Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản đang tranh chấp...

Tài liệu Các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản đang tranh chấp

.DOC
11
129
132

Mô tả:

MỤC LỤC NỘI DUNG..........................................................................................................2 I. Khái quát về các BPKCTT và các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp...................................................................................................................2 1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời...................................................................2 2. Khái niệm tài sản đang bị tranh chấp.........................................................................2 3. Khái niệm về các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp............2 4. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản đang bị tranh chấp.............................................................................................................................3 II. Quy định của pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp.............................................................................................3 1. Những quy định chung của pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời. 3 1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT...................................3 1.2. Về thời điểm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời....................................4 1.3. Về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm.........................................................4 1.4. Về áp dụng BPKCTT tại phiên tòa...............................................................4 1.5. Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời........................................5 1.6. Về trách nhiệm bồi thường do áp dụng BPKCTT không đúng..................5 2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp.6 2.1. Biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp (Điều 108, BLTTDS):............6 2.2. Biện pháp “ Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp” (Điều 109, BLTTDS):................................................................................6 2.3. Biện pháp “ Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp” (Điều 110, BLTTDS...............................................................................................................6 2.4. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác(Điều 111 BLTTDS)..............................................................................................................7 2.5. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước (Điều 112 BLTTDS)...................................................................................7 2.6. Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ (Điều 113 BLTTDS).................................8 2.7. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (Điều 114 BLTTDS)..................8 III. Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện các BPKCTT đối với tài sản đang tranh chấp...................................................................................................................9 1. Đối với các quy định riêng về các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp..................................................................................................................................9 2. Đối với các quy định chung về các BPKCTT.........................................................10 1 NỘI DUNG I. Khái quát về các BPKCTT và các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp. 1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trên cơ sở quy định của BLTTDS, các nhà làm luật đã nghiên cứu đã đưa ra một khái niệm khá là đầy đủ và phù hợp với thực tiễn áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo đó " BPKCTT là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm thi hành án" (1). Như vậy, đặc điểm đặc trưng của các BPKCTT đó là vừa mang tính khẩn cấp vừa mang tính tạm thời. +) Tính khẩn cấp được thể hiện ở chỗ Tòa án phải ra quyết định áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời và được thực hiện ngay sau khi Tòa án ra quyết định áp dụng nếu không sẽ không còn ý nghĩa trên thực tế. +) Tính tạm thời được thể hiện ở chỗ quyết định áp dụng BPKCTT không phải là quyêt định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự mà chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định và có thể bị thay đổi, hủy bỏ theo ý chí của người yêu cầu hoặc của Tòa án giải quyết vụ việc. 2. Khái niệm tài sản đang bị tranh chấp. Có thể thấy hiện nay Luật chưa có một quy định cụ thể và khái quát nào về khái niệm tài sản đang bị tranh chấp. Tuy nhiên dựa trên cơ sở điều 163 Bộ luật dân sự quy định về khái niệm tài sản thì tài sản được thể hiện dưới dạng liêt kê bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản (2). Theo đó, hiểu theo nghĩa chung nhất thì tài sản đang bị tranh chấp là những loại tài sản đã được liệt kê tại điều 163 BLDS hiện đang có hai hay nhiều người cùng xác nhận quyền của mình và phủ nhận quyền của người kia đối với tài sản đó. Tranh chấp đó có thể là tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản hoặc là tranh chấp về chia di sản thừa kế, tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về chia tài sản của vợ chồng khi li hôn…. 3. Khái niệm về các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp. Từ việc xây dựng hai khái niệm trên, ta có thể hiểu các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp là các biện pháp mà Tòa án quyết định áp dụng trong trường hợp đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có yêu cầu ( theo quy định từ khoản 6 đến khoản 12 điều 102 BLTTDS), hoặc theo quyết định của Tòa án khi xét việc áp dụng là cần thiết (theo quy định từ khoản 1 đến khoản 5 điều 102 BLTTDS) (3) trong quá trình giải quyết các vụ án có đối tượng là tài sản đang có hai hay nhiều người cùng 1 Đại học Luật Hà Nội, chương V, gtr LTTDSVN NXB Tư Pháp, Hà Nội 2005). Xem thêm điều 163 BLDS 2005 3 Xem thêm điều 102 BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung 2011 2 2 xác nhận quyền của mình và phủ nhận quyền của người khác đối với tài sản đó.. Như vậy điều kiện để Tòa án áp dụng các BPKCTT đối với tài sản đang bị tranh chấp đó là: +) Tòa án tự ra quyết định áp dụng khi xét thấy: * Có đủ cơ sở và căn cứ xác định tài sản đó đang bị tranh chấp. * Tòa án phải chứng minh và làm rõ các trường hợp mà tòa án có quyền được áp dụng. +) Tòa án áp dụng theo đơn yêu cầu của đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khi: *Có đơn yêu cầu của đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ. *Đương sự hoặc người đại diện phải chứng minh được việc áp dụng các BPKCTT là cần thiết. 4. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản đang bị tranh chấp. BPKCTT là một trong các chế định quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Có thể thấy các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp có tác dụng như sau: Bảo vệ một cách hữu hiệu quyền và lợi ích của đương sự liên quan đến tài sản đang tranh chấp; bảo vệ tài sản đang tranh chấp khỏi các hành vi nhằm tẩu tán, hủy hoại tài sản đang tranh chấp qua đó còn bảo toàn được tình trạng tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hay giữ được tài sản bảo đảm cho thi hành bản án và các quyết định của tòa án. Ngoài ra, việc áp dụng các BPKCTT đối với tài sản đang tranh chấp còn góp phần không nhỏ trong bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Do vậy việc pháp luật quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong TTDS có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế các tác động tiêu cực có thể xảy ra đối với xã hội. II. Quy định của pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp. 1. Những quy định chung của pháp luật về các biện pháp khẩn cấp tạm thời. 1.1. Chủ thể có quyền yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT. Theo quy định tại khoản 1 Điều 99 BLTTDS, chủ thể có quyền yêu cầu toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người khác. Theo Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP của Toà án nhân dân tối cao ngày 27 tháng 4 năm 2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì những chủ thể này bao gồm đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự; cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định; công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tập thể người lao động do Bộ luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật 3 khác có liên quan quy định. Việc mở rộng hơn các chủ thể có quyền yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của BLTTDS sẽ góp phần bảo vệ kịp thời, đầy đủ hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 1.2. Về thời điểm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Theo quy định tại Điều 99 BLTTDS, biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong suốt quá trình toà án giải quyết vụ việc dân sự. Điều này có nghĩa toà án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào bất cứ thời điểm nào trước và trong khi xét xử. Thậm chí, theo quy định tại khoản 2 Điều 99, trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu toà án áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời vào cùng thời điểm nộp đơn khởi kiện 1.3. Về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm Buộc người đưa ra yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm là một trong những quy định rất mới của BLTTDS (Điều 120). Tương ứng với quyền yêu cầu toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, người đưa ra yêu cầu phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm mà cụ thể là họ phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do toà án ấn định tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27 tháng 4 năm 2005 của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao thì “nghĩa vụ tài sản” là nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba do việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng. Còn “người có nghĩa vụ phải thực hiện” là người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng. Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là người đại diện theo ủy quyền của đương sự thì người có nghĩa vụ phải thực hiện là đương sự. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đồng thời có tác dụng ngăn ngừa tình trạng người có quyền yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời lạm dụng quyền này. Tuy nhiên không phải người nào đưa ra yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đều phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Điều 120 BLTTDS đã quy định rõ những trường hợp người đưa ra yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm như kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. 1.4. Về áp dụng BPKCTT tại phiên tòa Theo quy định tại điều 117 BLTTDS, BPKCTT Đối với yêu cầu áp dụng BPKCCTT tại phiên tòa, thì hội đồng xét xử xem xét ra quyết định ngay sau khi nhận 4 được đơn yêu cầu nếu người đó không phải thực hiện biện pháp đảm bảo hoặc sau khi người yêu cầu thực hiện xong biện pháp đảm bảo. 1.5. Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Điều 117 BLTTDS quy định người đưa ra yêu cầu toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không chỉ phải nộp đơn gửi đến toà án có thẩm quyền mà đơn đó phải thể hiện được các nội dung theo luật định. Tùy từng trường hợp, kèm theo đơn, người đưa ra yêu cầu phải cung cấp cho toà án những chứng cứ chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Chính quy định này sẽ hạn chế tình trạng đưa ra yêu cầu không có căn cứ từ phía những người có quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đồng thời quy định này cũng giúp toà án có cơ sở rõ ràng để nhanh chóng ra được quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thông thường khi thẩm phán được phân công giải quyết vụ án nhận được đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì thời hạn để họ ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là 3 ngày kể từ ngày nhận đơn nếu người đưa ra yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp bảo đảm. Nếu không chấp nhận yêu cầu thì thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời được đưa ra tại phiên toà thì hội đồng xét xử sẽ xem xét để ra quyết định ngay sau khi người đưa ra yêu cầu thực hiện xong biện pháp bảo đảm. Đối với những tình thế khẩn cấp cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì chánh án phải chỉ định ngay một thẩm phán giải quyết và thời hạn để ra quyết định là 48 giờ kể từ khi nhận đơn yêu cầu và các chứng cứ kèm theo. Nếu không chấp nhận yêu cầu thì thẩm phán đó cũng phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết. Nếu biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng là phong tỏa tài sản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ hoặc phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ thì toà án chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện. 1.6. Về trách nhiệm bồi thường do áp dụng BPKCTT không đúng. Theo Điều 101, người yêu cầu toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Vì vậy, nếu yêu cầu của họ không đúng, gây ra thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba thì theo quy định của pháp luật, họ phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Quy định này buộc người có quyền yêu cầu toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải suy nghĩ chín chắn trước khi đưa ra yêu cầu, buộc họ phải có trách nhiệm với hành vi của mình. Ngoài quy định trách nhiệm bồi thường của đương sự và những chủ thể có quyền yêu cầu toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, BLTTDS còn quy định trách nhiệm 5 bồi thường của toà án nếu quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của toà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 101 BLTTDS, toà án sẽ phải bồi thường khi áp dụng các BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ ba trong trường hợp sau: toà án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu; toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức. 2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp. 2.1. Biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp (Điều 108, BLTTDS): Theo quy định tại Điều 108, BLTTDS thì biện pháp này được áp dụng khi Tòa án thấy có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản. Tòa án quyết định áp dụng BPKCTT này khi giải quyết vụ án theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT. Tài sản bị kê biên có thể thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lí cho đến khi có quyết định của Tòa án. Ngoài ra, đây là BPKCTT đòi hỏi phải có biện pháp đảm bảo, tức là khi yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp này thì người yêu cầu phải thực hiện pháp bảo đảm quy định tại điều 120, BLTTDS. 2.2. Biện pháp “ Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp” (Điều 109, BLTTDS): Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp là việc không cho thay đổi về quyền tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. Theo quy định tại Điều 109, BLTTDS thì BPKCTT này được Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án khi có căn cứ cho thấy người chiếm giữ hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ của họ. Khi Tòa án đã quyết định áp dụng BPKCTT cấm chuyển dịch quyền tài sản đối với tài sản đang tranh chấp thì mọi sự chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp đều vô hiệu. Tòa án áp dụng BPKCTT này theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT, và biện pháp này cũng đòi hỏi người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120, BLTTDS, hướng dẫn tại Mục 8, Nghị quyết số 02/ 2005/ NQ – HĐTPTANDTC ngày 27/04/2005. 2.3. Biện pháp “ Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp” (Điều 110, BLTTDS Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp là việc không cho phép thay đổi hiện trạng tài sản. Theo quy định tại điều 110 BLTTDS thì biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang được tranh chấp được Tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nếu có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu 6 hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó. Khi tòa án đã quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp thì người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được giao bảo quản tài sản có nghĩa vụ bảo quản tài sản, giữ nguyên hiện trạng tài sản; các hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm và các hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này khi giải quyết vụ án dân sự theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. 2.4. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác(Điều 111 BLTTDS) Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa là việc cho thu, bán những sản phẩm về nông nghiệp hoặc những sản phẩm, hàng hóa khác. Theo quy định tại điều 111 BLTTDS thì biện pháp khẩn cấp tạm thời cho thu hoạch, bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác được Tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nếu tài sản đang tranh chấp hoặc liên quan đến tranh chấp là hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác. Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này khi giải quyết vụ án dân sự theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy vậy, Tòa án chỉ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này nếu tài sản đang tranh chấp hoặc liên quan đến tranh chấp trong vụ án tòa án đang giải quyết là hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác ở thời kỳ thu hoạch hoặc không thể bảo quản được lâu dài. Các tài sản do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thu được phải được bảo quản hoặc bán theo các phương thức do pháp luật quy định (theo phương thức án tài sản kê biên để thi hành án). 2.5. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước (Điều 112 BLTTDS) Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước là việc cô lập, không cho chuyển dịch tài sản ở tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước. Theo quy định tại Điều 112 BLTTDS thì biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước được Tòa án quyết định áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án. Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khi Tòa án đã quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này mọi giao dịch thực hiện đối với tài sản của tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc 7 nhà nước bị phong tỏa đều vô hiệu. Nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này của Tòa án, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm ngừng mọi giao dịch liên quan đến tài sản của tài khoản bị phong tỏa cho đến khi có quyết định khác về tài khoản bị phong tỏa của Tòa án. 2.6. Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ (Điều 113 BLTTDS) Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ là việc cô lập không cho chuyển dịch tìa sản đang do người khác nhận gửi giữ. Theo quy định tạo Điều 113 BLTTDS thì biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ được tòa án quyết định áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang có tài sản gửi người khác giữ và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án. Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này khi giải quyết vụ án dân sự theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khi tòa án đã quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này mọi giao dịch thực hiện đối với tài sản gửi giữ đều vô hiệu. Nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này của Tòa án, người đang nhận gửi giữ tài sản bị phong tỏa có trách nhiệm ngừng mọi giao dịch liên quan đến tài snả phong tỏa cho đến khi có quyết định khác về tài sản bị phong tỏa của Tòa án. 2.7. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (Điều 114 BLTTDS) Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ là việc cô lập không cho chuyển dịch tài sản của người có nghĩa vụ đang do họ giữ. Theo quy định tại Điều 114 BLTTDS thì biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ được Tòa án quyết định áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc bảo đảm cho việc thi hành án. Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này khi giải quyết vụ án dân sự theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khi tòa án đã quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này mọi giao dịch thực hiện đối với tài sảnt của người có nghĩa vụ đều vô hiệu. Nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này của Tòa án, của người có nghĩa vụ có trách nhiệm ngừng mọi giao dịch liên quan đến tài sản phong tỏa cho đến khi có quyết định khác về tài sản bị phong tỏa của Tòa án. III. Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện các BPKCTT đối với tài sản đang tranh chấp. Nhìn chung BLTTDS đã quy định một cách khá đầy đủ và chi tiết về các BPKCTT trong đó có các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp với số lượng các biện pháp khá đa dạng, đặc biệt là khoản 13 Điều 102 BLTTDS thừa nhận cả những biện pháp khác mà pháp luật đã quy định. Việc BLTTDS quy định tương đối đầy đủ các biện pháp 8 khẩn cấp tạm thời đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Không chỉ quy định nhiều hơn về số lượng các BPKCTT, BLTDS còn quy định tương đối cụ thể về điều kiện áp dụng đối với từng biện pháp. Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua nội dung của 13 điều luật (từ Điều 108 đến Điều 113, Điều 115, Điều 116). Các điều luật này đã tạo nên các cơ sở pháp lý cụ thể, giúp tòa án có thể áp dụng đúng và phù hợp các biện pháp khẩn cấp tạm thời nói chung và các BPKCTT đối với tài sản đang tranh chấp nói riêng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã cho thấy các quy định về BPKCTT nói chung và BPKCTT đối với tài sản đang tranh chấp nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, chưa tương thích và bao quát hết được thực tiễn. Vì vậy, cần có sự sửa đổi các quy định pháp luật, cụ thể như sau: 1. Đối với các quy định riêng về các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp. Mục đích của việc toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là nhằm kịp thời giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc để đảm bảo thi hành án. Điều này đòi hỏi pháp luật tố tụng phải trao cho Tòa án thẩm quyền ban hành lệnh áp dụng BPKCTT một cách “kịp thời và có hiệu quả”. Tuy nhiên, theo quy định tại các Điều 108, 109 và 110 Bộ luật TTDS thì các biện pháp kê biên tài sản, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp chỉ được Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT nếu có căn cứ cho thấy người đang nắm giữ tài sản này “có hành vi” tẩu tán hủy hoại tài sản, chuyển dịch quyền tài sản hoặc làm thay đổi hiện trạng tài sản. Điều này có nghĩa là, khi Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT thì những hành vi đó đã được thực hiện. Sự chậm trễ trong việc ra quyết định áp dụng BPKCCTT - dù chỉ là một khoảng thời gian rất ngắn - cũng đủ để cho người bị yêu cầu áp dụng BPKCCTT tẩu tán tài sản, thay đổi hiện trạng tài sản hoặc rút tiền từ tài khoản nhằm trốn tránh việc thi hành nghĩa vụ. Trong khi đó, Bộ luật TTDS lại không quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này đối với những thiệt hại mà người yêu cầu phải gánh chịu do việc áp dụng chậm trễ các BPKCTT. Và như vậy, việc Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT khi “người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản” (khoản 1 Điều 108), “người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản” (Điều 109), “người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó” (Điều 110) là đã quá muộn, không còn giá trị, nên không đạt được mục đích của việc áp dụng BPKCTT. Theo chúng tôi, để khắc phục hạn chế này, các Điều 108, 109, 110 Bộ luật TTDS nên được bổ sung cụm từ “cần ngăn chặn”, cụ thể là: “nếu có căn cứ cho thấy người đang nắm giữ về tài 9 sản có hành vi” bằng cụm từ “nếu có căn cứ cho thấy cần ngăn chặn người đang nắm giữ về tài sản có hành vi…”. 2. Đối với các quy định chung về các BPKCTT. Các BPKCTT áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp là một trong các BPKCTT mà BLTTDS đã quy định, do đó việc hoàn thiện các BPKCTT nói chung là cần thiết. Thứ nhất, về thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT, căn cứ hủy bỏ các BPKCTT. BLTTDS còn thiếu vắng các quy định liên quan đến trường hợp: Sau khi xét xử sơ thẩm, đương sự kháng cáo bản án đồng thời có đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT. Giai đoạn này, Tòa án cấp sơ thẩm đang làm thủ tục kháng cáo theo quy định của pháp luật mà chưa chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm. Vậy Tòa án nào có thẩm quyền ra quyết định áp dụng các BPKCTT nếu yêu cầu của đương sự là có căn cứ, đúng pháp luật và thuộc trường hợp phải được áp dụng các BPKCTT? Ngược lại, nếu yêu cầu của đương sự không thuộc trường hợp cần phải áp dụng các BPKCTT hay không đúng pháp luật thì Tòa án nào sẽ không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT? Tòa án nào có thẩm quyền ban hành văn bản trả lời đương sự? Theo quan điểm của nhóm, để xác định rõ vấn đề thẩm quyền của Tòa án cấp nào trong việc xem xét yêu cầu áp dụng BPKCTT trong trường hợp này, BLTTDS nên bổ sung them quy định: “Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT và hồ sơ vụ án để Tòa án cấp Phúc thẩm xem xét chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu áp dụng các BPKCTT, còn các thủ tục về kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm sẽ bổ sung sau”. Thứ hai, về thời hạn để ra quyết định áp dụng các BPKCTT Theo quy định tại điều 117 BLTTDS thì thời hạn để Thẩm phán ra quyết định áp dụng các BPKCTT là ba ngày hoặc 48 giờ tùy từng trường hợp cụ thể vẫn là quá dài, không đáp ứng được tính khẩn cấp. Bởi đối với những biện pháp phong tỏa tài sản, tài khoản thì đương sự có khả năng bị áp dụng các BPKCTT chỉ cần một thời gian ngắn để rút tiền hoặc tẩu tán tài sản Vì vậy, nên quy định ngắn gọn hơn về thời hạn ra quyết định áp dụng các BPKCTT. Đặc biệt nên quy định những trường hợp cấp bách đương sự có thể yêu cầu Tòa án ra ngay quyết định áp dụng các BPKCTT. Dưạ vào yêu cầu của đương sự, thẩm phán ra quyết định áp dụng các BPKCTT nếu xét thấy cần thiết. Thứ ba, về quy định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm tại Điều 120 BLTTDS. Quy định tại điều 120 BLTTDS còn có điểm chưa phù hợp. Cụ thể là khi chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng một trong các BPKCTT quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 điều 120 thì Thẩm phán hoặc HĐXX buộc ngưoi yêu câu phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm mà cụ thể là họ phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện. 10 Cụ thể hơn, theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dâ Tối cao thì nghĩa vụ tài sản là nghã vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng các BPKCTT hoặc cho người thứ ba. Hướng dẫn này đưa ra yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT là không hợp lí vì trên thực tế rất khó để tòa án và người đưa ra yêu cầu biết được thiệt hai thực tế là như thế nào. Do vậy, pháp luật cần có những điều chỉnh và quy định cụ thể rõ ràng hơn để tạo điều kiện thuận lợi thi hành trên thực tế. Thứ tư, về trách nhiệm bồi thường của Tòa án. BLTTDS quy định các trường hợp Tòa án có trách nhiệm bồi thường khi áp dụng không đúng BPKCTT, gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba (Khoản 2 điều 101 BLTTDS) nhưng lại chưa có quy định trách nhiệm bồi thường của Tòa án trong trường hợp không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho đương sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại này như thế nào? Quyền và lợi ích của đương sự yêu cầu có được bảo vệ không? Do đó, cần bổ sung vào khoản 2 Điều 101 BLTTDS them một căn cứ nữa đó là Tòa án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu tòa án có lỗi trong việc không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho người đưa ra yêu cầu hoặc người thứ ba. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan