Các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều (so sánh với ca dao và Thơ Mới)
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ
Trong diễn ngôn văn học, việc tìm hiểu hệ thống các phương tiện ngôn
ngữ chiếu vật và “vật được quy chiếu” của chúng sẽ là những thao tác đầu
tiên mà bất kỳ người đọc nào cũng phải tiến hành nếu muốn hiểu tác phẩm.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, các yếu tố “trăng”, “hoa”, “gió” có tần
số xuất hiện ở nhóm cao nhất trong số các từ chỉ thiên nhiên. Luận án của
chúng tôi tìm hiểu về các yếu tố ngôn ngữ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện
Kiều dưới ánh sáng của lý thuyết chiếu vật của ngữ dụng học: đặt chúng
trong các biểu thức chiếu vật (BTCV) được sử dụng trong diễn ngôn. Luận
án cũng đặt các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều trong
tương quan, đối sánh với ca dao và Thơ Mới để một mặt, phần nào thấy được
cái dòng mạch chung của bản sắc văn hóa dân tộc và của ngôn từ nghệ thuật,
mặt khác, khẳng định thêm những điểm riêng biệt, độc đáo mang dấu ấn của
phong cách và tài năng Nguyễn Du.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xác lập được vị trí, vai trò của các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió”
trong Truyện Kiều như là một bộ phận làm nên bình diện “cái biểu đạt” của
diễn ngôn; chỉ ra được sự thống nhất giữa tác giả Nguyễn Du với các tác giả
ca dao và Thơ Mới, đồng thời cho thấy những điểm độc đáo trong việc sử
dụng các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” nói riêng và các BTCV có từ chỉ
sự vật, hiện tượng thiên nhiên nói chung trong Truyện Kiều; cố gắng làm rõ
mối quan hệ giữa các các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” với ý nghĩa biểu
trưng của các biểu tượng trăng, hoa, gió cũng như với những đặc trưng văn
hóa dân tộc trong Truyện Kiều.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu cơ sở lý thuyết chủ yếu phục vụ cho việc triển khai đề tài luận
án; xác lập các tiêu chí để xác định và phân loại các BTCV có từ “trăng”,
“hoa”, “gió” cũng như đối tượng được quy chiếu của chúng trong Truyện
Kiều; phân tích, miêu tả đặc điểm của các BTCV được khảo sát trên bình
diện cái biểu đạt và cái được biểu đạt; tìm hiểu, so sánh các đặc điểm của các
BTCV trong Truyện Kiều với ca dao và Thơ Mới; phân tích vai trò, giá trị
riêng của các BTCV này đối với việc thể hiện ý nghĩa của các biểu tượng
trăng, hoa, gió cũng như việc thể hiện các quan niệm về quan hệ giữa thiên
nhiên và con người ở thời kỳ trung đại Việt Nam.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là “các BTCV có từ “trăng”, “hoa”,
“gió” trong Truyện Kiều” và đối tượng này được luận án xác định là: biểu thức
ngôn ngữ (từ, cụm từ) có một/ một số trong các từ “trăng”, “hoa”, “gió” hoặc các
yếu tố ngôn ngữ biểu thị các sự vật có liên quan đến khái niệm trăng, hoa, gió
2
(các yếu tố Hán Việt tương ứng như nguyệt, phong, gương…; hoặc các từ chỉ
tên loài hoa cụ thể như hồng, huệ, đào…) được sử dụng để chỉ ra một thực thể cụ
thể nào đó trong một thế giới khả hữu – hệ quy chiếu (HQC) nhất định được đưa
vào một ngữ cảnh cụ thể trong diễn ngôn Truyện Kiều.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án của chúng tôi tiến hành khảo sát và
nghiên cứu đối tượng kể trên ở các phương diện: cấu tạo, quan hệ kết hợp với
các yếu tố ngôn ngữ khác trong ngôn cảnh, sự vật được quy chiếu trong ngữ
cảnh sử dụng và so sánh chúng với các BTCV tương ứng trong ca dao và Thơ
Mới. Về tư liệu khảo sát của luận án: Bản Truyện Kiều của Nguyễn Du do
Đào Duy Anh khảo đính và được in trong ngữ liệu [1]; các bài ca dao được
Phúc Hải sưu tầm, tuyển chọn và in trong ngữ liệu [3]; các bài Thơ Mới trong
7 tập thơ tiêu biểu của ba nhà thơ được mệnh danh là “ba đỉnh cao Thơ Mới”,
đó là: Nguyễn Bính, Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử, được in trong ngữ liệu [2].
5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
5.1. Lịch sử nghiên cứu về sự chiếu vật (reference)
3 giai đoạn nghiên cứu CV trên thế giới gồm: giai đoạn thứ nhất (từ 1882 –
khoảng 1950) - chiếu vật ngữ nghĩa (semantic reference); giai đoạn thứ hai (từ
khoảng 1950 – cuối thế kỷ XX) - chiếu vật của người nói (speaker’s
reference); giai đoạn thứ ba (khoảng từ cuối thế kỷ XX – nay) - chiếu vật
được nghiên cứu trong phối cảnh liên ngành (interdisciplinary perspectives).
5.2. Nghiên cứu về chiếu vật và về chiếu vật trong Truyện Kiều ở Việt Nam
Tiếp cận với kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài,
đồng thời vận dụng vào thực tiễn sử dụng tiếng Việt, các tác giả trong nước
cũng đã có những công trình về ngữ dụng học, trong đó có lý thuyết chiếu
vật. Tiêu biểu là: Cao Xuân Hạo [36], Đỗ Hữu Châu [17], [19], Diệp Quang
Ban [7], Nguyễn Thiện Giáp [34],… Chúng tôi nhận thấy số những công
trình nghiên cứu riêng biệt ứng dụng các lý thuyết của ngôn ngữ học để
nghiên cứu Truyện Kiều không thật sự nhiều mà chủ yếu là những bài nghiên
cứu riêng lẻ được tập hợp hoặc làm thành một phần của các công trình
chuyên sâu về Truyện Kiều nói chung.
6. PHƯƠNG PHÁP VÀ THỦ PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án đã vận dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau
đây để triển khai đề tài: phương pháp miêu tả, thủ pháp thống kê, phân loại
và hệ thống hóa, thủ pháp phân tích ngữ cảnh, thủ pháp so sánh, đối chiếu.
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
- Về lý luận: Củng cố và hệ thống hoá được các vấn đề cơ bản của lý thuyết
chiếu vật của ngôn ngữ học, góp phần làm rõ thêm các khái niệm quan yếu đối
với việc nghiên cứu chiếu vật trong tác phẩm hư cấu; xác lập được một số cơ sở
và thao tác để xác định CV của các BTCV được sử dụng trong hoạt động giao
tiếp; gợi mở và bước đầu vận dụng hướng nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ -
3
văn hóa - văn học vào nghiên cứu chiếu vật của Việt ngữ, đặc biệt là chiếu vật
trong tác phẩm văn học.
- Về thực tiễn: Cung cấp thêm tư liệu và kết quả phân tích mới cho việc
nghiên cứu và giảng dạy về CV trong Truyện Kiều nói riêng và trong giao tiếp
tiếng Việt nói chung; cung cấp thêm cơ sở và phương tiện ngôn ngữ cho việc
khám phá các giá trị và nét độc đáo của Truyện Kiều, ca dao và Thơ Mới, từ
đó giúp ích thêm cho việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm và văn học sử.
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án gồm 3
chương: Chương 1- Cơ sở lý luận; Chương 2 - Các biểu thức chiếu vật có từ
“trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều trên bình diện cái biểu đạt (so sánh
với ca dao và Thơ Mới); Chương 3 - Các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”,
“hoa”, “gió” trong Truyện Kiều trên bình diện cái được biểu đạt và giá trị sử
dụng (so sánh với ca dao và Thơ Mới).
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. LÝ THUYẾT CHIẾU VẬT
1.1.1. Sự chiếu vật (reference)
- Bách khoa thư về ngôn ngữ và ngôn ngữ học, tập 7, và công trình khoa
học của các tác giả Đỗ Hữu Châu [19], Cao Xuân Hạo [36], Nguyễn Thiện
Giáp [34] đều có sự thống nhất trong việc nhìn nhận khái niệm reference với
tư cách là vấn đề của ngữ dụng học. Luận án của chúng tôi sử dụng thuật ngữ
sự chiếu vật (reference) và chiếu vật (CV) (referent) là các danh từ, còn quy
chiếu (to refer) với tư cách động từ. Theo quan điểm ngữ dụng học, chiếu vật
là quan hệ giữa người sử dụng ngôn ngữ và biểu thức ngôn ngữ được sử
dụng với đối tượng/ thực thể (entity) (vật chất hoặc tinh thần, có thật hay
tưởng tượng hoặc hư cấu, số ít hay một tập hợp…) trong một thế giới khả
hữu (possible world) mà ở đó thực thể được quy chiếu tồn tại.
- "Sự chiếu vật" trong Truyện Kiều, cũng như trong ca dao và Thơ Mới,
được luận án hiểu là quan hệ giữa biểu thức ngôn ngữ được tác giả sử dụng
trong tác phẩm với đối tượng/thực thể cụ thể xuất hiện trong ngữ cảnh cụ thể
mà ở đó biểu thức ngôn ngữ được sử dụng để chỉ ra. Các biểu thức ngôn ngữ
này được tác giả Nguyễn Du hoặc nhân vật sử dụng (trong các đoạn đối
thoại) để quy chiếu tới thực thể cụ thể nào đó tồn tại trong một thế giới khả
hữu (có thật hoặc không có thật) và đã được đưa vào ngữ cảnh giao tiếp.
1.1.2. Biểu thức chiếu vật (referring expression)
1.1.2.1. Biểu thức chiếu vật là gì ?
- Trong luận án này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “biểu thức chiếu vật” để
chỉ tất cả các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thực hiện quy chiếu
trong ngữ cảnh cụ thể của ngữ liệu khảo sát, bao gồm cả những BTCV có cấu
4
tạo là từ (chẳng hạn: trăng, hoa, gió,…) và tổ hợp từ (chẳng hạn: trăng thề,
người trăng gió, ngày gió đêm trăng,…). Chúng tôi cũng đã phân biệt một số
thuật ngữ có liên quan tới việc khảo sát đối tượng và triển khai đề tài của luận
án là BTCV và biểu thức miêu tả, BTCV miêu tả và BTCV phi miêu tả.
- Chúng tôi đồng tình với quan niệm cho rằng “cũng như các tín hiệu ngôn
ngữ, BTCV có cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt của BTCV là các
đơn vị ngôn ngữ tạo nên nó. Cái được biểu đạt là sự vật được quy chiếu hay
CV tương ứng.” [19,187]. Theo đó, các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió”
trong Truyện Kiều sẽ được luận án này miêu tả trên hai bình diện: bình diện
cái biểu đạt (hình thức cấu tạo và quan hệ kết hợp cả về ý nghĩa và cú pháp);
bình diện cái được biểu đạt (sự vật được quy chiếu hay CV).
1.1.2.2. Tiêu chí xác định biểu thức chiếu vật trong luận án
a) Tiêu chí xác định biểu thức chiếu vật nói chung
- Tiêu chí thứ nhất – Tiêu chí hình thức: BTCV có tính hoàn chỉnh, độc
lập tương đối của nó về mặt cấu tạo: hoặc là một từ, hoặc là một cụm từ.
- Tiêu chí thứ hai – Tiêu chí ngữ nghĩa: BTCV chỉ ra được một đối tượng,
một thực thể cụ thể nào đó, trong thế giới khả hữu – HQC của BTCV đang
được tác giả hoặc nhân vật nói tới (các cơ sở để nhận diện CV của BTCV
được khảo sát đã được trình bày ở mục 1.1.3.4 ở sau).
b) Tiêu chí xác định biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong
Truyện Kiều, ca dao và Thơ Mới
Luận án chỉ xét các BTCV mà trong cấu tạo của biểu thức ngôn ngữ thực
hiện chức năng chiếu vật trong trường hợp được xét có xuất hiện ít nhất một
trong các yếu tố ngôn ngữ (từ/ thành tố cấu tạo từ) thuộc các nhóm sau đây:
Các từ trăng, hoa, gió; hoặc các yếu tố ngôn ngữ đồng nghĩa từ vựng
(nguyệt, phong, gương, bông, đóa); hoặc các yếu tố ngôn ngữ biểu thị các sự
vật có liên quan tới khái niệm trăng, hoa, gió (thỏ, Hằng Nga, ông Tơ,…);
hoặc các yếu tố ngôn ngữ chỉ các loài hoa cụ thể (đào, sen, cúc…).
1.1.3. Chiếu vật (referent; référent) và hệ quy chiếu (reference)
1.1.3.1. Chiếu vật là gì?
- Trước hết, khái niệm CV được sử dụng trong luận án này tương ứng với
khái niệm “nghĩa chiếu vật hay vật được chiếu” của tác giả Đỗ Hữu Châu
[19] và khái niệm “sở chỉ” (theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp), hoặc cái sở chỉ
(theo tác giả Cao Xuân Hạo), hay “yếu tố được quy chiếu” (theo tác giả Diệp
Quang Ban). Theo đó, CV được hiểu là đối tượng hay thực thể cụ thể của
thực tế khách quan được các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thông qua việc
thực hiện quy chiếu của người sử dụng, trong ngữ cảnh cụ thể, do đó, còn
được gọi là “vật được chiếu”. “Vật” trong “chiếu vật” được hiểu là các thực
thể (entities) tồn tại ở các dạng thức khác nhau trong thế giới: dạng vật chất
5
hoặc tinh thần; thực thể có thật hoặc là sản phẩm của tưởng tượng và hư cấu;
số ít hay số nhiều; một cá thể hay một tập hợp như giống loài…
- Trong phạm vi ngữ liệu khảo sát của luận án, các thực thể có tư cách
làm CV của các BTCV có từ “trăng", "hoa", "gió", tùy từng ngữ cảnh cụ thể,
có thể là chính các sự vật thiên nhiên như mặt trăng, ngọn gió, loài hoa cụ
thể hoặc có thể là các sự vật, hiện tượng "phi thiên nhiên" như : nhân vật cụ
thể, hình dáng, điệu bộ, nét mặt, lời nói, tình cảm, cảm xúc, thân phận… của
nhân vật cụ thể…
1.1.2.2. Nghĩa – ý nghĩa – chiếu vật
Nghĩa hay ngữ nghĩa (theo nghĩa rộng: nghĩa của ngôn ngữ nói chung –
meaning) và ý nghĩa của từ (sense) đều có liên quan tới CV bằng ngôn ngữ.
Trước tiên, có thể thấy, cả ý nghĩa của từ (và của tín hiệu ngôn ngữ nói chung)
và CV đều là các bình diện của nghĩa (meaning) của đơn vị ngôn ngữ. Ngoài
hai bình diện này, ngữ nghĩa còn có một số bình diện được phản ánh trong các
loại nghĩa khác nữa, chẳng hạn: nghĩa ngữ pháp, nghĩa sở dụng...). Tuy nhiên,
giữa ý nghĩa của từ và CV của từ đó khi được sử dụng làm BTCV trong ngữ
cảnh giao tiếp cụ thể lại có sự khác biệt tương đối lớn (được chúng tôi khái
quát trong bảng 1.1.) và chủ yếu nhất là chúng nằm ở hai bình diện khác nhau
của ngôn ngữ: ý nghĩa thuộc bình diện hệ thống, mang tính trừu tượng, khái
quát còn CV thuộc bình diện hoạt động của ngôn ngữ, mang tính cụ thể.
1.1.3.2. Hệ quy chiếu
HQC là một khái niệm công cụ quan trọng mà chúng tôi lấy làm cơ sở lý
thuyết cho việc triển khai đề tài. Sự vật có thể tồn tại trong những thế giới rất
khác nhau, có những thế giới hiện hữu, có thật và cũng có những “thế giới có
thể có” (thường được gọi là “thế giới khả hữu”) mà trong đó sự vật có thể tồn
tại theo một cách khác. Cùng một lúc, có nhiều thế giới khả hữu khác nhau
đồng thời tồn tại: thế giới thực hữu, thế giới tưởng tượng, hư cấu trong thần
thoại, cổ tích hay truyền thuyết và các tác phẩm văn học; thế giới tâm linh,
siêu nhiên với sự tồn tại của các hồn ma, bóng quỷ… Tuy nhiên, khi thực hiện
quy chiếu bằng các BTCV trong một ngữ cảnh giao tiếp cụ thể, chỉ một thế
giới khả hữu mà ở đó sự vật – CV tồn tại mới được người nói lựa chọn làm
“HQC” cho BTCV của mình và đưa vào trong ngữ cảnh thông qua phát ngôn.
Việc phân loại và miêu tả CV của các BTCV trong luận án này cũng dựa
vào việc xác định đúng thế giới khả hữu – HQC mà ở đó các sự vật được quy
chiếu tồn tại. Theo đó, thế giới hư cấu trong diễn ngôn Truyện Kiều có thể
được phân chia thành các bộ phận – HQC khác nhau như sau: thiên nhiên, con
người/nhân vật, đồ vật, tình cảm, cuộc đời, sự kiện, thời gian, tâm linh…
1.1.3.4. Cơ sở xác định chiếu vật của các biểu thức chiếu vật trong luận án
- Cơ sở thứ nhất: Dựa vào ngữ cảnh giao tiếp (ngữ cảnh tình huống và ngữ
cảnh văn hóa) mà ở đó biểu thức chiếu vật được sử dụng.
6
- Cơ sở thứ hai: Dựa vào ý nghĩa từ vựng của từ, ngữ cấu tạo nên BTCV
(như đã trình bày khái quát trong 1.1.3.2)
- Cơ sở thứ ba: Dựa vào quan hệ kết hợp của các tín hiệu ngôn ngữ làm
BTCV với các tín hiệu ngôn ngữ khác
1.1.4. Chiếu vật trong tác phẩm văn học
Một trong những thế giới khả hữu không có thực chính là thế giới khả hữu
tồn tại trong các sản phẩm hư cấu – thế giới hư cấu (fictional world). Thế giới
khả hữu của các nhân vật hư cấu chính là tác phẩm hư cấu mà ở đó nhân vật
xuất hiện, hành động, nói năng… Trong thế giới khả hữu đó, nhân vật tồn tại
thực sự và khi được quy chiếu bằng ngôn ngữ thì nó chính là “vật được chiếu”
của BTCV được sử dụng. Chiếu vật về các thực thể hư cấu cũng có nhiều loại:
có chiếu vật của tác giả trong tác phẩm; chiếu vật của người đọc trong các
diễn ngôn về tác phẩm; chiếu vật của chính nhân vật trong tác phẩm… Khi đó,
ngoài chủ thể thực hiện quy chiếu là tác giả, còn có chủ thể thực hiện quy
chiếu là nhân vật trong tác phẩm. Chúng tôi đã khái quát một số điểm chính
trong tương quan giữa chiếu vật của tác giả và chiếu vật của nhân vật trong
Truyện Kiều thể hiện trong bảng 1.2. trong luận án.
1.2. LÝ THUYẾT HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
1.2.1. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp
- Ngữ cảnh (situational context; context of situation): Thông thường,
ngữ cảnh được hiểu là “bối cảnh ngoài ngôn ngữ của một phát ngôn hay là
những thông tin ngoài ngôn ngữ góp phần tạo nên nghĩa (của phát ngôn)” [19;
97]. Các hợp phần của ngữ cảnh gồm: đối ngôn và hiện thực ngoài diễn ngôn.
- Ngôn ngữ (language): Mỗi cuộc giao tiếp đều sử dụng một ngôn ngữ
cụ thể nào đó làm phương tiện, nên nói tới ngôn ngữ trong vai trò là nhân tố
giao tiếp cũng chính là nói tới ngôn ngữ cụ thể mà các đối ngôn sử dụng
trong cuộc giao tiếp của họ.
- Diễn ngôn (discourse): Diễn ngôn là khái niệm chỉ sản phẩm sau cùng
của cuộc giao tiếp giữa các đối ngôn, trong đó lại bao gồm các diễn ngôn riêng
của từng đối ngôn trong giao tiếp. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một diễn
ngôn vừa tiêu biểu vừa độc đáo: tồn tại đồng thời ở cả dạng nói (qua phương
thức truyền miệng giống như văn học dân gian) và dạng viết (qua các văn bản
Truyện Kiều); là sản phẩm của hoạt động giao tiếp gián tiếp và đa thoại (một
người tạo lập – vô số người tiếp nhận) và cho đến nay vẫn chưa kết thúc.
1.2.2. Các nhân tố giao tiếp và chiếu vật
Hoạt động giao tiếp chính là tương tác liên tục giữa con người với con
người, với tất cả nguồn lực của cá nhân, để tạo ra và tiếp nhận các BTCV
trong hoạt động hành chức của ngôn ngữ. Mỗi diễn ngôn như Truyện Kiều,
bài ca dao hay bài Thơ Mới đều có tư cách như là sản phẩm của các hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ (giao tiếp nghệ thuật), và trong hoạt động đó
7
luôn tồn tại sự tương tác giữa các nhân tố giao tiếp như các đối ngôn (tác giả
và bạn đọc), ngữ cảnh, tình huống giao tiếp (có sự giãn cách đặc biệt về thời
gian, không gian và bối cảnh văn hóa, xã hội giữa các bên đối ngôn) và ngôn
ngữ (ngôn ngữ nghệ thuật). Tất cả các nhân tố này đều được vận dụng trong
việc nhận diện các BTCV và CV của chúng trong luận án.
1.3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Dựa trên những cơ sở lý luận như trên, luận án này triển khai đề tài trên
các bình diện diện chính của BTCV được sử dụng trong hoạt động giao tiếp:
Trên bình diện cái biểu đạt, luận án khảo sát, phân loại và miêu tả các các
kiểu cấu tạo khác nhau (từ, cụm từ) và quan hệ kết hợp của các của các
BTCV. Trên bình diện cái được biểu đạt, luận án tiến hành khảo sát, phân
loại và mô tả các CV trên những HQC khác nhau của các BTCV được khảo
sát. Trên từng bình diện đó, chúng tôi đều tiến hành so sánh những đặc điểm
của các BTCV này trong Truyện Kiều với ca dao và Thơ Mới.
CHƯƠNG 2: CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ
“TRĂNG", “HOA”, GIÓ” TRONG TRUYỆN KIỀU TRÊN BÌNH DIỆN
CÁI BIỂU ĐẠT (SO SÁNH VỚI CA DAO VÀ THƠ MỚI)
2.1. CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ “TRĂNG", “HOA”, GIÓ”
TRONG TRUYỆN KIỀU TRÊN BÌNH DIỆN CÁI BIỂU ĐẠT
2.1.1. Cấu tạo của các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió”
trong Truyện Kiều
2.1.1.1. Kết quả khảo sát
- Theo bảng số liệu 2.1, trong Truyện Kiều, có tất cả 20 yếu tố ngôn ngữ
xuất hiện trong 273 BTCV thuộc 3 nhóm BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió”
kể trên. Nhóm BTCV có từ “hoa” có số lượng nhiều nhất với 153/273
BTCV, chiếm 56.04%. Nhóm BTCV có tỷ lệ cao thứ hai là các BTCV có từ
“gió” với 63/273 = 23.08%. Nhóm BTCV có tỷ lệ thấp nhất là các BTCV có
từ “trăng” với 57/273 = 20.88%).
- Các BTCV được khảo sát có 3 kiểu cấu tạo chính, trong đó: các BTCV
có cấu tạo là ngữ danh từ (NDT) chiếm ưu thế hơn cả (118/273 = 43.22%),
tiếp đến là các BTCV có cấu tạo là danh từ (DT) (25/273 = 38.46%). Các
BTCV có cấu tạo là cụm từ sóng đôi có tỷ lệ thấp nhất (50/273 = 18.32%).
2.1.1.1.Các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện
Kiều có cấu tạo là ngữ danh từ
Thành tố trung tâm:
- Thành tố trung tâm do các DT thuộc các nhóm “trăng”, “hoa”, “gió”
đảm nhiệm: các DT chỉ sự vật thiên nhiên thuộc các nhóm được khảo sát (hoa,
trăng, nguyệt, gió, phong, lê, đào, sen…) xuất hiện với tư cách là các thành tố
Tr.t trong các BTCV trong Truyện Kiều lại chỉ chiếm tỷ lệ bằng khoảng một
8
nửa (33.9%) so với các DT không thuộc các nhóm này (66.1%). Điều này đã
tạo ra một hiện tượng lạ thường trong việc sử dụng các BTCV có từ “trăng”,
“hoa”, “gió” nói riêng và các BTCV có chứa các yếu tố thuộc trường từ vựng
thiên nhiên nói chung để thực hiện quy chiếu trong Truyện Kiều. Thậm chí,
ngay cả khi các DT thuộc các nhóm này nằm ở vị trí Tr.t thì hầu hết chúng đều
kết hợp với một DT đơn vị tự nhiên đứng trước (cành, đóa, bông, mảnh, vành,
vừng, trận, cơn…) để cùng làm Tr.t của cả NDT.
- Thành tố trung tâm do các DT khác (không thuộc các nhóm từ được
khảo sát) đảm nhiệm, gồm: các DT đơn vị tự nhiên được dùng để cá thể hóa
các sự vật hiện tượng thiên nhiên (như: đóa, tấm, cơn, trận, phen…); hoặc
các DT sự vật không chỉ sự vật, hiện tượng thiên nhiên. Các DT này có thể
chỉ người (kẻ, người, tuồng,…); hoặc chỉ ngoại hình, dáng vẻ, lời nói (khuôn,
lời, tiếng, gót, nét, điệu,…); hoặc các DT chỉ các khái niệm trừu tượng về số
phận, thân phận con người (thân, phận, số, kiếp, nghiệp,…); hoặc chỉ tấm
lòng, tình cảm (lòng, tình, nghì…); hoặc DT chỉ thời gian, nơi chốn (khi,
mùa, tuần, phen, miền, chốn…); hoặc các DT “trống nghĩa” (sự, điều,…)
thường được dùng để “sự vật hóa” các hoạt động, trạng thái, đặc điểm…
đứng trong phần phụ sau của NDT làm BTCV; hoặc các DT chỉ sự vật có
thuộc tính vật chất (then, thềm, buồng, am, trướng, tiệc,…). Có thể thấy, với
các DT chỉ sự vật nhưng không thuộc trường từ vựng thiên nhiên làm trung
tâm, các NDT làm BTCV trong trường hợp này có khả năng chiếu vật phong
phú tới nhiều HQC nhất.
- Thành tố phụ trước:
Số các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” là NDT có thành tố Ph.t không
nhiều và không phong phú về mặt vị trí, chủ yếu là vị trí (-2) - chỉ lượng.
Trong đó có cả các thành tố Ph.t chỉ lượng xác định (một, ba, bốn, năm) và
các thành tố Ph.t chỉ lượng ước chừng (như nửa, lưng, mấy, mười mấy, một
vài (và), chút…). Chúng tôi nhận thấy hầu như không có thành tố phụ nào
của các BTCV này biểu thị một lượng nhiều mà chỉ là một lượng ít, thậm chí
rất ít ỏi (một, nửa, lưng…).
- Thành tố phụ sau:
Hầu hết các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” là NDT đều có thành tố
Ph.s và chỉ có ở vị trí (1) – định tố hạn định hoặc miêu tả, cũng tức là các miêu
tả tố của các BTCV. Cấu tạo của thành tố Ph.s của các NDT này thường là
một trong hai trường hợp sau: Trường hợp thứ nhất là Ph.s là các DT chỉ sự
vật, hiện tượng thiên nhiên (thuộc các nhóm trăng, hoa, gió…) hoặc tổ hợp có
chứa các DT này (trăng gió, trăng hoa, đào hoa, liễu bồ, trăng gió vật vờ,
mưa gió tan tành, sóng gió bất kỳ, …), hoặc một cụm C-V (hoa rơi, hoa
rụng…). Trường hợp thứ hai là Ph.s là các DT/động từ/ tính từ/đại từ hoặc các
cụm động/ tính từ để biểu thị một hoạt động, trạng thái hoặc đặc điểm của sự
9
vật do DT Tr.t biểu thị (hoa đào năm ngoái, cành lê trắng, gió chiều, gió
đông, hoa xuân đương nhị, hoa tàn, trăng tàn, đào non, hoa cuối mùa,…).
2.1.1.3. Biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều có
cấu tạo là danh từ
Ngữ liệu cho thấy, có 105/273 (38.46%) BTCV có từ “trăng”, “hoa”,
“gió” trong Truyện Kiều có cấu tạo là DT (đều là DT chung), đứng ở vị trí
thứ hai về số lượng, sau kiểu cấu tạo NDT. Theo phương thức cấu tạo từ của
tiếng Việt, các BTCV là DT chỉ có hai loại: từ đơn (chiếm đa số - 59.05%) và
từ ghép (40.95%).
- BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều là từ đơn: chỉ có
08 yếu tố được sử dụng để tạo ra 62 BTCV là từ đơn, gồm: hoa, đào, trăng,
nguyệt, gương, thỏ, gió. Các từ đơn này đều có ý nghĩa từ vựng chỉ sự vật,
hiện tượng thiên nhiên và chúng đều thực hiện được chức năng chiếu vật cá
thể. Trong số đó, hoa được dùng độc lập để chiếu vật nhiều lần nhất (37 lần),
làm thành các BTCV đồng âm nhưng quy chiếu tới nhiều sự vật khác nhau
trong những ngữ cảnh cụ thể khác nhau, trên những HQC khác nhau: Thiên
nhiên con người, cái hay/vẻ đẹp của các đồ vật/ thực thể khác…
- BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều là từ ghép: chiếm
tỷ lệ thấp hơn so với các từ đơn, khoảng 40.95% (53/105), trong đó, các từ
ghép phân nghĩa chiếm ưu thế hơn (60.47%) các từ ghép hợp nghĩa
(39.53%). Các từ ghép phân nghĩa làm BTCV có bốn kiểu kết hợp phong
phú, đáng chú ý nhất là kiểu kết hợp giữa một hình vị không thuộc trường từ
vựng thiên nhiên với một trong các yếu tố thuộc các nhóm “trăng”, “hoa”,
“gió” (tuần trăng, cung trăng, khuôn trăng, nét nguyệt, lửa lựu…). Có thể
thấy ở kiểu cấu tạo này, việc Nguyễn Du sử dụng kết hợp các yếu tố X1 – X2
đã làm cho các yếu tố ngôn ngữ thuộc các nhóm “trăng”, “hoa”, “gió” (X2)
hầu như không còn giữ nguyên ý nghĩa từ vựng vốn có trong từ điển của
chúng: hoặc chúng trở thành yếu tố cụ thể hóa ý nghĩa cho X1 (vốn không có
ý nghĩa cụ thể, chẳng hạn: khuôn trăng – khuôn mặt tròn đầy của Thúy Vân,
nét nguyệt – nét mày thanh tú của nàng Kiều…); hoặc chúng được “thay thế”
bằng tên gọi của một sự vật khác (chẳng hạn: lửa lựu – hoa lựu). Các BTCV
có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều có cấu tạo là từ ghép hợp nghĩa
đáng chú ý nhất là các từ do sự kết hợp trực tiếp của các yếu tố “trăng”, “hoa”
và “gió” tạo thành: trăng gió (2 lần), trăng hoa (3 lần), gió trăng (1 lần).
2.1.1.4. Các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” là kết cấu sóng đôi
Luận án gọi là các “kết cấu sóng đôi” (KCSĐ) với nghĩa là các tổ hợp từ
tự do có kết cấu gồm hai bộ phận (thành tố) có quan hệ đẳng lập với nhau
theo kiểu sóng đôi, đối xứng nhau. Mỗi bộ phận này có thể gồm một từ, một
cụm từ chính phụ hoặc một cụm C-V tương đương nhau về số lượng âm tiết,
đặc điểm từ loại và ý nghĩa mà chúng biểu thị. Tính chất “sóng đôi” làm cho
10
kiểu cấu tạo này có tính tương đối ổn định về hình thức và “tính thành ngữ”
về ý nghĩa cho toàn bộ tổ hợp. Ngữ liệu khảo sát của luận án cho thấy các
BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều là KCSĐ biểu hiện
bằng ba kiểu cấu tạo cụ thể như là: DT/NDT + DT/NDT (44%), CCV + CCV
(34%), ĐT/NĐT + ĐT/NĐT (22%). Trong mỗi KCSĐ đều xuất hiện ít nhất
hai yếu tố ngôn ngữ thuộc trường từ vựng chỉ thiên nhiên. Các yếu tố ngôn
ngữ này thường biểu thị những sự vật, hiện tượng hay đi kèm thành các cặp
hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng đối lập nhau và mỗi yếu tố làm thành một
“vế” của KCSĐ đó (sóng gió – cỏ hoa, bèo – mây, bèo – nước/ sóng, trời đất, trời – nước/bể,…) hoặc tương đồng, hô ứng cho nhau (trăng – hoa,
trăng – gió, gió – sương, gió – mây,gió – mưa, cây/lá – hoa/cỏ, bể - sông, …)
trong Truyện Kiều. Hơn thế nữa, các yếu tố ngôn ngữ còn lại trong cấu tạo
của các BTCV là KCSĐ đa số là các từ chỉ các đặc điểm/ trạng thái/ quá
trình tương đồng hoặc tương ứng với nhau và cũng tạo thành các cặp từ có
quan hệ chặt chẽ và thường biểu thị: các quá trình chảy trôi của thời gian hay
quá trình đổi thay, tàn phai, héo úa, hao mòn của sự vật do những tác động
bên ngoài tạo nên (như: chảy – trôi, rụng – rơi, trôi – giạt, rụng – bay, ủ phai, nát – tàn…); hoặc những vận động mang tính chất nhanh, mạnh, gấp
gáp (như: vùi – dập, ép – nài, táp – sa, vẫy – tuôn, bắt – cầm, đội – đạp, chọc
– khuấy, đổ - rung,…).
2.1.2. Quan hệ kết hợp của các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”,
“gió” trong Truyện Kiều
2.1.2.1. Quan hệ kết hợp ở cấp độ cụm từ
Xét quan hệ kết hợp của các BTCV được khảo sát ở bậc cụm từ (55.3%),
chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện của chúng ở từng loại cụm từ khác nhau có
sự chênh lệch nhất định: chủ yếu tham gia vào cấu tạo của cụm từ chính- phụ
(92.7%), một số ít tham gia vào cấu tạo của các cụm từ đẳng lập (9.3%).
Khi các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” tham gia vào cấu tạo của các
cụm từ chính-phụ, có rất ít trường hợp các BTCV này giữ vai trò làm thành tố
trung tâm (3.57%) mà chúng chủ yếu làm các thành tố phụ trong các cụm từ
(96.43%). Khi giữ vai trò làm thành tố phụ trong các cụm từ chính phụ, nhóm
các BTCV có từ “hoa” có khả năng kết hợp trực tiếp với các thành tố trung tâm
trong cụm từ chính phụ nhiều hơn hẳn hai nhóm BTCV còn lại. Các BTCV
được khảo sát thường kết hợp với một số loại thành tố trung tâm chính như: vị
từ chỉ hoạt động cảm giác, vị từ tạo tác, vị từ chỉ trạng thái tâm lý/ nhận thức, vị
từ chỉ trạng thái tồn tại hoặc quan hệ, vị từ chỉ hành động di chuyển…
Trong cụm từ đẳng lập, mỗi BTCV có tư cách như một thành tố cấu tạo
và tương đương với thành tố còn lại của cụm từ cả về đặc điểm ngữ pháp và
ngữ nghĩa. Số lượng các thành tố trong cụm từ đẳng lập ở đây thường chỉ
gồm 2 thành tố, trong đó có một thành tố là BTCV được xét, do vậy, chúng
11
cũng mang tính chất “sóng đôi” nhưng không có “tính thành ngữ” cao như
các BTCV là KCSĐ.
2.1.2.2. Quan hệ kết hợp ở cấp độ câu
- Các BTCV làm thành phần chủ ngữ trong câu: có 84/273 BTCV
được khảo sát (30.77%) làm chủ ngữ và có đủ kiểu cấu tạo là DT, NDT và
KCSĐ, nhưng chiếm đa số vẫn là các BTCV là DT và NDT. Chúng thường
kết hợp với các vị ngữ có chứa các vị từ trung tâm có thể quy về một số
nhóm chính sau: vị từ chỉ trạng thái tồn tại, vị từ biểu thị đặc điểm hoặc trạng
thái của sự vật, vị từ chỉ quá trình, vị từ hành động tác động hoặc di chuyển...
Có thể thấy các thuộc tính (đặc điểm/ trạng thái) của sự vật đều là thuộc tính
tĩnh và còn hành động lại nhanh, mạnh và gấp, nhiều từ trong đó có sắc thái
biểu cảm thiên về trạng thái tiêu cực. Dường như phần lớn chúng đều để tả
những đặc điểm, trạng thái không còn trọn vẹn, không còn đẹp đẽ, tươi tắn,
hạnh phúc mà là trạng thái bị hao mòn, bị tác động làm cho thay đổi hoặc tan
biến. Khi kết hợp với các vị từ này, các BTCV làm chủ ngữ quy chiếu đến
các sự vật trên cả HQC thiên nhiên và HQC con người/ nhân vật. Do đó, nếu
đặt những câu thơ với CN và VN như vậy cạnh nhau sẽ khiến cho người đọc
Truyện Kiều ít nhiều đều cảm nhận được một sự chảy trôi miên viễn, một
quy luật biến đổi bất khả kháng của tự nhiên, của vạn vật trong vũ trụ trong
đó có con người.
- Các BTCV làm thành phần trạng ngữ trong câu: Các BTCV có từ
“trăng”, “hoa”, gió” làm thành phần trạng ngữ trong câu cũng có số lượng
tương đối lớn trong số các BTCV trực tiếp đảm nhiệm thành phần cấu tạo câu
(24/122 = 19.67%). Về cấu tạo, phần lớn các BTCV làm trạng ngữ đều có cấu
tạo là KCSĐ hoặc các NDT có thành tố phụ sau là một KCSĐ. Các trạng ngữ
do các BTCV đảm nhiệm cũng biểu thị được hầu hết những vai nghĩa phổ
biến của trạng ngữ nói chung, đó là: thời gian (cả thời điểm và thời khoảng),
không gian, nguyên nhân, cảnh huống, điều kiện... của sự vật, sự việc được
nói tới trong câu. Đặc biệt nhất là ý nghĩa chỉ thời gian diễn ra sự việc không
chỉ là các thời điểm cụ thể xảy ra sự việc mà còn có thể biểu thị được dòng chảy
thời gian, sự luân chuyển của thời gian bốn mùa hay một thời khoảng nào đó
trong diễn biến cốt truyện. Trong trường hợp này, các BTCV có thể có hoặc
không kết hợp với các trạng từ để làm trạng ngữ, như: lần lần ngày gió đêm
trăng, lần lần thỏ bạc ác vàng, bấy chầy gió táp mưa sa, cữ gió tuần mưa…
- Các BTCV làm thành phần khởi ngữ trong câu: Trong vai trò làm
khởi ngữ, ngữ liệu của luận án cho thấy chỉ có các BTCV có từ “hoa” chứ
không có BTCV thuộc hai nhóm còn lại. Các BTCV này thường đứng độc lập,
không kết hợp thêm với các yếu tố ngôn ngữ khác để làm khởi ngữ của câu.
12
2.2. SO SÁNH CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ “TRĂNG”,
“HOA”, “GIÓ” TRONG TRUYỆN KIỀU VỚI CA DAO VÀ THƠ MỚI
TRÊN BÌNH DIỆN CÁI BIỂU ĐẠT
- Điểm tương đồng:
+ Về cấu tạo, các BTCV được khảo sát trong Truyện Kiều, ca dao và Thơ
Mới đều có 3 kiểu cấu tạo: DT, NDT, KCSĐ, trong đó: các BTCV là DT có 2
kiểu cấu tạo chính (tỷ lệ chênh lệch giống nhau: từ đơn nhiều hơn ghép, từ
ghép phân nghĩa nhiều hơn từ ghép hợp nghĩa); các BTCV là NDT có các yếu
tố ngôn ngữ thuộc các nhóm “trăng”, “hoa”, “gió” có thể làm trung tâm hoặc
làm thành tố phụ; các KCSĐ đều có số lượng và tỷ lệ thấp nhất và được tạo
nên do sự kết hợp giữa hai thành tố đều là DT/NDT hoặc ĐT/NĐT hoặc CCV.
+ Về quan hệ kết hợp, các BTCV trong Truyện Kiều, ca dao và Thơ Mới
đều có khả năng kết hợp với các yếu tố ngôn ngữ khác để trực tiếp làm thành
phần cấu tạo ở cấp độ cụm từ hoặc cấp độ câu. Trong cụm từ (chủ yếu là cụm
từ chính phụ), các BTCV này có thể làm thành tố trung tâm hoặc thành tố
phụ sau và tỷ lệ nhiều hơn nghiêng về việc làm thành tố phụ ở cả ba nguồn
ngữ liệu khảo sát. Khi đó, các BTCV này cùng đứng sau một số loại vị từ
như: vị từ tạo tác, vị từ biểu thị trạng thái tâm lý, vị từ biểu thị trạng thái tồn
tại… Khi tham gia vào các quan hệ kết hợp để trực tiếp làm thành phần câu,
các BTCV có khả năng lớn nhất trong việc giữ chức vụ chủ ngữ trong câu,
tiếp đó là làm thành phần trạng ngữ. Khi làm thành phần chủ ngữ, các BTCV
này thường kết hợp được với đa dạng các loại vị từ, trong đó có nhiều vị từ
biểu thị những thuộc tính (hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất) vốn
không phải thuộc tính sẵn có của các sự vật, hiện tượng thiên nhiên.
- Điểm khác biệt:
+ Điểm khác biệt về cấu tạo: Thứ nhất, nhóm BTCV có từ “hoa” chiếm tỷ
lệ cao nhất và chênh lệch hơn hẳn so với hai nhóm còn lại trong Truyện Kiều
và ca dao; còn trong Thơ Mới thì ưu thế lại thuộc về nhóm BTCV có từ “gió”
và sự chênh lệch không lớn so với các nhóm còn lại. Thứ hai, nếu như trong
Truyện Kiều, các BTCV có cấu tạo là NDT chiếm ưu thế nhưng không chênh
lệch nhiều thì trong ca dao và Thơ Mới, các BTCV có cấu tạo là DT lại chiếm
tỷ lệ vượt trội so với hai kiểu cấu tạo còn lại. Đặc biệt, tỷ lệ các BTCV có cấu
tạo là KCSĐ có sự khác biệt rất rõ trong Thơ Mới so với Truyện Kiều và ca
dao. Có thể thấy, trong khi các KCSĐ thể hiện một nét độc đáo, sáng tạo và có
giá trị biểu đạt riêng trong Truyện Kiều, thì, với trào lưu cách tân ngôn ngữ
thơ, các nhà Thơ Mới không chuộng lối dùng các kiểu kết hợp mang tính ổn
định, đăng đối, cân xứng như các nhà thơ dân gian và trung đại. Thứ ba, xét
riêng kiểu cấu tạo DT làm BTCV, việc sử dụng các BTCV là từ đơn vẫn nhiều
hơn các từ ghép, tuy nhiên, sự chênh lệch này tăng dần từ ca dao đến Truyện
Kiều rồi Thơ Mới, trong đó từ ghép hợp nghĩa làm BTCV được sử dụng ít
13
nhất trong ca dao Việt Nam. Đặc biệt, trong số những từ đơn và từ ghép phân
nghĩa được sử dụng làm BTCV, tên của các loài hoa trong Thơ Mới không
xuất hiện nhiều như trong ca dao và Truyện Kiều. Thứ tư, xét về cấu tạo của
các BTCV là NDT, trong Truyện Kiều, thành tố trung tâm do các DT thuộc
các nhóm “trăng”, “hoa”, “gió” đảm nhiệm chỉ chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều so
với các DT. Trong khi đó, ở ca dao và Thơ Mới thì ngược lại. Điều này cho
thấy trong Truyện Kiều, xét riêng các BTCV là NDT, các yếu tố “trăng”,
“hoa”, “gió” giữ vai trò làm “định tố” nhiều hơn là trung tâm, cũng tức là
chúng đảm nhiệm việc làm “miêu tả tố” trong các BTCV nhiều hơn.
+ Điểm khác biệt về quan hệ kết hợp: Trước hết, sự chênh lệch về tỷ lệ
các BTCV có quan hệ kết hợp ở cấp độ cụm từ và cấp độ câu đều tương đối
lớn trong Truyện Kiều và ca dao, trong khi tỷ lệ này gần như ngang bằng
trong Thơ Mới. Tuy nhiên, khi tham gia vào các quan hệ kết hợp ở cấp độ
cụm từ (chủ yếu là cụm từ chính phụ), các BTCV được khảo sát trong Truyện
Kiều, ca dao và Thơ Mới cùng giữ vai trò làm thành tố phụ sau là chủ yếu (tỷ
lệ trong Truyện Kiều và ca dao vẫn gần nhau hơn so với trong Thơ Mới). Đặc
biệt, khi làm thành tố phụ trong cụm từ, các BTCV được khảo sát trong
Truyện Kiều và ca dao có tần số xuất hiện sau các từ so sánh (như, như thể,
hơn,…) tương đối lớn, trong khi hầu như không thấy xuất hiện trong Thơ
Mới. Đây là điểm kế thừa của Truyện Kiều từ ca dao dân gian, khiến cho lời
thơ vẫn còn như phảng phất tiếng thở dài của những cô gái hát bài ca “than
thân” não nề và u uất. Trong tất cả những hình ảnh thiên nhiên được đưa ra
dùng để ví sánh với người con gái Việt, hình ảnh về những bông hoa, những
loài hoa đẹp và mỏng manh đến dễ bị vùi dập là xuất hiện thường xuyên nhất
trong cả Truyện Kiều và ca dao. Tuy nhiên, ngay ở điểm gặp gỡ này, Truyện
Kiều vẫn khác biệt với ca dao: Truyện Kiều sử dụng các tên loài hoa “có vẻ”
cao sang, đài các thường được trồng nơi nhà quyền quý; trong khi người
nghệ sĩ dân gian lại thường đưa ra những tên gọi các loài hoa bình dị, dân dã
thường thấy nơi làng quê chân chất. Các BTCV này cũng góp phần xây dựng
một thế giới hình tượng nghệ thuật thuộc tầng lớp trung lưu, phong lưu trong
Truyện Kiều khác với thế giới bình dị, thôn dã của nhân dân lao động trong
ca dao. Khả năng đảm nhiệm thành phần câu của các BTCV được khảo sát là
phong phú hơn trong Truyện Kiều và ca dao, tuy nhiên trong Thơ Mới, các
BTCV được khảo sát lại có thể đảm nhiệm vai trò làm thành phần hô ngữ
trong khi không thấy xuất hiện điều này trong Truyện Kiều và ca dao. Bên
cạnh đó, có thể thấy tỷ lệ chênh lệch nghiêng hẳn về vai trò làm chủ ngữ của
các BTCV trong Thơ Mới (trong khi ở Truyện Kiều và ca dao, sự chênh lệch
không lớn như vậy). Điều đó đã phần nào cho thấy thiên nhiên trong Thơ
Mới trở nên một nhân vật trữ tình, có tính cách và hoạt động, tâm trạng riêng
cùng những nhu cầu bộc lộ như con người thay vì là phương tiện để truyền
tải ý tình (“tả cảnh ngụ tình”) như trong thơ văn cổ điển.
14
CHƯƠNG 3:
CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ “TRĂNG", “HOA”, GIÓ”
TRONG TRUYỆN KIỀU TRÊN BÌNH DIỆN CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT
VÀ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG (SO SÁNH VỚI CA DAO VÀ THƠ MỚI)
3.1. CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ “TRĂNG", “HOA”, GIÓ”
TRONG TRUYỆN KIỀU TRÊN BÌNH DIỆN CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT
3.1.1. Phân loại chiếu vật của các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”,
“hoa”, “gió” trong Truyện Kiều
Chúng tôi đã tiến hành phân lập được 7 HQC mà các BTCV có từ “trăng”,
“hoa”, “gió” trong Truyện Kiều thực hiện quy chiếu tới, gồm: HQC thiên nhiên
và HQC người chiếm tỷ lệ ngang nhau và có ưu thế lớn nhất (cùng chiếm
30.4%); các HQC vật nhân tạo và sự kiện đứng thứ hai (khoảng hơn 10%); có
số lượng và tỷ lệ thấp nhất là các BTCV quy chiếu đến HQC chỉ thực thể tâm
linh (chỉ hơn 1%). Số liệu cho thấy việc sử dụng các BTCV có từ “trăng”,
“hoa”, “gió” trong Truyện Kiều không chủ yếu nhằm mục đích “tả cảnh”, “vịnh
cảnh” mà hướng tới việc xây dựng hình tượng nhân vật – con người ở mọi
phương diện trong tác phẩm.
3.1.2. Chiếu vật trên hệ quy chiếu thiên nhiên của các biểu thức chiếu
vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều
Trong Truyện Kiều, 84/273BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” quy chiếu
tới các sự vật, hiện tượng thiên nhiên (cụ thể là trăng, hoa và gió), chiếm một
tỷ lệ tương đối lớn nhưng không phải đa số (30.4%).
- Thực thể trăng được quy chiếu: trong Truyện Kiều, các BTCV có từ
“trăng” có khả năng lớn hơn hẳn so với BTCV “trời” và “đất” trong việc quy
chiếu đến các thực thể rộng lớn trong vũ trụ. Bao nhiêu lần xuất hiện trăng là
bấy nhiêu sự kiện diễn ra trong đời Kiều, cho thấy phần nào tầm quan trọng của
hình tượng “trăng” trong Truyện Kiều. Hơn thế nữa, mặt trăng thiên nhiên được
quy chiếu ở nhiều dạng tồn tại khác nhau, nhiều thời điểm khác nhau của vòng
tuần hoàn vũ trụ với nhiều loại từ và miêu tả tố đi kèm khác nhau trong cấu trúc
của BTCV: thay cho “trăng” ở trung tâm thì có gương, nga, nguyệt; loại từ
đứng trước “trăng” thì có bóng, vầng, tấm, mảnh thậm chí là nửa vành; miêu tả
tố đi kèm phía sau thì có vằng vặc, thề, bạc, gần, khuyết,…
- Các thực thể cây hoa và hoa được quy chiếu: Có thể nói, thế giới cỏ
cây hoa lá được quy chiếu trong Truyện Kiều để lại ấn tượng trong lòng
người tiếp nhận bởi đó là thế giới bao bọc quanh nhân vật chính – Thúy
Kiều. Trong thế giới đó, “hoa” dường như là thực thể phổ biến và xuyên suốt
nhất Truyện Kiều. Rất nhiều lần, hoa được quy chiếu một cách chung chung
chỉ loại chứ không chỉ một loài hoa cụ thể, bông hoa cụ thể nào trong ngữ
cảnh, làm thành không gian sinh hoạt, cái nền cảnh vật để trong đó nhân vật
đi đứng, hoạt động, nói năng. Có rất ít loài cây và hoa cụ thể được quy chiếu
trong khi có tới 12 tên gọi các loài hoa được sử dụng trong 153 BTCV có từ
15
“hoa” (cúc, đào, đồ mi, hải đường, hạnh, lan, huệ, lê, mai, mẫu đơn, phù
dung, sen). Các loài hoa trong Truyện Kiều cũng mang một điểm chung là
những loài hoa vốn được coi là cao sang, quý phái, thường xuất hiện trong
vườn cảnh được chăm chút, nâng niu chứ ít khi là loài mọc ven đường hay
nơi thôn dã. Đặc điểm này có phần hô ứng với đặc điểm xuất thân của các
nhân vật, làm cho chúng cùng góp phần thể hiện được không gian sinh hoạt
của tầng lớp thượng lưu, trung lưu trong xã hội Truyện Kiều.
- Thực thể gió được quy chiếu: Trong Truyện Kiều, các từ chỉ các hiện
tượng thời tiết tương đối nhiều (gió (phong), mây, mưa, nắng, sương, tuyết...)
nhưng chỉ có số ít BTCV quy chiếu tới các hiện tượng thời tiết một cách trực
tiếp, trong số đó, các BTCV có từ “gió” là chủ yếu. Các bức tranh thiên
nhiên xuất hiện các hiện tượng thời tiết trong Truyện Kiều cũng không mang
vẻ đẹp tươi sáng, thanh cao như trong các bài Đường thi vịnh cảnh, tả cảnh
mà thường đem lại những mảng tối u ám cho bức tranh cảnh vật thiên nhiên,
tạo nên những ấn tượng, dự cảm chẳng lành về cuộc đời, số phận con người
và đặc biệt xuất hiện tập trung trong một số sự kiện quan trọng của đời Kiều.
Hầu hết các yếu tố miêu tả đặc tính của gió đều là các động từ/ tính từ mạnh,
nhanh (giật, cuốn, trút, lọt, cao…) tô đậm ấn tượng về những cơn cuồng
phong, giông bão có sức công phá, huỷ diệt lớn. Thuộc tính vốn có của gió là
vô hình vô ảnh, luôn náo động, luôn di chuyển không ngừng. Nhưng trong
Truyện Kiều, dường như nhân vật có thể “sờ”, “nhìn”, “cảm” thấy gió qua
những biến động, đổi thay của các sự vật khác xung quanh.
3.1.3. Chiếu vật trên hệ quy chiếu con người của các biểu thức chiếu vật
có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều
Con người trong Truyện Kiều chính là các nhân vật được quy chiếu bằng
83 (30.4%) BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” (ngoài ra còn rất nhiều các
BTCV chứa các từ chỉ thiên nhiên khác). Ngữ liệu cho thấy các BTCV trong
Truyện Kiều có thể biểu đạt hầu như mọi phương diện về nhân vật (xưng hô,
ngoại hình, phẩm chất, tâm trạng, thân phận, hành động,…). Đặc biệt, trên
phương diện chỉ đặc điểm của nhân vật, các BTCV này có thể quy chiếu cụ
thể đến hình dáng, nét mặt, lời nói, cử chỉ, điệu bộ, hành động, phẩm chất, ý
chí hay tính cách, thân phận… của một nhân vật cụ thể trong một ngữ cảnh
cụ thể. HQC con người là một trong 2 HQC quan trọng vào bậc nhất của các
BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều.
3.1.4. Chiếu vật trên hệ quy chiếu vật nhân tạo của các biểu thức chiếu
vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều
Một trong những đặc điểm đặc biệt của các BTCV có từ “trăng”, “hoa”,
“gió” trong Truyện Kiều là việc chúng được sử dụng tương đối nhiều lần (42
lần) để quy chiếu tới các thực thể nhân tạo (những thực thể vật chất hoặc tinh
thần là sản phẩm do con người tạo ra) trong Truyện Kiều. Trong các BTCV
16
đó, chủ yếu nhất vẫn là khi chúng trở thành các miêu tả tố để làm dấu hiệu
chỉ báo quy chiếu hoặc chỉ đơn thuần là một thói quen sử dụng ngôn ngữ của
tác giả, trong đó nhóm BTCV có từ “hoa” chiếm ưu thế gần như tuyệt đối
(38/42 = 90.48%).Các miêu tả tố này còn góp phần làm nổi bật tính chất đẹp
đẽ và “thiên tính nữ” của các vật thể được quy chiếu, như một lần nữa thêm
khẳng định cái đẹp, vật đẹp, người đẹp luôn đi liền nhau, gắn bó với nhau.
3.1.5. Chiếu vật trên hệ quy chiếu sự kiện của các biểu thức chiếu vật có
từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều
Điều đặc biệt khác của các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện
Kiều là khả năng quy chiếu đến các sự kiện, chi tiết của cốt truyện (cũng tức là
các biến cố, tình huống, tình thế diễn ra trong cuộc đời của các nhân vật). Hơn
thế nữa, ngữ liệu cho thấy, HQC này chiếm số lượng và tỷ lệ tương đối cao
(đứng thứ 4) trong số các HQC(39/273 = 14.3%).Ở phương diện này, các
BTCV đã thực hiện được chức năng chiếu vật và chức năng miêu tả một cách
hiệu quả, góp phần không nhỏ trong việc tạo nên chuỗi các blog sự kiện làm
nên cốt truyện và thể hiện tính tự sự của tác phẩm một cách rõ nét.
3.1.6. Chiếu vật trên hệ quy chiếu tình cảm của các biểu thức chiếu vật
có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều
Trong Truyện Kiều có 13 BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” được sử
dụng để quy chiếu đến các cung bậc tình cảm của nhân vật. Một điều đáng
lưu ý là các cung bậc của tình cảm, tâm trạng nhân vật được bộ lộ tương đối
rõ nét và tinh tế qua các hình ảnh thiên nhiên (chứ không phải chỉ qua việc
miêu tả cảnh vật thiên nhiên mang màu sắc tâm trạng). Đáng kể nhất và
chiếm nhiều dụng công cùng với số BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” nhất
chính là tình cảm nam – nữ mà ở đây vẫn là xoay quanh nhân vật Thúy Kiều.
Nàng Kiều của Nguyễn Du đã có những trải nghiệm, các cung bậc cảm xúc
khác nhau được diễn tả một cách gián tiếp qua một loạt các BTCV có từ
“trăng”, “hoa”, “gió” và các BTCV chứa các yếu tố chỉ thiên nhiên khác.
3.1.7. Chiếu vật trên hệ quy chiếu thời gian của các biểu thức chiếu vật
có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều
Ngữ liệu cho thấy có 10 BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” quy chiếu đến
thời gian nhưng bên cạnh đó còn có rất nhiều các BTCV chứa các yếu tố
ngôn ngữ chỉ thiên nhiên khác cùng thực hiện chức năng quy chiếu trên HQC
thời gian trong Truyện Kiều. Đặc điểm chung của các BTCV này là đều có
một yếu tố từ vựng có nghĩa biểu vật chỉ thời gian tham gia vào cấu trúc của
BTCV. CV trên HQC thời gian có thể quy chiếu tới thời điểm hay thời khoảng
cụ thể diễn ra các sự kiện, biến cố trong cốt truyện.
3.1.8. Chiếu vật trên hệ quy chiếu thực thể tâm linh của các biểu thức
chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều
17
Trong Truyện Kiều có một nhân vật đặc biệt cũng được quy chiếu bởi các
BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió”: vô hình, vô tướng, vô dạng, nhưng lại
hiện hữu từ đầu tới cuối tác phẩm; không có hành động cụ thể nào nhưng lại
có năng lực siêu nhiên, sức mạnh bất khả đối, chi phối, sắp đặt tất cả mọi
đường đi nước bước trong cuộc đời Thúy Kiều; không có lời nói trực tiếp
nào nhưng lại có “tuyên ngôn” rất rõ ràng, kiên quyết qua lời của các “phát
ngôn viên” như Giác Duyên, Tam hợp đạo cô, thậm chí cả Thúy Kiều và
Nguyễn Du nữa… Nhân vật này không có tính cách, số phận nhưng lại có
lòng thù ghét khách “má hồng” (hồng nhan bạc mệnh, trời xanh quen thói má
hồng đánh ghen) và kẻ có tài, có tình (tài tình chi lắm cho trời đất ghen).
Nhân vật này không có tên riêng như các nhân vật khác nhưng lại được đồng
quy chiếu rất nhiều lần và bằng nhiều “cái tên” khác nhau, trong đó có cả các
BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió”, trong Truyện Kiều: trời, trời đất, trời xanh,
xanh kia, trăng già, hóa nhi, hóa công, con tạo, khuôn thiêng, khuôn xanh,
gương nhật nguyệt, bóng mặt trời,… Đó chính là nhân vật “ông trời” đại diện
cho thuyết Thiên mệnh chi phối cuộc đời con người, thể hiện nhân sinh quan
của tác giả Truyện Kiều.
3.2. SO SÁNH CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ “TRĂNG”,
“HOA”, “GIÓ” TRONG TRUYỆN KIỀU VỚI CA DAO VÀ THƠ MỚI
TRÊN BÌNH DIỆN CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT
- Điểm tương đồng: Nhìn chung, trên bình diện cái được biểu đạt, các
BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều, ca dao và Thơ Mới đều
có khả năng thực hiện quy chiếu trên nhiều HQC khác nhau. Có những HQC
xuất hiện xuyên suốt từ ca dao đến Truyện Kiều rồi đến Thơ Mới, đó là: thiên
nhiên, con người, tình cảm, thời gian, vật nhân tạo… Điều này cho thấy, các
từ ngữ vốn có ý nghĩa chỉ các sự vật, hiện tượng thiên nhiên như “trăng”,
“hoa”, “gió” được sử dụng trong văn học Việt Nam với các kết hợp của chúng
đã đem lại khả năng biểu đạt rất lớn, vượt ra ngoài phạm vi ý nghĩa từ vựng
của chúng. Ở trong các BTCV chứa chúng, các từ ngữ chỉ sự vật thiên nhiên
đã cho thấy một khả năng đặc biệt trong việc biểu đạt những thực thể và các
thuộc tính của các thực thể “phi thiên nhiên”.
Bên cạnh đó, các BTCV được khảo sát trong Truyện Kiều và trong ca dao
có nhiều điểm chung do sự gần gũi về khoảng cách thời gian. Truyện Kiều có
nhiều câu thơ mang đậm hơi thở dân gian và ngược lại, có những câu ca dao
có nguồn gốc từ Truyện Kiều. Các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong
Truyện Kiều và ca dao còn có điểm tương đồng trong việc được sử dụng để
quy chiếu đến con người, đặc biệt là người phụ nữ. Cả ca dao và Truyện Kiều
xuất hiện những câu thơ có BTCV có từ “trăng” hoặc “hoa” dùng để quy
chiếu đến người con gái, cùng với những thuộc tính được miêu tả đi kèm là
đẹp từ ngoại hình đến phẩm chất, nhưng lại mong manh, yếu đuối và chịu
18
nhiều bất hạnh. Ngữ liệu của luận án còn cho thấy, cả ca dao và Truyện Kiều
đều xuất hiện hiện tượng sử dụng các BTCV quy chiếu đến người phụ nữ
trong quan hệ kết hợp với các vị từ chỉ trạng thái tâm lý (yêu, vì, nhớ, trông,
đợi, ước, thương, phụ…) hoặc vị từ chỉ hoạt động tác động làm thay đổi đối
tượng, và, đối tượng chịu sự tác động này chính là do các BTCV được khảo
sát quy chiếu tới, chẳng hạn: tìm, bẻ, chơi, hái, vầy, nhặt,… Có lẽ ở đây, tác
giả dân gian và tác giả Truyện Kiều đã cùng chung cảm nhận về nhận về
những giá trị tốt đẹp nhưng không được nâng niu, trân quý, khiến cho nó bị
vùi dập, bị tha hóa, bị hủy diệt, từ đó dẫn đến sự biểu đạt mang âm hưởng
chung của lòng xót xa cho thân phận con người.
- Điểm khác biệt: Trước hết, các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong
Truyện Kiều, ca dao và Thơ Mới có sự khác biệt về số lượng và tỷ lệ của các
HQC, đặc biệt là ở 3 HQC lớn nhất: thiên nhiên, con người và tình cảm. Nếu
như trong Truyện Kiều, các BTCV được sử dụng để quy chiếu tới các thực thể
trên HQC thiên nhiên và con người có tỷ lệ cao nhất và tương đương nhau thì
ở ca dao và Thơ Mới, HQC thiên nhiên chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với các
HQC còn lại. Trong cả ba nguồn ngữ liệu khảo sát, các thực thể thiên nhiên
được quy chiếu với những cách thức không giống nhau. Thiên nhiên trong ca
dao hiện lên qua các BTCV với một dáng vẻ tương đối khách quan, tồn tại
như không gian sinh hoạt của nhân dân lao động và không gian diễn xướng
của những câu hát giao duyên. Đến Truyện Kiều, thế giới của trăng sao, cỏ
cây hoa lá, gió mây dường như đã chuyển dần sang trạng thái vừa khách
quan vừa mang dấu ấn chủ quan, từ tính chất “đơn trị” (trong ca dao) sang
tính “lưỡng trị”: đó là thiên nhiên “nhuốm” màu tâm trạng, là nơi con người
gửi gắm và ký thác những thông điệp thầm kín, riêng tư, không thể nói thành
lời với thủ pháp tả cảnh ngụ tình (người buồn cảnh có vui đâu bao giờ). Đến
Thơ Mới, thiên nhiên lại hiện lên với một trạng thái khác: nó không còn là
những thực thể khách quan, bất biến của vũ trụ nữa mà đã chuyển hẳn sang
phạm trù một sinh thể độc lập, riêng biệt, có đầy đủ sắc thái tâm trạng, có
tâm hồn riêng, sức sống riêng mà thi sĩ là người cảm nhận, giao hòa rõ nhất:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió – Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây (Xuân
Diệu). Thiên nhiên đó còn xuất hiện như một nhân vật trữ tình thực sự, tách
biệt, đối thoại và đồng cảm với cái tôi thi sĩ: nó cũng khát khao giao cảm,
cũng yêu ghét giận hờn, cũng có lúc tỉnh táo lúc mộng mị, lúc buồn sầu lúc
tươi vui... Sự khác biệt này phần nào cho thấy những bước đi của tư duy
nghệ thuật và ngôn ngữ thơ qua các thời kỳ trong lịch sử văn học dân tộc.
Thứ hai, có thể thấy, các BTCV được khảo sát trong Truyện Kiều đã trở
thành phương tiện nghệ thuật nhằm biểu đạt con người với các thuộc tính,
đặc điểm, hoạt động, trạng thái phong phú và sinh động, góp phần quan trọng
trong việc tạo nên thế giới nhân vật – linh hồn của của tác phẩm. Trên HQC
19
con người, các BTCV được khảo sát trong Truyện Kiều có khả năng nổi bật
và tỏ ra hữu dụng hơn hẳn so với các BTCV này trong ca dao và Thơ Mới.
Thứ ba, các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều và
trong ca dao có điểm khác biệt so với Thơ Mới khi chúng được sử dụng
tương đối nhiều để quy chiếu đến các cung bậc tình cảm của con người, nhất
là trong tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng.Tình yêu của các chàng trai, cô
gái thôn quê, qua ca dao, mặc dù vẫn được thể hiện khéo léo, tế nhị thông
qua các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” nhưng ít mang màu sắc cá thể hóa,
cụ thể hóa, có thể vận vào ai cũng được. Còn Truyện Kiều được mệnh danh
là bức tranh của “một ngàn tâm trạng” với đầy đủ các cung bậc hỉ nộ ái ố của
đời người, của nhân vật cụ thể, với những dạng thức tình cảm, tình yêu khác
nhau. Các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Thơ Mới ít khi được sử
dụng để quy chiếu về trạng thái tâm lý của con người trong khi bản thân các
sự vật thiên nhiên thì được khắc họa với vô vàn các trạng thái khác nhau.
Thứ tư, các BTCV có từ “trăng”, “hoa”, “gió” trong Truyện Kiều còn thể
hiện nét độc đáo bởi khả năng được sử dụng để quy chiếu đến các sự kiện, tình
huống truyện và quy chiếu đến các vật thể nhân tạo (xuất hiện cả trong ca dao
và Thơ Mới nhưng với tỷ lệ không đáng kể) trong tác phẩm. Mặt khác, sắc
thái biểu cảm do các BTCV này đem lại cho thấy các sự kiện còn được nhìn
nhận, đánh giá dưới con mắt của tác giả và nhân vật, bộc lộ tính chất dữ dội,
khốc liệt và nhanh gấp, giúp cho người đọc thêm ấn tượng về thế giới xung
quanh nhân vật, về xã hội nghiệt ngã và đầy bất an, bất trắc trong Truyện Kiều.
Thêm vào đó, HQC về các vật thể nhân tạo cũng làm cho thế giới đồ vật xung
quanh các nhân vật tăng thêm vẻ sang trọng, diễm lệ cho nhân vật, tăng thêm
tính thẩm mỹ cho lời thơ nhiều hơn là ý nghĩa miêu tả. Hai HQC về sự kiện và
vật nhân tạo đã mở rộng phạm vi biểu đạt của các BTCV có từ “trăng”, “hoa”,
“gió” trong Truyện Kiều so với ca dao và Thơ Mới.
3.3. GIÁ TRỊ SỬ DỤNG CỦA CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ
“TRĂNG”, “HOA”, “GIÓ” TRONG TRUYỆN KIỀU
3.3.1. Các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” với việc xây
dựng hình tượng và biểu tượng nghệ thuật trong Truyện Kiều
3.3.1.1. Ý nghĩa của biểu tượng trăng thể hiện qua việc sử dụng các biểu
thức chiếu vật có từ “trăng” trong Truyện Kiều
Trong Truyện Kiều, biểu tượng trăng có những ý nghĩa biểu trưng chung,
như: ý nghĩa biểu trưng cho thời gian chảy trôi, cho sự tuần hoàn của vũ trụ
hay là biểu tượng của chiêm mộng, của những giá trị ban đêm gắn với vô
thức, khi mà con người ở giữa ranh giới của tỉnh và mê, âm và dương (Kiều
gặp Đạm Tiên). Tuy nhiên, ý nghĩa quan trọng nhất của biểu tượng trăng
trong Truyện Kiều có lẽ là nghĩa biểu trưng cho con người, với những giá trị
cao quý (vẻ đẹp ngoại hình, sự sáng ngời về nhân cách, tình yêu vĩnh cửu với
20
lời thề son sắt…) đều được thể hiện bằng các BTCV “trăng”, chẳng hạn:
khuôn trăng, nét nguyệt, trăng rằm, trăng tàn…. Trăng trong Truyện Kiều
cũng còn là biểu tượng cho tình yêu nam nữ: trăng chứng giám lời thề Kim
Kiều xuất hiện nhiều lần, trăng gợi lên nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu,… Biểu
tượng trăng, do vậy, gần gũi hơn, mang hơi thở của sự sống nhiều hơn và có
mối liên hệ với nhân sinh quan hơn là thế giới quan của tác giả Truyện Kiều,
cũng gần gũi với ca dao nhưng lại khác biệt so với Thơ Mới. Biểu tượng
trăng trong Thơ Mới biểu trưng cho thi hứng, cho nguồn mĩ cảm không cùng
vô tận của người nghệ sĩ hoặc biểu trưng cho vẻ đẹp, cái đẹp tuyệt đích mà
con người luôn khao khát vươn tới.
3.3.1.1.Ý nghĩa của biểu tượng hoa thể hiện qua việc sử dụng các biểu
thức chiếu vật có từ “hoa” trong Truyện Kiều
- Hoa (và các loài hoa) biểu trưng cho cái Đẹp nói chung, và từ đó, biểu
trưng cho người phụ nữ đẹp: Thúy Kiều (hoa ghen thua thắm, hoa dù rã
cánh, chút phận hoa rơi,…), Thúy Vân (hoa cười), Đạm Tiên (cành thiên
hương)… Đây là ý nghĩa phổ biến nhất của hoa trong Truyện Kiều.
- Hoa biểu trưng cho sự yếu ớt, phụ thuộc của thân phận phụ nữ trong xã
hội: nước trôi hoa rụng, nước chảy hoa trôi, hoa dù rã cánh, cánh hoa rơi…
- Hoa biểu trưng cho tính không bền vững, thoáng qua, của sắc đẹp
cánh hoa tàn, ngọc nát hoa tàn, hoa cuối mùa…
- Hoa biểu trưng cho tình yêu, người yêu trong Truyện Kiều: Kim Trọng
hơn một lần được Thúy Kiều quy chiếu bằng BTCV “hoa” (Vì hoa nên phải
đánh đường tìm hoa, Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa), tình yêu giữa Thúc
Sinh và Thúy Kiều cũng được gọi là “nguyệt hoa hoa nguyệt”…
3.3.1.3. Ý nghĩa của biểu tượng gió thể hiện qua việc sử dụng các biểu
thức chiếu vật có từ “gió” trong Truyện Kiều
- Gió biểu trưng cho sự thay đổi, biến động, bất an bất trắc của cuộc đời,
được thể hiện trong hàng loạt các BTCV “gió”: cơn vạ gió tai bay bất kỳ, khi
sóng gió bất tình, cơn sóng gió bất kỳ, gió táp mưa sa, gió giật mây vần,….
- Gió biểu trưng cho linh hồn trong đời sống tâm linh, người chết muốn
xuất hiện trở lại dương gian phải nương vào gió, nhờ gió mà lộ hiện.
- Gió còn biểu trưng cho tình cảm nam nữ, trai gái, thậm chí cả chuyện
tình dục trong Truyện Kiều: một cơn mưa gió nặng nề/ thương gì đến ngọc
tiếc gì đến hương, vì ai ngăn đón gió đông/ thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi…
Cũng bởi ý nghĩa biểu trưng này, BTCV “gió” còn khái quát được cả một
“loại người” trong Truyện Kiều: người trăng gió, tuồng trăng gió, …
3.3.2. Các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” với việc thể
hiện đặc trưng văn hóa dân tộc trong Truyện Kiều
3.3.2.1. Các biểu thức chiếu vật có từ “trăng”, “hoa”, “gió” góp phần thể
hiện quan niệm về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
- Xem thêm -