VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ VĂN TÙNG
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ VĂN TÙNG
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM VĂN BEO
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
rất nhiều từ thầy Phạm Văn Beo, các giảng viên của Học viện Khoa học Xã
hội, cũng như sự động viên, khích lệ từ gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi
xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy cô, gia đình và bạn bè, đồng nghiệp
đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi hoàn thành luận văn này.
LỜI CAM ĐOAN
Trong Luận văn này, tôi có tham khảo, kế thừa, trích dẫn nhiều nội
dung của sách, của một vài tác giả. Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm
độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận của luận văn chưa được
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Võ Văn Tùng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ
PHÁP ................................................................................................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của các biện pháp tư pháp hình sự
........................................................................................................................ 7
1.2. So sánh biện pháp tư pháp với hình phạt và các biện pháp cưỡng chế
hành chính .................................................................................................... 11
1.3. Quy định về các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự một số nước
...................................................................................................................... 16
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH LONG AN.................................................................................. 20
2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các biện pháp tư pháp... 20
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh Long An... 38
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong quy định, áp dụng và thi hành các biện
pháp tư pháp ................................................................................................. 45
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các
biện pháp tư pháp ......................................................................................... 53
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ................... 57
3.1. Hoàn thiện quy định, hướng dẫn, giải thích để áp dụng thống nhất
các quy định của Bộ luật hình sự về các biện pháp tư pháp .................... 57
3.2. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ
quan thi hành các biện pháp tư pháp ....................................................... 58
3.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành các biện pháp tư pháp ...... 60
3.4. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng, thi hành các biện pháp tư
pháp ........................................................................................................... 61
3.5. Các biện pháp khác để bảo đảm áp dụng các biện pháp tư pháp đúng
quy định của pháp luật hình sự................................................................. 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê số vụ án hình sự đã xét xử trên địa bàn tỉnh Long An từ
năm 2012 đến năm 2016. ................................................................................ 39
Bảng 2.2. Thống kê số bị cáo bị Tòa án trên địa bàn tỉnh Long An áp dụng
hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt từ năm 2012 đến năm
2016 ................................................................................................................. 40
Bảng 2.3. Thống kê số bị can bị Viện kiểm sát nhân dân các cấp tỉnh Long
An áp dụng các biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh từ năm 2012 đến năm
2016 ................................................................................................................. 42
Bảng 2.4. Thống kê số vụ án Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Long An áp dụng
các biện pháp tư pháp để hỗ trợ hình phạt từ năm 2012 đến năm 2016 ......... 42
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp tư pháp là một trong những chế định quan trọng của luật
hình sự Việt Nam, thể hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, với phương
châm thể hiện thái độ nghiêm khắc, kết hợp với chính sách khoan hồng, nhân
đạo của nhà nước; giúp giáo dục và cải tạo người đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trở thành người có ích cho xã hội.
Thực tiễn giải quyết, xét xử và tổ chức thi hành án được cơ quan tư
pháp nói chung, cơ quan tư pháp các cấp tỉnh Long An nói riêng áp dụng biện
pháp tư pháp đối với người phạm tội, người đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã thể hiện được chính sách hình sự, đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm. Tuy vậy, việc áp dụng các biện pháp tư pháp
còn nhiều vướng mắc, bất cập nhất định, làm giảm hiệu quả của việc áp dụng
biện pháp tư pháp. Một mặt, quy định về biện pháp tư pháp có nhiều thay đổi
trong Bộ luật hình sự và văn bản hướng dẫn thi hành do ngành Tòa án nhân
dân ban hành, dẫn đến việc áp dụng và thi hành biện pháp tư pháp còn gặp
nhiều khó khăn. Mặt khác, biện pháp tư pháp trong thực tiễn cũng có nhiều
bất cập, như: việc giải thích hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa kịp thời, đồng
bộ và đầy đủ; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức, ý thức pháp luật và
trách nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận người làm công tác xét xử còn hạn
chế, nhiều trường hợp áp dụng biện pháp tư pháp đúng quy định của pháp luật
có tác dụng giáo dục, phòng ngừa; song không ít trường hợp áp dụng biện
pháp tư pháp chưa đúng mà nguyên nhân có thể do bản lĩnh nghề nghiệp, bị
chi phối, ảnh hưởng, áp lực của sự can thiệp từ một hoặc một vài cá nhân có
quyền lực trong bộ máy nhà nước, trong xã hội; cũng có thể do đạo đức, phẩm
chất, thậm chí do tiêu cực, cố tình hiểu sai vấn đề, áp dụng pháp luật không
đúng.
1
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Xây dựng một nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao” thì việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp
dụng chế định biện pháp tư pháp trên thực tế là một vấn đề hết sức cần thiết,
thời sự, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đổi mới công tác cải cách tư pháp. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài “Các biện pháp tư pháp theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật
của mình, nhằm góp phần đem lại cách hiểu đúng đắn về biện pháp tư pháp,
từ đó giúp cho việc áp dụng pháp luật được chính xác, khách quan, tăng
cường hiệu quả hoạt động, đấu tranh phòng chống tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Biện pháp tư pháp là một trong những vấn đề được sự quan tâm nghiên
cứu của các nhà khoa học, có thể kể đến các công trình nghiên cứu điển hình
như sau:
Dưới góc độ giáo trình được nghiên cứu biên soạn dùng cho việc giảng
dạy bậc cao học có giáo trình luật hình sự phần chung của Học viện khoa học
xã hội xuất bản năm 2014, do giáo sư tiến sĩ Võ Khánh Vinh chủ biên; giáo
trình luật hình sự phần chung do Trường đại học luật Hà Nội biên soạn giảng
dạy bậc đại học.
Sách bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 của tác giả Đinh
Văn Quế, xuất bản năm 2000; sách chuyên khảo, như: “Những vấn đề cơ bản
trong khoa học hình sự” của Lê Cảm năm 2005…
2
Dưới góc độ luận văn tốt nghiệp bậc cao học: “Các biện pháp tư pháp
trong pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lưu Thị Thu Hương (năm
2014). Ngoài ra, tác giả chưa tìm thấy luận văn tốt nghiệp nào khác nghiên
cứu về đề tài này. Luận văn của tác giả Lưu Thị Thu Hương trình bày những
vấn đề lý luận chung về các biện pháp tư pháp, phân tích các biện pháp tư
pháp theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, thực tiễn áp dụng và đưa ra
một số giải pháp hoàn thiện chế định các biện pháp tư pháp.
Các đề tài có liên quan trực tiếp như luận văn tốt nghiệp bậc cao học
của các tác giả:
Đề tài “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” của tác giả Lê
Văn Thường (năm 2016). Luận văn của tác giả Lê Văn Thường trình bày
những vấn đề lý luận chung về quyết định hình phạt, phân tích các căn cứ
quyết định hình phạt, thực tiễn quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Định, đề xuất những giải pháp bảo đảm
quyết định hình phạt đúng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Đề tài “Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Phạm Minh Vương (năm 2017).
Luận văn của tác giả Phạm Minh Vương trình bày nhiều vấn đề về việc áp
dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, trong đó có
áp dụng biện pháp tư pháp.
Đề tài “Các biện pháp tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Long An” được tác giả chọn làm luận văn tốt nghiệp lần này được
thực hiện trên cơ sở tiếp cận kiến thức thông qua quá trình học tập, nghiên
cứu tại Học viện khoa học và xã hội và tiếp thu kết quả từ các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý thông qua các giáo trình, giáo án,
sách chuyên khảo và nhiều bài viết bình luận về lý luận chế định các biện
3
pháp tư pháp trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Đây sẽ là kết quả được nghiên
cứu mang tính chuyên sâu ở bậc cao học để so sánh, phân tích, đánh giá chế
định các biện pháp tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam, đồng thời chỉ ra
những bất cập vướng mắc. Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện mang tính
khả thi, nâng cao hiệu quả trong áp dụng và thi hành các biện pháp tư pháp,
nhằm góp phần thực hiện hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận, cùng với
việc áp dụng biện pháp tư pháp trong thực tiễn, luận văn đi sâu phân tích từ
nhiều khía cạnh khác nhau về biện pháp tư pháp hình sự: quy định của pháp
luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự, xu
hướng, cũng như điều kiện áp dụng, việc áp dụng biện pháp tư pháp trong
thực tiễn. Từ sự phân tích này, tác giả luận văn đề xuất các giải pháp góp
phần áp dụng đúng chế định các biện pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh Long An.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp: Khái
niệm, đặc điểm, mục đích, vai trò, bản chất của các biện pháp tư pháp.
Phân tích quy định của pháp luật về các biện pháp tư pháp, phát hiện
những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về chế định các biện
pháp tư pháp, cũng như những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng các
biện pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh Long An.
Đưa ra những giải pháp và kiến nghị áp dụng đúng và thi hành tốt các
biện pháp tư pháp trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật, thực tiễn về áp dụng, thi hành các biện pháp tư pháp trên
địa bàn tỉnh Long An.
Phạm vi nghiên cứu:
Do tính phức tạp và rộng lớn của vấn đề, nên luận văn chỉ giới hạn
nghiên cứu các vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp, quy định của pháp luật,
cũng như hoạt động áp dụng và thi hành các biện pháp tư pháp trong thực tiễn
tại tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2012 đến 2016. Các hoạt động khác đều
không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật,
các quan điểm của Đảng, nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm, về cải
tạo, giáo dục người phạm tội. Những luận điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo, các bài viết được đăng trên các tạp chí khoa
học của một số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, khảo sát thực tế, lý
luận kết hợp với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu đề tài “Các biện pháp tư pháp theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn áp
dụng các biện pháp tư pháp tại tỉnh Long An.
Ý nghĩa lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu toàn bộ những quy định của
chế định các biện pháp tư pháp, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng trong
những năm qua, nhằm làm rõ thêm các quan điểm lý luận khoa học về định
hướng áp dụng biện pháp tư pháp. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu đề tài còn có
5
thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập khoa
học luật hình sự, luật tố tụng hình sự và luật thi hành án hình sự.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể là ý kiến hữu ích
trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự
và pháp luật thi hành án hình sự. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu đề tài còn là đề
tài hữu ích cho sinh viên tham khảo khi nghiên cứu về chính sách hình sự,
hình phạt và các biện pháp tư pháp của pháp luật hình sự Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các biện pháp
tư pháp và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Long An
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của
pháp luật về các biện pháp tư pháp
``
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của các biện pháp tư
pháp hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tư pháp
Nhà nước ban hành pháp luật hình sự để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các
dân tộc, bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi
hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người có ý thức tuân theo pháp luật,
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Thực hiện được nhiệm vụ đó, Nhà
nước quy định trong pháp luật hình sự về tội phạm và hình phạt để áp dụng
đối với người phạm tội. Để công tác giáo dục mọi người có ý thức tuân theo
pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm đạt hiệu quả cao hơn, Nhà
nước quy định thêm trong pháp luật hình sự các biện pháp tư pháp để hỗ trợ
hoặc thay thế hình phạt.
Nghiên cứu về pháp luật hình sự, thường thì người nghiên cứu quan
tâm nhiều đến vấn đề tội phạm và hình phạt, ít quan tâm đến các biện pháp tư
pháp, mặc dù các biện pháp tư pháp cũng là một chế định quan trọng trong
pháp luật hình sự. Khi nghiên cứu các biện pháp tư pháp, chúng ta cần nghiên
cứu cả về lý luận và pháp luật thực định:
Trong lý luận luật hình sự về các biện pháp tư pháp:
Cho đến nay, khoa học luật hình sự vẫn chưa có khái niệm thống nhất
về các biện pháp tư pháp, có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về khái niệm
các biện pháp tư pháp. Một số quan điểm xem các biện pháp tư pháp không
phải là hình phạt, chỉ có tính chất hành chính, dân sự nhưng được áp dụng
trong vụ án hình sự. Các biện pháp tư pháp được áp dụng chung đối với bị
7
cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
“Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế của nhà nước, được Viện
kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với người phạm tội cũng như người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình” [39, tr.372].
“Xét về bản chất pháp lý, các biện pháp tư pháp không phải là hình
phạt, mà là các biện pháp tư pháp hình sự, là một trong những loại biện pháp
tác động pháp lý hình sự được Bộ luật hình sự quy định để có thể áp dụng đối
với người có hành vi phạm tội. Việc áp dụng các biện pháp tư pháp không
làm cho người bị áp dụng đó có án tích” [39, tr.372].
“Biện pháp tư pháp hình sự là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình
sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt” [33, tr.194].
Tổng kết các quan điểm khác nhau về khái niệm các biện pháp tư pháp,
chúng ta có thể đưa ra khái niệm về biện pháp tư pháp: Biện pháp tư pháp là
biện pháp cưỡng chế về hình sự, được quy định trong Bộ luật hình sự, do Viện
kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với người phạm tội cũng như người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, có
tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt.
Từ các quan điểm, khái niệm trên về biện pháp tư pháp, chúng ta có thể
thấy biện pháp tư pháp có những đặc điểm cơ bản như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Biện pháp tư pháp cũng là biện pháp cưỡng chế nhà
nước về hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng
có tính chất nghiêm khắc ít hơn so với hình phạt. Chủ thể chỉ bị áp dụng biện
8
pháp tư pháp thì không bị xem là có án tích. Khi chủ thể bị áp dụng hình phạt
và bị áp dụng kèm theo hình phạt là biện pháp tư pháp thì chủ thể đó bị xem
là có án tích.
Đặc điểm thứ hai: Biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ luật hình
sự, là biện pháp cưỡng chế nhà nước về hình sự, nên phải được quy định một
cách chặt chẽ, vì vậy cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các
biện pháp tư pháp đã quy định trong Bộ luật hình sự. Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền không được áp dụng biện pháp khác mà Bộ luật hình sự không
quy định.
Đặc điểm thứ ba: Biện pháp tư pháp do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng, đó là cơ quan tiến hành tố tụng và tùy theo giai đoạn tố tụng.
Ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng ra thì không có người nào, cơ quan nào
khác được quyền áp dụng các biện pháp tư pháp.
Đặc điểm thứ tư: Biện pháp tư pháp là biện pháp dùng để hỗ trợ hoặc
thay thế hình phạt, giúp cho việc giải quyết vụ án đạt được hiệu quả cao hơn.
Biện pháp tư pháp không nhằm tước đoạt quyền, tự do của người phạm tội mà
chỉ nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội.
Biện pháp tư pháp trong luật thực định:
Pháp luật hình sự nước ta từ sau năm 1945 đến nay chưa xây dựng khái
niệm pháp lý biện pháp tư pháp, khái niệm biện pháp tư pháp chưa được ghi
nhận về mặt pháp lý. Trong khi biện pháp tư pháp là chế định rất quan trọng
trong pháp luật hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác phòng
chống tội phạm, cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành công dân tốt, có
ích cho xã hội. Do đó, việc chưa ghi nhận khái niệm pháp lý vào pháp luật
hình sự thể hiện sự quan tâm chưa đúng mức về biện pháp tư pháp, là một
thiếu sót cần được xem xét.
9
1.1.2. Vai trò và mục đích của biện pháp tư pháp trong luật hình sự
Xét về bản chất thì biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với người phạm tội và
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự.
Trong quá trình tố tụng để xử lý một vụ án hình sự cụ thể, các cơ quan
tiến hành tố tụng mà chủ yếu là cơ quan điều tra phải tiến hành thu thập tất cả
các chứng cứ để chứng minh hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm hay
không phải là tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
đặc điểm về nhân thân (những vấn đề cần chứng minh)…, để từ đó các cơ
quan tiến hành tố tụng quyết định hướng giải quyết vụ việc hợp lý. Hướng
giải quyết vụ án có thể là không truy cứu trách nhiệm hình sự, mà áp dụng
biện pháp tư pháp trong trường hợp người đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự; Hướng giải quyết vụ án có
thể là không áp dụng hình phạt mà chỉ áp dụng biện pháp tư pháp; Hướng giải
quyết vụ việc cũng có thể là áp dụng hình phạt và áp dụng biện pháp tư pháp.
Do đó, biện pháp tư pháp là một biện pháp cưỡng chế về hình sự, có vai trò
thay thế hình phạt và cũng có thể được áp dụng để hỗ trợ hình phạt.
Biện pháp tư pháp cùng tồn tại song hành với hệ thống hình phạt làm
cho hệ thống biện pháp cưỡng chế nhà nước hoàn thiện hơn, phong phú hơn,
góp phần rất lớn vào việc giải quyết vụ án hình sự một cách thấu tình đạt lý,
đảm bảo cho các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự được thực thi, góp phần
nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, cải
tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
Trường hợp người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, theo quy định của luật hình
sự thì không thể xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ, cũng không thể
10
không xử lý đối với họ để phòng ngừa việc họ tiếp tục thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Trong thường hợp này, áp dụng biện pháp tư pháp là hợp lý
nhất, vì nó đáp ứng được các yêu cầu của việc xử lý vụ việc.
Trường hợp hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ yếu tố cấu thành
tội phạm, nhưng chưa cần thiết áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, khi
đó biện pháp tư pháp được áp dụng để xử lý vụ án, trong trường hợp này, biện
pháp tư pháp với vai trò được áp dụng để thay thế cho hình phạt.
Trường hợp vừa áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, vừa áp
dụng biện pháp tư pháp đối với người phạm tội, thì biện pháp tư pháp có vai
trò hỗ trợ hình phạt. Tuy nhiên, mục đích của việc áp dụng biện pháp tư pháp
trong trường hợp này không phải là làm cho trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội nặng nề hơn, mà chủ yếu là ngăn ngừa người phạm tội tái
phạm, tăng khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội. Riêng, đối với trường
hợp người phạm tội bị áp dụng hình phạt cao nhất (tử hình), người phạm tội
cũng có thể bị áp dụng biện pháp tư pháp (tịch thu tài sản), khi đó, biện pháp
tư pháp có vai trò hỗ trợ hình phạt để thực hiện chức năng phòng ngừa chung.
1.2. So sánh biện pháp tư pháp với hình phạt và các biện pháp
cưỡng chế hành chính
1.2.1. So sánh biện pháp tư pháp với hình phạt
Sự giống nhau giữa biện pháp tư pháp và hình phạt
Điểm thứ nhất, hình phạt và biện pháp tư pháp đều là chế định quan
trọng được quy định trong Bộ luật hình sự. Cả hình phạt và biện pháp tư pháp
chỉ được áp dụng khi có chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các loại hình phạt và biện
pháp tư pháp được quy định trong Bộ luật hình sự, không được quyền áp
11
dụng các biện pháp cưỡng chế nào khác mà Bộ luật hình sự không quy định.
Việc quy định, áp dụng hình phạt và biện pháp tư pháp là để thực hiện trách
nhiệm hình sự đối với chủ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Điểm thứ hai, hình phạt và biện pháp tư pháp đều chỉ do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng theo một trình tự,
thủ tục đặc biệt được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Hình phạt và
biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ luật hình sự, nhưng trình tự, thủ
tục áp dụng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Hình phạt và biện
pháp tư pháp được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước.
Điểm thứ ba, hình phạt và biện pháp tư pháp là các dạng, hình thức
thực hiện trách nhiệm hình sự. Chủ thể bị áp dụng hình phạt và biện pháp tư
pháp phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi nhất định tùy thuộc vào tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chủ thể đó đã thực hiện, các đặc
điểm về nhân thân của chủ thể, các tình tiết cụ thể của vụ án.
Điểm thứ tư, theo quy định của pháp luật hình sự hiện nay thì hình phạt
và biện pháp tư pháp chỉ được áp dụng đối với cá nhân người phạm tội, người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không có năng lực trách nhiệm
hình sự, không áp dụng đối những người thân của người phạm tội. Người thân
của người phạm tội có thể sẽ có trách nhiệm liên đới trong vấn đề bồi thường
thiệt hại do người phạm tội gây ra.
Sự khác nhau giữa biện pháp tư pháp và hình phạt
Tiêu chí
Biện pháp tư pháp
Hình phạt
Khái
Biện pháp tư pháp là biện pháp Hình phạt là biện pháp cưỡng
niệm
cưỡng chế về hình sự, được quy chế nghiêm khắc nhất của
định trong Bộ luật hình sự, do cơ Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc
12
quan tiến hành tố tụng áp dụng đối hạn chế quyền, lợi ích của
với người có hành vi nguy hiểm người phạm tội. Hình phạt
cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ được quy định trong Bộ luật
hoặc thay thế hình phạt.
hình sự và do Tòa án áp
dụng.
Vai trò
Biện pháp tư pháp là biện pháp Hình phạt là chế tài, là biện
cưỡng chế về hình sự, có vai trò pháp cưỡng chế chính, chủ
thay thế hình phạt và cũng có thể đạo trong luật hình sự.
được áp dụng để hỗ trợ hình phạt.
Mức độ
Biện pháp tư pháp là biện pháp Hình phạt là biện pháp cưỡng
nghiêm
cưỡng chế về hình sự ít nghiêm chế nghiêm khắc nhất của
khắc
khắc hơn so với hình phạt.
Nhà nước.
Việc quy định và áp dụng biện Hình phạt là biện pháp trách
pháp tư pháp là có mục đích trừng nhiệm hình sự được nhà nước
phạt đối với người làm tội, nhưng sử dụng như một công cụ cần
mức độ trừng phạt hạn chế hơn so thiết, có hiệu quả để trừng trị,
với hình phạt, mà chủ yếu là dùng cải tạo và giáo dục người
để răn đe, cải tạo, giáo dục người phạm tội. Trong đó có loại
phạm tội trở thành người có ích hình phạt cao nhất là tử hình,
cho xã hội, có ý thức tuân theo là hình thức trừng trị cao nhất
pháp luật và quy tắc của cuộc của nhà nước đối với người
sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, phạm tội, tước đoạt quyền
giáo dục người khác tôn trọng được sống của người phạm
pháp luật, phòng ngừa và đấu tội.
tranh chống tội phạm.
Chủ thể
Do các cơ quan tiến hành tố tụng Chỉ có Tòa án xét xử vụ án
áp dụng
(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hình sự là cơ quan tiến hành
13
hoặc Tòa án) áp dụng tương ứng tố tụng duy nhất có thẩm
với giai đoạn tố tụng hình sự.
quyền áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội.
Hậu quả Việc áp dụng biện pháp tư pháp Việc áp dụng hình phạt đối
pháp lý
đối với người bị áp dụng để thay với người bị kết án làm cho
thế hình phạt (chỉ áp biện pháp tư người bị kết án có án tích.
pháp, không kèm theo hình phạt)
thì không bị xem là có án tích.
1.2.2. So sánh biện pháp tư pháp với các biện pháp cưỡng chế
hành chính
Sự giống nhau giữa biện pháp tư pháp với các biện pháp cưỡng chế
hành chính:
Điểm thứ nhất, biện pháp tư pháp và biện pháp cưỡng chế hành chính
chỉ được áp dụng khi có chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các loại biện pháp tư pháp và biện
pháp cưỡng chế hành chính được quy định trong văn bản pháp luật, không
được quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nào khác mà trong văn bản
pháp luật không quy định. Việc quy định, áp dụng biện pháp tư pháp và biện
pháp cưỡng chế hành chính là để nhà nước quản lý xã hội, xây dựng nhà nước
pháp quyền, dân chủ, văn minh, đấu tranh phòng chống tội phạm và các hành
vi vi phạm pháp luật.
Điểm thứ hai, biện pháp tư pháp và biện pháp cưỡng chế hành chính
đều là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Biện pháp tư
pháp và biện pháp cưỡng chế hành chính được bảo đảm thực hiện bằng sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước, nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
14
- Xem thêm -