghiên cứu việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt tại TAND thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu trong thời hạn là 05 năm từ năm 2015- 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn là phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng luận văn là các phương pháp nghiên cứu căn bản, bao gồm: Phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, lịch sử, logic…. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là đề tài nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về các căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam quy định tại BLHS 1999 và BLHS 2015 ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Nội dung nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt, giúp cho các nhà làm thực tiễn có đường lối giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo trong lĩnh vực pháp luật, cũng như phục vụ công tác học tập 4 nghiên cứu và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa án nhân dân. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các căn cứ quyết định hình phạt Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự việt nam hiện hành về căn cứ quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Chương 3 Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt 1.1.1. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt 1.1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt Mục đích hướng tới của hình phạt chỉ có thể đạt được khi hình phạt đó được áp dụng chính xác, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật đồng thời tạo cơ hội, giáo dục người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Khi hình phạt bị áp dụng không chính xác, có thể quá nhẹ hoặc quá nặng sẽ dẫn đến mục đích của hình phạt không đạt được, làm người dân mất đi niềm tin vào công lý và Nhà nước/ Quyết định hình phạt là chế định quan trọng trong cả lý luận lẫn thực tiễn, tuy nhiên nghiên cứu pháp luật hình sự qua các thời thì thì khái niệm quyết định hình phạt chưa được ghi nhận trong văn bản pháp luật; mà chỉ được đưa ra trong các giáo trình, các bài viết nghiên cứu luật như: Giáo trình của khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội: “Quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội”[7]. Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Toà án lựa chọn loại hình phạt nào, mức phạt bao nhiêu, phải tuân theo những quy định của Bộ luật hình sự”[21]. 6 Tác giả Lê Văn Đệ cho rằng “Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể”[9]. Từ sự phân tích trên học viên đồng tình với quan điểm của tác giả Võ Khánh Vinh là: Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại,mức và các biện pháp áp dụng thay thế hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội. 1.1.1.2. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt Theo từ điển Tiếng Việt, căn cứ được hiểu là “cái làm chỗ dựa, làm cơ sở để lập luận hoặc hành động”[44]. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt từ trước đến nay chưa được giáo trình Luật hình sự của các cơ sở chuyên đào tạo luật đề cập tới. Hiện nay trong bộ luật hình sự chưa có khái niệm về các căn cứ quyết định hình phạt. Đã có nhiều tác giả đưa ra khái niệm, có thể kể đến như: Tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng: “Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Toà án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm”[43]. Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu cơ bản (là chỗ dựa) buộc Toà án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với tội phạm”[21]. Các khái niệm này, nhìn chung đều đã chỉ ra được bản chất của căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi, yêu cầu có tính bắt buộc Toà án phải tuân theo khi quyết định hình phạt. Trên cơ sở tiếp thu các quan điểm nêu 7 tren, có hiểu căn cứ quyết định hình phạt như sau: Căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cụ thể, có tính khách quan, do Bộ luật hình sự quy định mà Hội đồng xét xử bắt buộc phải tuân thủ để không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách khách quan, đúng pháp luật mà còn nhằm đạt được các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất khi áp dụng đối với người phạm tội bị kết án. 1.1.2. Đặc điểm căn cứ quyết định hình phạt Thứ nhất: Căn cứ quyết định hình phạt mang tính tất yếu trong hoạt động quyết định hình phạt. Tính đúng đắn của quyết định hình phạt được dựa trên các căn cứ mà Hội đồng xét xử áp dụng để quyết định hình phạt. Vì vậy, đòi hỏi tất yếu đặt ra mỗi yêu cầu trong các căn cứ này phải thể hiện rõ bản chất, nội dung. Nội dung cụ thể, rõ ràng là Điều kiện cần cho việc nhận thức, tuy nhiên hoạt động áp dụng công bằng, khách quan, công tâm lại là Điều kiện đủ cho quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử. Vì vậy, căn cứ quyết định hình phạt tuy là những đòi hỏi có nội dung cụ thể nhưng những đòi hỏi đó phải có tính khách quan, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người áp dụng. Đó chính là các quy định của BLHS; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đây là những yếu tố có tính khách quan, đặc trưng, tổng hợp chung nhất cho tất cả các trường hợp phạm tội, có ý nghĩa quyết định đến tính đúng đắn, hợp pháp của toàn bộ hoạt động quyết định hình phạt. Chính vì vậy, chúng đã được nhà làm luật xác định và lựa chọn làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt trong từng trường hợp phạm tội cụ thể. Thứ hai: Căn cứ quyết định hình phạt mang tính pháp lý bắt buộc phải chấp hành 8 Để tránh việc lạm dụng, áp dụng tùy tiện các căn cứ trong quyết định hình phạt, thì văn bản duy nhất quy định các căn cứ này chính là Bộ luật hình sự, theo đó chỉ các căn cứ được quy định trong BLHS mới có giá trị áp dụng trong thực tiễn quyết định hình phạt. Bất cứ các căn cứ nào khác không được quy định trong BLHS đều không được áp dụng trong quyết định hình phạt để đảm bảo tính thống nhất. Có như vậy mới đảm bảo tính khách quan và nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội, cùng với đó nguyên tắc công bằng đối với người phạm tội mới được đảm bảo. Thứ ba: Căn cứ quyết định hình phạt là cơ sở để quyết định hình phạt đúng đắn, khách quan không để xảy ra tình trạng oan sai. Điều đó đã khẳng định chỉ khi nào việc quyết định hình phạt được thực hiện dựa trên cơ sở tuân thủ đầy đủ căn cứ quyết định hình phạt thì mới có khả năng để đạt được kết quả tốt. Vì vậy, khi đã được quy định trong BLHS, căn cứ quyết định hình phạt chính là những đòi hỏi cụ thể của luật hình sự, bắt buộc Hội đồng xét xử phải tuân thủ khi quyết định hình phạt. Những đòi hỏi đó, hoàn toàn không cho phép việc quyết định hình phạt một cách tuỳ tiện. Mọi trường hợp quyết định hình phạt không tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt sẽ làm cho hình phạt được tuyên không có căn cứ pháp luật, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc pháp chế XHCN của luật hình sự nói chung và trong quyết định hình phạt nói riêng. Nếu đặt trong mối quan hệ giữa quyết định hình phạt với các căn cứ quyết định hình phạt thì có thể thấy các căn cứ quyết định hình phạt chính là chuẩn mực, cơ sở đánh giá tính hợp pháp của quyết định hình phạt. Nếu quyết định hình phạt không tuân thủ hoặc có dựa trên căn cứ luật định nhưng việc nhận thức và áp dụng không đúng thì việc quyết định hình phạt cũng trở nên vô nghĩa và còn gây ra những tác hại rất lớn cho chính bản thân người bị kết án và xã hội. Chính vì vậy, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử không chỉ bắt buộc phải dựa vào các căn cứ quyết 9 định hình phạt đã được luật định mà còn bắt buộc phải nhận thức đúng và tuân thủ triệt để căn cứ quyết định hình phạt thì hình phạt được quyết định mới có tính nghiêm minh, công bằng, đúng pháp luật, phù hợp với đòi hỏi và lợi ích chung của xã hội. Thứ tư: Căn cứ quyết định hình phạt giúp thực hiện đúng đắn mục đích của hình phạt là trừng trị và giáo dục. Như đã nghiên cứu, quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đạt được các mục đích của hình phạt. Như vậy, hình phạt được áp dụng đối với người bị kết án đã không đạt được các mục đích trong thực tiễn. Với những lý do đó, theo chúng tôi, suy cho cùng, tuân thủ căn cứ quyết định hình phạt không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định đúng mà quan trọng hơn còn là Điều kiện quyết định để đạt được các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất. 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các căn cứ quyết định hình phạt Việc quy định các căn cứ quyết định hình phạt trong BLHS có các ý nghĩa sau: Một là, là căn cứ pháp lý để Tòa án quyết định hình phạt: Quyết định hình phạt là hoạt động áp dụng hình phạt của HĐXX (Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) được thực hiện sau hoạt động định tội danh, bởi không có tội danh thì không thể có hình phạt. Theo đó, trên cơ sở tội danh Hội đồng xét xử phải lựa chọn và quyết định được loại hình phạt trong giới hạn luật định, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu cơ bản, là cơ sở pháp lý giúp cho Hội đồng xét xử xác định đúng loại và mức hình phạt cụ thể, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt mà điều luật về tội phạm đã quy 10 định. Đây cũng là căn cứ xác định việc quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử có chính xác hay không. Hai là, căn cứ QĐHP là điều kiện cần thiết để giới hạn tính tùy nghi trong việc áp dụng QĐHP. Các căn cứ quyết định hình phạt chỉ được ghi nhận trong BLHS, theo đó xác định rõ khi chủ thể áp dụng pháp luật cần tuân thủ chặt chẽ những căn cứ này, mọi quyết định hình phạt không theo căn cứ quy định trong BLHS đều bị coi là trái pháp luật. Đây được coi là việc giới hạn cần thiết trong việc hạn chế sự tùy nghi của chủ thể áp dụng. Ba là, mục đích của hình phạt có đạt được hay không phụ thuộc vào sự tuân thủ các căn cứ quyết định hình phạt. Chỉ khi các căn cứ quyết định hình phạt được tuân thủ đồng nghĩa hình phạt được quyết định chính xác và công bằng, thì mục đích của hình phạt mới đạt được, tức là khi đó mới có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa tội phạm và giáo dục người khác [46] 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển quy định về căn cứ quyết định hình phạt từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 2015 1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, pháp luật hình sự đã trở thành công cụ, vũ khí sắc bén và rất hữu hiệu trong việc bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trong đó quy định “Để giải quyết các vụ án về hình sự, cần áp dụng: - Pháp luật hình sự của Nhà nước ta đã ban hành và đương còn hiệu lực (luật, sắc lệnh, pháp lệnh, nghị định, thông tư...); - Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; 11 - Án lệ của các Tòa án (Tổng kết thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao)”[30]. Đặc biệt, để đảm bảo tính pháp chế trong việc quyết định hình phạt, các Toà án đã căn cứ vào các quy định có tính nguyên tắc của Hiến pháp (Điều 100 Hiến pháp năm 1959) và của luật (Điều 4 Luật số 18 ngày 14/7/1960 về tổ chức Tòa án nhân dân...). Song, do chúng ta chưa có BLHS nên căn cứ pháp lý của việc quyết định hình phạt chưa được quy định cụ thể, thống nhất trong bất kỳ văn bản luật nào. Tại Bản tổng kết về thảo luận báo cáo công tác ngành Toà án năm 1959 của TAND tối cao có nêu: “a) Làm thế nào, căn cứ vào đâu để cân nhắc hình phạt cho đúng? ... Trước hết, chúng ta căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hại của phạm pháp để phân biệt phạm pháp nặng, phạm pháp nhẹ (Ví dụ: ăn cắp của công nguy hại hơn là đụng đến quyền tư hữu, giết người nguy hại hơn đánh người...). Chúng ta cũng căn cứ vào người phạm pháp (tuổi, bản chất, có tiền án hay không, khả năng cải tạo, thành tích...) và trường hợp tăng hoặc giảm tội... Chúng ta chưa có một bộ hình pháp đầy đủ. Chúng ta phải căn cứ vào pháp luật hiện có, vào đường lối chính sách chung, vào án lệ, kinh nghiệm của chúng ta để xác định tính chất về mức độ nguy hại của phạm pháp cho đúng”[30]. Qua Bản tổng kết này có thể thấy việc quyết định hình phạt đã được dựa trên những căn cứ nhất định. Đó là căn cứ vào “tính chất và mức độ nguy hại của phạm pháp”; căn cứ vào “người phạm pháp (tuổi, bản chất, có tiền án hay không, khả năng cải tạo, thành tích...); căn cứ vào “pháp luật hiện có, vào đường lối chính sách chung, vào án lệ, kinh nghiệm”. Nhìn chung, Bản tổng kết này đã ghi nhận khá đầy đủ các căn cứ quyết định hình phạt, đảm bảo cho “... hình phạt không chỉ để trừng trị kẻ phạm pháp. Nó cũng nhằm giáo dục và cải tạo phạm nhân về ý thức tôn trọng pháp luật và ngăn ngừa kẻ khác phạm pháp nữa, giáo dục người khác” [30]. Hạn 12 chế của Bản tổng kết này là chưa thể hiện rõ căn cứ “các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” mà chỉ ghi nhận cùng “căn cứ vào người phạm pháp... và trường hợp tăng hoặc giảm tội…”. Nhưng có thể khẳng định rằng khi quyết định hình phạt, các Toà án có căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Báo cáo tổng kết công tác năm 1962 của TAND tối cao đã nêu: “... và các Toà án đã dựa vào ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, chú trọng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đến nhân thân của bị cáo, đến các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ... để lượng hình”. Sau này, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đã chính thức được ghi nhận trong các pháp lệnh về một số loại tội cụ thể mà các Toà án phải căn cứ vào để lượng hình trong phạm vi một khung hình phạt. Đó là Pháp lệnh ngày 30/10/1967 trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Việc quy định các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trong các pháp lệnh này không chỉ giúp cho Toà án lượng hình đúng tội, đúng pháp luật mà còn đảm bảo đúng đường lối chính sách, góp phần tích cực vào đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trên cơ sở các căn cứ để Toà án lượng hình đã nêu trên đây, TAND tối cao đã có những đánh giá, rút kinh nghiệm và hướng dẫn nhằm đảm bảo cho việc vận dụng đúng những căn cứ này trong thực tiễn. Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965 - 1968) của TAND tối cao qua đánh giá những sai lầm xẩy ra trong lĩnh vực quyết định hình phạt như “xử quá nhẹ do chỉ căn cứ vào tác hại vật chất không lớn, hoặc do chỉ nhìn thấy tác hại vật chất, tác hại trước mắt mà không nhìn thấy tác hại về chính trị, tác hại lâu dài của hành vi phạm pháp, hoặc do chiếu cố quá đáng tới nhân thân tốt của bị cáo... Ngược lại đã xử phạt quá nặng do nhấn mạnh một chiều tới lý lịch xấu của bị cáo, tới yêu 13 cầu chính trị của địa phương...” đã có chỉ đạo: “... cần kiên quyết khắc phục các hiện tượng lệch lạc hoặc quá nặng căn cứ vào nhân thân của bị cáo hoặc quá nhấn một chiều vào tình hình thời chiến và yêu cầu chính trị của địa phương để lên án một cách tuỳ tiện. Cần thấy rằng nhân thân tốt hay xấu cũng chỉ là một căn cứ để lượng hình mà căn cứ chủ yếu là tính chất và mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm pháp. Yêu cầu chính trị địa phương cần được coi trọng nhưng không thể tách rời đường lối chung và vấn đề đó cũng chỉ làm cho mức án lên xuống phần nào chứ không thể thay đổi về cơ bản được. Yêu cầu xử nghiêm khắc trong thời chiến là có mức độ, xê xích trong một khung hình phạt nhất định đã được tổng kết và đề ra qua thực tiễn xét xử. Chủ yếu vẫn phải căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của tội phạm, ý thức phạm tội của bị cáo, mức độ tác hại của hành vi phạm pháp kết hợp với các mặt khác như nhân thân tốt hay xấu, yêu cầu chính trị của địa phương và yêu cầu đấu tranh chống phản cách mạng trong thời chiến để quyết định hình phạt được đúng đắn”. Như vậy, Báo cáo tổng kết này đã một lần nữa khẳng định các căn cứ của việc quyết định hình phạt, trong đó “tính chất và mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm pháp” là căn cứ chủ yếu, quan trọng nhất. Những hướng dẫn, chỉ đạo hết sức cụ thể trên đây đã thể giá trị pháp lý, tính thực tiễn và tính khoa học cao của Báo cáo tổng kết. Chúng không chỉ giúp cho Toà án lượng hình một cách chính xác, góp phần giải quyết vụ án hình sự theo đúng đường lối, chính sách, mà còn là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện và vận dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt cho đến khi có BLHS đầu tiên năm 1985. 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 Trong giai đoạn này, chúng ta đã gặp phải nhiều khó khăn và khuyết điểm như chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình kinh tế quan liêu, bao 14 cấp nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Pháp chế xã hội chủ nghĩa chậm được tăng cường; pháp luật, kỷ cương bị buông lỏng. Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc ban hành Bộ luật hình sự là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27/6/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 1985). BLHS năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới. Với sự ra đời của BLHS năm 1985, lần đầu tiên, các căn cứ quyết định hình phạt đã được chính thức quy định điều 37 bao gồm: các quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nội dung quy định về căn cứ quyết định hình phạt là cần thiết, đảm bảo áp dụng được thống nhất trong xét xử nói chung và trong quyết định hình phạt nói riêng. 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 BLHS năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ VI thông qua ngày 21 tháng 14 năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2000). Nội dung quy định về các căn cứ quyết định hình phạt quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự. Về cơ bản, BLHS 1999 vẫn giữ nguyên nội dung các căn cứ quyết định hình phạt, tuy nhiên có sự thay đổi căn bản về tiêu đề điều luật, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan