Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự...

Tài liệu Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng trị

.DOC
76
319
112

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ BẢO NGỌC CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ BẢO NGỌC CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG TRỊ Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Đỗ Thị Bảo Ngọc MỤC LỤC MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI..........................................................................9 1.1. Những vấn đề chung về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội...................... 9 1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội...................19 1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội...............................................................25 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ..............32 2.1. Quy định của của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) và Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi...........................................................................................32 2.2.Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.............................................................................37 2.3.Những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị 40 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI......................................................... 54 3.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội................................. 54 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tiễn................58 KẾT LUẬN....................................................................................................64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự TTHS: Tố tụng hình sự UBND: Ủy ban nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 So sánh áp dụng hình phạt của tỉnh Quảng Trị và cả nước 39 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ 2.1: Tên biểu đồ Tình hình áp dụng chế tài pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Quảng Trị Trang 38 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa đặc sắc và phong phú, đặc biệt là cái nôi nuôi dưỡng nhiều anh hùng, nhân tài của dân tộc khi chỉ mới ở độ tuổi còn trẻ, được nhân dân Việt Nam và thế giới phải thán phục. Chính vì vậy mà việc nuôi dưỡng nhân tài là vấn đề rất được chú trọng. Hiến pháp năm 2013 ra đời trong đó có chương riêng về quyền trẻ em đã khẳng định bảo vệ quyền trẻ em là bảo vệ nguồn nhân lực cho đất nước và Việt Nam là một quốc gia luôn đi đầu trong vấn đề chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Có thể thấy rằng, nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em như: Hiến pháp 2013, Luật trẻ em 2016, Bộ luật Hình sự 2015...Việt Nam cũng là một trong các nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Đảng và nhà nước ta đang ngày càng đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em từ đó phát triển nhân tài cho đất nước, có như vậy thì xã hội và nền kinh tế của nước ta mới phát triển. Trong quá trình hội nhập quốc tế, nền kinh tế và xã hội Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể, tác động tích cực đến đời sống của nhân dân cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn xảy ra mặt tiêu cực, khó khăn và thách thức, tình hình tội phạm vì thế mà tăng lên. Đặc biệt là tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội diễn ra ngày càng nhiều và có diễn biến phức tạp. Việc giải quyết vấn đề người dưới 18 tuổi là việc rất cần thiết và cấp bách để ổn định trật tự xã hội, đảm bảo chính trị và phát triển kinh tế. Thực tiễn cho thấy, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người dưới 18 tuổi là những người chưa có khả năng nhận thức rõ về hành vi, chưa đủ khả năng để làm chủ hành động cũng như chưa có khả năng chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình. Hiện nay, người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ trẻ hóa độ 1 tuổi, hành vi còn tinh vi, xảo quyệt hơn, gia tăng về số lượng mà tính tổ chức của loại tội phạm ngày càng chặt chẽ, phạm các tội có sử dụng bạo lực, hình thành các băng nhóm có tổ chức, nhiều loại tội phạm có xu hướng gia tăng như: tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; tội trộm cắp; các tội xâm phạm an toàn công cộng.... Trước tình hình như vậy, để tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là người dưới 18 tuổi thông qua thực tiễn, vướng mắc và những bất cập từ đó tìm ra những giải pháp thay đổi cần thiết hạn chế việc người dưới 18 tuổi phạm tội. Về phương diện pháp lý, người dưới 18 tuổi là đối tượng đặc biệt, họ cần được pháp luật bảo vệ trong cuộc sống hàng ngày và ngay cả khi vi phạm pháp luật. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành một người có ích cho xã hội, vì vậy mà Đảng và nhà nước ta đưa ra chủ trương là áp dụng các biện pháp tư pháp. Biện pháp tư pháp có ý nghĩa trong việc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện tính nhân đạo, tính giáo dục, đảm bảo được quyền trẻ em nhưng cũng mang tính răn đe, phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, khi xảy ra việc người dưới 18 tuổi phạm tội thì thường được áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Nhưng, trên thực tế hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp còn hạn chế, vì vậy cần phải nâng cao hiệu quả các biện pháp tư pháp, quy định những biện pháp chế tài riêng, đồng thời bổ sung các biện pháp tư pháp khác để người thi hành có thêm nhiều sự lựa chọn để áp dụng một cách hiệu quả nhất, thủ tục tố tụng phù hợp với đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội để thể hiện sự nhân đạo trong chính sách hình sự là biện pháp tư pháp. Như vậy, có thể thấy rằng, mục tiêu hàng đầu của hệ thống các biện pháp khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là nhằm: 1) phòng ngừa tội phạm 2) phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Trong trường hợp quyết định hình phạt đối với người 2 dưới 18 tuổi phạm tội chúng ta cần phải cân nhắc, xem xét nhiều yếu tố khác nhau như các yếu tố tâm sinh lý, gia đình, xã hội để từ đó đưa ra quyết định đúng mới có thể đảm bảo quyền lợi cho đối tượng đặc biệt này. Bởi ngay cả khi người dưới 18 tuổi phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì họ vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt mà việc áp dụng các biện pháp tư pháp sẽ cải tạo họ thành cho những công dân có ích cho xã hội. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung và Bộ luật Hình sự nói riêng về biện pháp tư pháp là việc làm quan trọng mang tính cấp thiết vì vậy mà tôi chọn đề tài “Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Trị” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề tư pháp người dưới 18 tuổi , đã được nghiên cứu ở nhiều mức độ và phương diện khác nhau. Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện và được áp dụng tốt hơn thì phải trải qua một quá trình dài nghiên cứu và đúc kết, dựa trên kết quả thực tiễn. Nhận thức lý luận về biện pháp tư pháp với người dưới 18 tuổi phạm tội- thực tiễn áp dụng trên địa bàn cụ thể cần phải được quan tâm, chứng minh và tập trung các vấn đề chính sau - Tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự đối về biện pháp tư pháp áp dụng đối với dưới 18 tuổi. - Nghiên cứu thi hành chế tài đối với người dưới 18 tuổi theo quy định pháp luật tố tụng hình sự. - Nghiên cứu vai trò của gia đình, xã hội đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Tính đến thời điểm này đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này. Tiêu biểu là các công trình liên quan trực tiếp đến biện pháp 3 tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phạm tội như sau: Các bài viết đăng trên tạp chí và sách chuyên khảo: 1. TSKH – PGS. Lê Cảm và ThS. Đỗ Thị Phượng: Tư pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những khía cạnh tội phạm học – Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22/2004; 2. TS. Phạm Hồng Hải: Các biện pháp tư pháp trong BLHS năm 1999 và vấn đề hoàn thiện Bộ luật Tố tụng Hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp tư pháp đó – Tạp chí luật học, số 5/2000; 3. TS. Phạm Mạnh Hùng: Bàn về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật Hình sự Việt Nam – Tạp chí kiểm sát năm 2007; 4. Đỗ Thị Phượng và Bùi Đức Lợi: Đề tài nghiên cứu cấp trường Đại Học Quốc gia Hà Nội: những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên; 5. Hồ Sỹ Sơn: Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt – Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 4/2004; 6. TS. Trần Quang Tiệp: Vai trò của gia đình trong việc thi hành các hình phạt không tước tự do và biện pháp tư pháp – Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2004; 7. Trịnh Đình Thế: Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội – Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006; Trong những năm gần đây, còn có các công trình nghiên cứu về lĩnh vực tư pháp hình sự như sau: 1. Lưu Hoài Bảo, một số giải pháp phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, tạp chí Kiểm sát, số 14/2014; 2. Nguyễn Đức Mai, Các yêu cầu đặt ra đối với việc thành lập Tòa án người chưa thành niên, Tạp chí Tòa án, số 16/2014. 4 3. Phạm Thị Thanh Nga, Thực thi Công ước Quyền trẻ em ở Việt Nam: tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 18(274) T9/2014; 4. Lương Ngọc Trâm, Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án, số 19/2014; Các luận văn thạc sĩ luật học: 1. Lưu Ngọc Cảnh: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các hình phạt và biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam”, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010; 2. Nguyễn Thị Tố Nga: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự”, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; 3. Đỗ Văn Hùng: Luận văn thạc sĩ luật học: “ Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Khoa Luật- Trường Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2016. Những nghiên cứu này do phạm vi và mục đích nên chưa đi sâu về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi. Các bài viết mang tính cá nhân, chỉ là các bài viết nghiên cứu trên các tạp chí. Việc nghiên cứu các biện pháp tư pháp là nghiên cứu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi hoặc các chế tài áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Các nghiên cứu trên nghiên cứu điều kiện áp dụng mà chưa có sự so sánh với các chế tài khác và sự thay đổi trong quy định của pháp luật hình sự. Vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu một cách sâu sắc nhất để góp phần giải quyết vấn đề bất cập và hoàn thiện nó hơn nữa. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu lý luận và những nội dung cơ bản của hệ thống các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật Hình sự Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: khái niệm, dấu hiệu cơ bản, nguyên tắc áp dụng, mối quan hệ giữa biện pháp tư pháp với chế tài hình sự khác... Đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, phân tích những điểm hạn chế, bất cập của từng biện pháp tư pháp đó. Từ những nghiên cứu, phân tích, đánh giá những điểm bất cập, hạn chế của pháp luật hình sự hiện hành từ đó đề xuất giải pháp sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật để nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn từ địa bàn tỉnh Quảng Trị) 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các biện pháp tư pháp áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Phần chung ( Chương 6 XII) của BLHS Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở các số liệu thực tiễn giai đoạn 2014-2018 của các cơ quan tiến hành tố tụng địa bàn tỉnh Quảng Trị 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu dựa vào cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về pháp luật nói chung và chính sách Hình Sự nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Theo như đề tài luận văn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù, phổ biến của khoa học luật hình sự: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp logic… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học về mặt lý luận và thực tiễn của các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Luận văn phân tích một cách tương đối toàn diện các quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong phần chung của pháp luật hình sự việt nam; phân tích đánh giá chi tiết từng đặc điểm biện pháp tư pháp và có sự so sánh, đối chiếu pháp luật qua các thời kỳ, cũng như so sánh với pháp luật quốc tế, để từ đó đánh giá các biện pháp tư pháp. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá rút ra những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện các quy định về biện pháp tư pháp với người dưới 18 tuổi phạm tội để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm là người dưới 18 tuổi nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham 7 khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Quảng Trị. Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 8 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1 . Những vấn đề chung về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm- đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi phạm tội Để có thể hiểu rõ về chính sách hình sự và các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, trước hết cần phải làm rõ các khái niệm, đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi cũng như nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi. Trước đây, theo BLHS năm 1999 chúng ta sử dụng khái niệm “người chưa thành niên phạm tội” thay vì dùng khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội”. Theo Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “ Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn.” Ở nước ta, theo BLHS năm 1999 quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi và khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về thể chất và tinh thần của con người, cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của quốc gia. Như vậy, khái niệm người dưới 18 tuổi tương đồng với khái niệm người chưa thành niên, một cách khái quát nhất thì đó là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, tâm lý và nhân cách, chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của một công dân. [36,tr 10] Độ tuổi của người dưới 18 tuổi được xác định thống nhất trong các văn bản pháp luật và chế định pháp luật riêng để áp dụng với người dưới 18 tuổi theo từng lĩnh vực cụ thể. Theo Điều 90 BLHS năm 2015 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa 9 Việt Nam có nêu rằng: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.” [30] Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Điều 161 Bộ luật Lao động 2012 quy định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Còn Luật trẻ em 2016 lại quy định rằng “ Trẻ em là người dưới 16 tuổi” Có thể thấy rằng, mỗi văn bản pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực nhất định thì phạm vi điều chỉnh riêng nên có những quy định khác nhau khi xác định độ tuổi được coi là người chưa thành niên. Có thể hiểu một cách khái quát về khái niệm người dưới 18 tuổi như sau: Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý. * Đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi Để đưa ra được khái niệm người dưới 18 tuổi thì chúng ta cũng cần đánh giá được đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi. Ở giai đoạn phát triển của con người ở mỗi thời kỳ là khác nhau mà đặc biệt là giai đoạn dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh lý, tâm lý và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong xảm xúc của người chưa thành niên.[24,tr.39] Quá trình phát triển của mỗi con người ảnh hưởng đến năng lực nhận thức về hành vi tác động đến xã hội cũng như ảnh hưởng đến năng lực điều 10 khiển hành vi theo những đòi hỏi của xã hội. Khoa học chứng minh rằng, con người sinh ra mà cơ sở để phát triển ý thức chính là bộ não người. Mà ở lứa tuổi dưới 18 tuổi quá trình hưng phấn của võ não mạnh, chiếm ưu thế và các quá trình ức chế có điều kiện bị suy giảm, vì vậy mà nhiều trường hợp dẫn đến họ thuộc trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng dẫn đến các hành vi lệch chuẩn của người dưới 18 tuổi.[24,tr.39] Mỗi con người khi sinh ra không phải đã sẵn sự nhận thức một cách toàn diện về tự nhiên, về xã hội, về chính mình. Mà sự nhận thức này được hình thành và phát triển ở mỗi giai đoạn của quá trình sống, quá trình hoạt động trong xã hội. Như vậy, khi con người đã có khả năng nhận thức ở một giới hạn nhất định thì con người mới hiểu được quyền và nghĩa vụ, từ đó đánh giá được hành vi của mình tác động đến xã hội là như thế nào. Trước đây trong các văn bản pháp luật hình sự ở nước ta chưa nêu rõ khái niệm của người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 1985 chỉ có định nghĩa người vị thành niên. BLHS 1999, là người chưa thành niên và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi. Trong BLHS 2015( sửa đổi, bổ sung 2017) có hiệu lực từ 01/01/2018 tại chương XII có nhiều thay đổi liên quan đến người dưới 18 tuổi. Điều 90 quy định đã có sự thay đổi về thuật ngữ người chưa thành niên thành người dưới 18 tuổi còn giới hạn độ tuổi vẫn là người tử đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.” Việc thay đổi thuật ngữ nhưng vẫn giữ nguyên độ tuổi làm cho quy định này rõ ràng người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Như vậy, người 11 dưới 18 tuổi hay người chưa thành niên phạm tội, họ là đối tượng cần được bảo vệ, đồng thời cũng là chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng đưa ra khái niệm người chưa thành niên phạm tội: “ Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm Hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và đã có lỗi( cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [6,tr.9] Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành như sau: Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự, có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm trong BLHS. 1.1.2. Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội Đảng và nhà nước ta luôn đề cao chính sách chăm sóc và giáo dục trẻ em, khi trẻ em là chủ thể được bảo vệ hay kể cả khi trẻ em, người dưới 18 tuổi là chủ thể vi phạm pháp luật thì việc bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em, người dưới 18 tuổi cũng luôn luôn được chú trọng. Khi đưa ra nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội thì những nguyên tắc này phải đảm bảo được quyền con người; xuất phát từ đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi và trên cơ sở thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện thì việc xử lý được thực hiện dựa trên các nguyên tắc quy định cụ thể trong điều 91 của BLHS 2015 ( sửa đổi, bổ sung 2017): Nguyên tắc thứ nhất, việc xử lý người dưới 18 tuổi khi họ phạm tội phải bảo đảm những lợi ích tốt nhất, chủ yếu nhất vẫn là nhằm mục đích giáo dục đồng thời giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi phát triển một cách lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội và 12 cho đất nước. Khoản 1 điều 91 quy định về nguyên tắc này: “1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.” Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đầu tiên cần phải căn cứ vào độ tuổi của người đó, không chỉ dừng lại ở độ tuổi mà cần căn cứ vào khả năng nhận thức của họ về hành vi mang tính chất gây nguy hiểm cho xã hội, nguyên nhân nào và điều kiện nào khiến họ gây ra hành vi phạm tội. Người dưới 18 tuổi là người về thể chất tâm sinh lý, kể cả trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống trong thực tiễn của họ vẫn còn chưa phát triển đầy đủ và rất hạn hẹp. Mà nguyên nhân và điều kiện chính dẫn đến người dưới 18 tuổi phạm tội là do chính trong môi trường sống của gia đình và xã hội. Việc quan trọng nhất cần làm chính là cải thiện môi trường sống để nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc cuộc sống xã hội, để từ đó giúp cho người dưới 18 tuổi có thể sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, giúp ích cho xã hội. Người dưới 18 tuổi chưa phát triển và hoàn thiện về các mặt, tức là không phải bất cứ người dưới 18 tuổi nào phạm tội cũng có đầy đủ năng lực để nhận thức về trách nhiệm của họ đối với hành vi phạm tội mà họ gây nên. Vì vậy, khi xem xét xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ căn cứ vào độ tuổi mà còn căn cứ vào khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm của hành vi cho xã hội. Làm rõ được những yếu tố liên quan gây ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ nguy hiểm của hành vi của người phạm tội và nhân thân người đó thì Cơ quan tư pháp và Cơ quan tiến hành tố tụng mới giúp họ nhận ra được hành vi của họ gây ra là nguy hại cho xã hội, giúp họ nhận ra lỗi lầm 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan