Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bước tiến triển của quan hệ việt nam trung quốc những năm đầu thế kỷ xxi...

Tài liệu Bước tiến triển của quan hệ việt nam trung quốc những năm đầu thế kỷ xxi

.PDF
89
7
73

Mô tả:

§¹i häc quèc gia hµ néi Tr-êng §¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n  cao thÞ thu trang B-íc tiÕn triÓn cña Quan hÖ ViÖt Nam - Trung Quèc nh÷ng n¨m ®Çu thÕ kû XXI Chuyªn ngµnh: Quan hÖ quèc tÕ M· sè: 60.31.40 LuËn v¨n th¹c sü quèc tÕ häc Ng-êi H-íng dÉn khoa häc: PGS. NguyÔn Huy Quý Hµ Néi: 2010 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông; hai dân tộc Hoa - Việt có mối quan hệ truyền thống, láng giềng trải mấy nghìn năm lịch sử, đặc biệt là quan hệ hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân hai nước. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam kết thúc vào năm 1975, do nhiều nguyên nhân, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chuyển vào giai đoạn không bình thường, đỉnh cao là chiến tranh biên giới năm 1979. Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế và khu vực thay đổi, chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tiến tới bình thường hoá vào tháng 11 năm 1991. Vào những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ hữu nghị hợp tác Việt Nam - Trung Quốc bước vào thời kỳ phát triển ổn định tương đối và đạt được nhiều kết quả. Việt Nam và Trung Quốc - hai nước XHCN, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có nhiều tiếng nói chung về mặt ý thức hệ, nền văn hoá có nhiều điểm tương đồng. Đồng thời, Việt Nam Trung Quốc là những nước đang phát triển, lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, đang tiến hành đổi mới và cải cách mở cửa. Trải qua 30 năm cải cách mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, đã trở thành một cường quốc cả về chính trị lẫn kinh tế. Việc phát triển quan hệ láng giềng hợp tác, hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc không những tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng giữa hai nước, mà còn tạo ra môi trường quốc tế tốt đẹp cho giữ vững sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế của mỗi nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì việc tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi nhằm giữ vững ổn định và phát triển đất nước trở nên vô cùng cần thiết. Bước sang thế kỷ XXI, trong những năm qua quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã có sự phát triển, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, duy trì môi trường hoà bình, ổn định cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng đang đứng trước những vấn đề cần giải quyết do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh như về kinh tế - thương mại, biên giới lãnh thổ, an ninh quốc phòng... Đánh giá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng trong những năm tới là vấn đề cần nghiên cứu để góp phần tạo luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ với Trung Quốc. Chính vì những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Bước tiến triển của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành 2 Quan hệ quốc tế. Việc tiến hành đề tài này thực sự là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn đối với tình hình Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã có rất nhiều tài liệu, bài viết, công trình khoa học trong và ngoài nước đề cập đến, nhất là nguồn tư liệu trong nước. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu (bài báo, khóa luận tốt nghiệp Đại học, luận văn Thạc sỹ, luận án Tiến sỹ, hội thảo khoa học); nhưng những công trình đó hoặc là viết về thời gian sau bình thường hóa (1991), hoặc nghiên cứu một số lĩnh vực riêng biệt. Những công trình này chúng tôi sẽ liệt kê trong phần “Danh mục tài liệu tham khảo”. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những công trình nghiên cứu trước đây, đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu bước tiến triển trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI, cụ thể là giai đoạn từ năm 2001 - 2009 và dự báo triển vọng về quan hệ hai nước những năm tiếp theo. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu * Mục đích: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích đánh giá và hệ thống hoá những yếu tố cơ bản tác động và thực trạng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI. Đồng thời, dự báo triển vọng quan hệ Việt - Trung trong thập kỷ tới. Trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị mang tính giải pháp, góp phần luận cứ khoa học phục vụ chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Luận văn cũng nhằm mục đích cung cấp những thông tin tư liệu và những nhận định đánh giá làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu về quan hệ quốc tế, trước hết là về quan hệ Việt - Trung. * Nhiệm vụ: Để thực hiện được những mục đích nêu trên, Luận văn triển khai các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Một là: Làm rõ những yếu tố cơ bản tác động tới quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI. Thực trạng quan hệ Việt – Trung lúc kết thúc thế kỷ XX, tình hình quốc tế và khu vực, tình hình Trung Quốc và Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI. Hai là: Phân tích thực trạng, chính sách đối ngoại của hai nước về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. Ba là: Dự báo triển vọng và đưa ra khuyến nghị mang tính giải pháp về chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Trung Quốc trong thời gian tới. * Phạm vi nghiên cứu: 3 Về thời gian: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2001 đến năm 2009; dự báo triển vọng và nêu khuyến nghị về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ năm 2010 đến năm 2020. Về nội dung: - Luận văn phân tích, hệ thống hoá các yếu tố tác động đến mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2009. - Đề tài tập trung nghiên cứu bối cảnh quốc tế, khu vực; chính sách đối ngoại của Việt Nam, của Trung Quốc và một số lĩnh vực chủ yếu (chính trị - ngoại giao, kinh tế - thương mại, văn hoá - khoa học kỹ thuật - du lịch, an ninh - quốc phòng) của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI. - Trên cơ sở đó, rút ra những bài học kinh nghiệm, dự báo triển vọng và đề xuất một số giải pháp mang tính khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm tiếp theo của thế kỷ XXI. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, Luận văn sẽ vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về nghiên cứu quốc tế. - Trong quá trình nghiên cứu đề tài và để hoàn thành Luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp lịch sử, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, dự báo; kết hợp với phương pháp nghiên cứu lý luận quan hệ quốc tế. Đồng thời, kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan tới nội dung của đề tài. 5. Cấu trúc Luận văn: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những yếu tố cơ bản tác động đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI. Chương 2: Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI. Chương 3: Triển vọng quan hệ Việt - Trung và khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong những năm tới. 4 Chương 1 NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI 1.1. Nhìn lại quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ sau bình thường hóa (1991-2000) Có thể nói, mười năm đầu sau khi quan hệ hai nước bình thường hoá, quan hệ Việt Nam Trung Quốc đã phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục... với những kết quả tốt đẹp. Đặc biệt là hai nước đã giải quyết được hai vấn đề do lịch sử để lại là phân giới trên đất liền và trong Vịnh Bắc Bộ. Về chính trị, hàng năm hai bên tiến hành các cuộc trao đổi giữa những nhà lãnh đạo cao cấp nhất. Hai bên đã đề ra nguyên tắc chung trong quan hệ giữa hai nước là “láng giềng thân thiện, ổn định lâu dài, hợp tác toàn diện, hướng tới tương lai”. Dựa trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hoà bình (tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng cùng có lợi, chung sống hoà bình) hai bên đã tiến hành hợp tác mọi mặt kinh tế - văn hoá - khoa học - giáo dục... Ngoài các cuộc thăm viếng chính thức của các đoàn cấp cao, các đoàn đại biểu ở các ngành địa phương, các đoàn thể, tổ chức xã hội cũng có sự trao đổi, giao lưu nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Qua đó, nhân dân hai nước có thêm hiểu biết về nhau, về tình hình kinh tế - xã hội của nhau, góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa hai nước. Năm 1999, Tæng BÝ th­ hai §¶ng ®· x¸c ®Þnh ph­¬ng ch©m 16 chữ ph¸t triÓn quan hÖ hai n­íc trong thÕ kû XXI lµ: “láng giềng thân thiện, ổn định lâu dài, hợp tác toàn diện, hướng tới tương lai”. §iÒu nµy phï hîp víi lîi Ých c¨n b¶n 5 cña nh©n d©n hai n­íc, cã lîi cho hßa b×nh, æn ®Þnh vµ ph¸t triÓn ë khu vùc vµ trªn thÕ giíi. §Ó thùc hiÖn cã hiÖu qu¶ ph­¬ng ch©m chØ ®¹o 16 ch÷, kh«ng ngõng thóc ®Èy quan hÖ hai n­íc b­íc sang mét giai ®o¹n ph¸t triÓn míi trong thÕ kû 21; năm 2000, hai nước đã ra Tuyên bố về hợp tác toàn diện Việt Nam - Trung Quốc: “hai bên kh¼ng ®Þnh l¹i, tiÕp tôc c¨n cø theo t«n chØ vµ nguyªn t¾c cña HiÕn ch­¬ng Liªn Hîp quèc, 5 nguyªn t¾c cïng tån t¹i hßa b×nh vµ c¸c nguyªn t¾c quan hÖ quèc tÕ ®· ®­îc thõa nhËn, thóc ®Èy quan hÖ hai n­íc ph¸t triÓn toµn diÖn. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam vµ §¶ng Céng s¶n Trung Quèc tiÕp tôc ph¸t triÓn quan hÖ hîp t¸c h÷u nghÞ trªn c¬ së c¸c nguyªn t¾c: ®éc lËp tù chñ, hoµn toµn b×nh ®¼ng, t«n träng lÉn nhau, kh«ng can thiÖp vµo c«ng viÖc néi bé cña nhau”(*) vµ ®ång ý t¨ng c­êng vµ më réng hîp t¸c trong mäi lÜnh vùc… Về quan hệ kinh tế: Thương mại và đầu tư giữa hai nước phát triển mạnh mẽ. Sự khai thông của tuyến đường sắt, đường biển và hàng không đã góp phần quan trọng cho sự phát triển mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Về thương mại song phương, kim ngạch mậu dịch giữa hai nước có sự tăng trưởng đáng kể, năm 1991 chỉ có trên 32 triệu USD, đến năm 1999 đã tăng lên 1318 triệu USD, riêng trong năm 2000 tăng lên 2.466 triệu USD. Trong cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Phan Văn Khải và Thủ tướng Trung Quốc Chung Dung Cơ nhân dịp Thủ tướng sang thăm Trung Quốc tháng 9/2000, hai Thủ tướng đã nhất trí đẩy mạnh hơn nữa trao đổi kinh tế - thương mại trong những năm tới, nâng tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu tăng trên 2 tỷ USD. Phía Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp có thực lực, có tín nhiệm khai thác thị trường Việt Nam với chính sách ưu đãi và ủng hộ về tiền vốn. Công tác xuất nhập khẩu các mặt hàng truyền thống giữa hai nước sẽ được tăng cường. Việc buôn bán qua biên giới được chấn chỉnh quản lý chặt chẽ. Tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1999 khẳng định: trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, chú trọng hiệu quả và chất lượng, hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển, hai bên quyết tâm cùng nỗ lực phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của các công ty lớn, mở rộng mậu dịch với khối lượng và kim ngạch lớn, khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp của hai bên triển khai hợp tác các dự án lớn, tạo điều kiện thuận lợi để họ đầu tư lẫn nhau; thúc đẩy mậu dịch biên giới hai nước phát triển lành mạnh có trật tự. Như vậy, việc mở rộng hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước còn nhiều tiềm năng to lớn và triển vọng sáng sủa. Sự phát triển quan hệ chính trị - thương mại đã góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác về văn hoá, giáo dục, thể thao và du lịch Việt Nam và Trung Quốc ngày càng phát triển, trở thành các hoạt động thường xuyên thể hiện tình hữu nghị giữa hai nước. Hai bên tiến hành trao đổi các đoàn nghệ thuật biểu diễn, phối hợp trong hợp đồng du lịch; tăng cường các hoạt động tuyên truyền về (*) Tuyªn bè chung vÒ hîp t¸c toµn diÖn ViÖt Nam - Trung Hoa, ký t¹i B¾c Kinh nµy 25 th¸ng 12 n¨m 2000 6 nước này tại nước kia. Từ đó, nhân dân hai nước có thêm sự hiểu biết về nhau, củng cố thêm một bước tình hữu nghị giữa hai nước. Hai bên còn tiến hành các hoạt động trao đổi về hoạt động hợp tác về giáo dục như tao đổi lưu học sinh, thực tập sinh, cùng nhau nghiên cứu về các vấn đề hai bên cùng quan tâm. Thành tựu đặc biệt quan trọng trong mười năm đầu sau khi quan hệ Việt - Trung được bình thường hoá là hai bên đã ký Hiệp ước về biên giới trên bộ (1999), Hiệp định phân giới Vịnh Bắc Bộ (năm 2000), HiÖp ®Þnh hîp t¸c nghÒ c¸ ë VÞnh B¾c Bé (2000). Việc ký kết các Hiệp định này cã ý nghÜa lÞch sö s©u réng, sÏ thóc ®Èy h¬n n÷a quan hÖ l¸ng giÒng h÷u nghÞ, hîp t¸c toµn diÖn gi÷a hai n­íc ph¸t triÓn m¹nh h¬n n÷a trong thÕ kû XXI. Trong các vấn đề do lịch sử để lại giữa Việt Nam và Trung Quốc có ba vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ. Đó là: xác định đường biên giới trong đất liền; phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề biển Đông (vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa cũng như vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam). Sau nhiều vòng đàm phán các cấp về giải quyết các vấn đề tranh chấp biên giới lãnh thổ, hai nước đã tìm được tiếng nói chung, đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Vấn đề biên giới trên đất liền: Biên giới Việt - Trung tồn tại nhiều tranh chấp, hơn 100 điểm, gây khó khăn cho quan hệ hai nước, đặc biệt là giao lưu giữa các tỉnh vùng biên. Theo thoả thuận của lãnh đạo cấp cao, hai nước đã khẩn trương đàm phán, giải quyết vấn đề biên giới trên đất liên trước năm 2000. Sau 6 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 16 vòng đàm phán cấp chuyên viên, ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Hà Nội, Hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được Bộ trưởng ngoại giao hai nước ký kết, tạo cơ sở cho việc thực hiện phân giới cắm mốc xác định biên giới và thúc đẩy hoạt động trao đổi thương mại, đặc biệt là hoạt động mậu biên. Đến cuối năm 2008, hai bên đã hoàn thành phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền theo đúng kế hoạch và thời gian đề ra. Về vấn đề tranh chấp ở Vịnh Bắc Bộ: Là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là hải sản và dầu mỏ, là cửa ngõ giao lưu hàng hải lớn, Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc về kinh tế, quốc phòng và an ninh. Khu vực này cũng đã từng chứng kiến hợp tác của hai nước đánh bắt thuỷ hải sản, nghiên cứu khoa học những năm 1960s. Mặc dù ngay sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết năm 1973, Việt Nam đã chủ động đề nghị đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ nhưng do lập trường của hai nước khác xa nhau, đàm phán không đi đến kết quả, từ đó gây nên sự không rõ ràng về chế độ pháp lý của Vịnh, ảnh hưởng đến quan hệ hai nước. Sau khi bình thường hoá quan hệ năm 1991, hai nước đã ký “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ” năm 1993, tạo cơ sở pháp lý mang tính nguyên tắc cho việc giải quyết về sau. Hai nước đã thống nhất sẽ “áp 7 dụng luật quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế, theo nguyên tắc công bằng và tính đến hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh để đi đến một giải pháp công bằng”. Trải qua 7 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 3 cuộc gặp không chính thức cấp trưởng đoàn đoàn đàm phán cấp Chính phủ, 18 vòng đám phán cấp chuyên viên nhóm cộng tác liên hợp, 10 vòng họp tổ chuyên gia đo vẽ phục vụ phân vịnh và xây dựng tổng đồ Vịnh Bắc Bộ(*)… hai nước đã chính thức ký kết Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ năm 2000 tạo điều kiện thuận lợi duy trì ổn định, quản lý, phát triển và hợp tác quốc tế trong Vịnh. “Đây là thành tựu của hai nước, là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước láng giềng”(**) Còn về vấn đề tranh chấp trên Biển Đông (Trung Quốc gọi là “Nam Hải”) với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), do nhiều nguyên nhân hai bên chưa đi đến những giải pháp để giải quyết tranh chấp ngoài việc cam kết sẽ tiếp tục giải quyết bằng con đường thương lượng, hoà bình. Trong thời điểm giao thừa giữa hai thế kỷ, lãnh đạo hai nước đã ra “Tuyên bố về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa” tạo tinh thần hữu nghị và cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác giữa hai nước trong những năm đầu thế kỷ XXI. 1.2. Bối cảnh lịch sử những năm đầu thế kỷ XXI 1.2.1. Tình hình thế giới và khu vực 1.2.1.1. Tình hình thế giới Nhân loại kết thúc thế kỷ XX - thế kỷ ghi đậm nét trong lịch sử những dấu ấn cực kỳ sâu sắc, loài người bước vào thế kỷ XXI với những thời cơ và thách thức lớn. Bức tranh kinh tế - chính trị thế giới có nhiều nét tương phản. Đại hội IX (2001) của Đảng đã dự báo những diễn biến quốc tế trong thế kỷ XXI, nhất là những biến động của tình hình thế giới trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Bước vào năm 2001, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng và phức tạp, tạo thành những xu thế tác động mạnh đến các quốc gia trên thế giới. Trước hết, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, đạt nhiều kỳ tích đã và đang tác động đến tất cả các lĩnh vực đời sống mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế (*) Nguồn: Ban Biên giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam (**) Phát biểu của Phó Thủ tướng Vũ Khoan trong buổi tiếp Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị sang dự lễ trao đổi Thư phê chuẩn Hiệp định phân xác định Bắc Bộ ngày 01/7/2004 8 đương đại. Đặc điểm lớn nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là ở chỗ: Khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ra của cải vật chất, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực đời sống xã hội. Nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển biến đổi nhanh chóng thành nền kinh tế tri thức, tức nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức; tri thức chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị tổng sản phẩm xã hội. Vì vậy, tri thức và sở hữu trí tuệ, trình độ làm chủ thông tin, tri thức có vai trò ngày càng quan trọng và ý nghĩa đến sự phát triển. Mặt khác, cách mạng khoa học công nghệ vừa tạo thời cơ song cũng tạo những thách thức rất lớn đối với mọi quốc gia dân tộc, nhất là những nước nghèo, lạc hậu đứng trước cơ hội phát triển hoặc tụt hậu, lệ thuộc bên ngoài. Thứ hai, xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ tác động đến mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nên tính tuỳ thuộc lẫn nhau cùng phát triển ngày càng tăng. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế cũng gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu, phân công lao động quốc tế đã đạt đến trình độ ngày càng cao. Trong quá trình toàn cầu hoá, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và khu vực phát triển mạnh, dẫn đến việc hình thành các tổ chức và cơ chế kinh tế, thương mại, tài chính có tính chất toàn cầu và khu vực như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)... Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế chứa đựng những mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Toàn cầu hoá tạo cơ hội phát triển nhất là về kinh tế như: gia tăng luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao lưu văn hoá, trí tuệ, củng cố cơ chế quốc tế, tăng cường hữu nghị và xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Mặt khác, toàn cầu hoá cũng tạo ra những nguy cơ to lớn: Toàn cầu hoá kinh tế hiện nay thực chất bị chủ nghĩa tư bản chi phối, gia tăng sự bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, nguy cơ suy thoái truyền thống, bản sắc dân tộc, nguy cơ mất độc lập chủ quyền và quốc tế hoá các tiêu cực và tệ nạn xã hội. Ba là, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội đang diễn ra sôi nổi. Đầu thế kỷ XXI, hợp tác, đấu tranh cho hoà bình, ổn định trên thế giới vẫn là một xu thế lớn và có những bước phát triển mới. Tiếp nối đà của những năm trước, hợp tác trong những năm đầu thế kỷ XXI diễn ra một cách phổ biến trên tất cả các lĩnh vực, được tăng cường cả nội dung và hình thức. Hợp tác song phương và đa phương giữa các nước trên lĩnh vực kinh tế nhằm chống mặt trái của toàn cầu hoá, chống tự do hoá kinh tế vì lợi ích riêng của các nước tư bản, trên lĩnh vực chính trị - an ninh nhằm chống khủng bố, chống chiến tranh và chạy đua vũ trang; trên lĩnh vực khoa học kỹ thuật nhằm chống những căn bệnh thế kỷ, đói nghèo, chống thiên tai và bảo vệ môi trường. Tất cả các hoạt động này đang diễn ra cả bề rộng lẫn chiều 9 sâu. Từ Liên Hợp Quốc đến các tổ chức khu vực như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực Đông Nam Á (ARF), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Liên minh Châu Âu (EU), Tổ chức Liên minh và hợp tác Châu Âu (OSCE), Tổ chức thống nhất Châu Phi (OAU), các tổ chức khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê... đều mở các hội nghị, ra các nghị quyết và thông qua nhiều hình thức hợp tác toàn diện [17] . Tại các hội nghị và trong các nghị quyết này, hợp tác kinh tế và hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố được nhấn mạnh và là đặc điểm nổi bật của những năm đầu thế kỷ XXI. Ngày nay, các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc thêm. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt với nội dung và hình thức mới. Chủ nghĩa tư bản trong những thập kỷ gần đây do lợi dụng được những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, cùng với những biện pháp điều chỉnh hợp lý về kinh tế, xã hội nên đã tạo ra bước phát triển mới về kinh tế, khoa học - công nghệ. Chủ nghĩa tư bản đang chiếm ưu thế về vốn, khoa học - công nghệ, thị trường song không thể điều hoà được và khắc phục nổi những mâu thuẫn trong lòng nó. Những mâu thuẫn xã hội, giai cấp, dân tộc, tôn giáo... tiếp tục diễn ra trong lòng chủ nghĩa tư bản. Sự vận động của những mâu thuẫn này sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là Mỹ, sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cục diện chính trị thế giới thay đổi, đã và đang thực hiện âm mưu bá chủ thế giới, áp đặt mô hình kinh tế - xã hội, tự do dân chủ Mỹ cho các dân tộc khác. Đặc biệt sau sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, Mỹ và các đồng minh tiến hành chiến tranh ở Áp-gha-ni-xtan, I-rắc dưới chiêu bài chống khủng bố quốc tế, lợi dụng và phớt lờ vai trò của Liên Hợp Quốc, thực hiện chiến lược “đánh đòn phủ đầu” đã và đang vi phạm nguyên tắc quốc tế cơ bản, can thiệp vào công việc nội bộ của một số nước có chủ quyền. Những hành động hiếu chiến của Mỹ đã, đang đe doạ nền an ninh chung của nhân loại và của các dân tộc, dấy lên phong trào bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh, phong trào đấu tranh chống toàn cầu hoá vì dân sinh, dân chủ phát triển ở nhiều nơi. Hoà bình và phát triển là mệnh lệnh của thời đại ngày nay. Bốn là, thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu như bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo, chống nạn khủng bố, tội phạm quốc tế, môi trường sinh thái... Những vấn đề này đã và đang đe doạ sự tồn tại và phát triển bền vững của nhân loại. Không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu không có sự hợp tác song phương và đa phương trên tinh thần hữu nghị, hợp tác, phát triển vì lợi ích chung. Ngày nay, môi trường sống của con người đang bị phá huỷ nghiêm trọng, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, phá huỷ tần ôzôn, hiệu ứng nhà kính, hiện tượng băng tan do trái đất nóng lên, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, rừng bị tàn phá nghiêm trọng, động thực vật sống cạn kiệt, tình trạng bệnh tật, 10 mưa axít, thiên tai xảy ra ở nhiều nơi... đã và đang đe doạ đến cuộc sống con người. Môi trường sống bị phá huỷ, trong lúc đó dân số gia tăng và vượt quá khả năng của nền kinh tế, của trữ lượng tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, bệnh tật hiểm nghèo (HIV, AIDS, ung thư...) chưa khắc phục được thì tệ nạn xã hội, nguy cơ chiến tranh hạt nhân, khủng bố quốc tế lan tràn nhiều nơi đe doạ trực tiếp đến cuộc sống của nhân loại. Đây là những vấn đề có tính toàn cầu cấp bách, không chỉ của riêng ai, đòi hỏi lương tâm, trách nhiệm của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng quốc tế hãy hành động vì chính bản thân chúng ta, để có cuộc sống bền vững hơn. Năm là, các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn ngày càng trở thành nhân tố rất quan trọng đối với sự phát triển của tình hình thế giới. Căn cứ và sức mạnh tổng hợp và ảnh hưởng thực tế, các nước lớn hiện là: Mỹ, Canađa, Braxin, Nga, Đức, Anh, Pháp, Ytalia, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. 11 nước lớn chiếm 1/3 lãnh thổ và hơn 1/2 dân số, 70% GDP thế giới. Các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn gồm nhiều loại: đồng minh, liên kết, không liên kết, đối tác, đối thủ, đối thủ tiềm tàng... hết sức phức tạp. Có thể nói rằng, quan hệ giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ đã diễn ra với những xu thế trái ngược nhau, nhưng không loại trừ mà bổ sung cho nhau: xu thế tăng cường đối thoại, hợp tác để giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chung và lợi ích mỗi nước tránh xung đột, đối đầu; xu hướng cạnh tranh, đấu tranh ngày càng quyết liệt hơn. Hoa Kỳ vẫn là siêu cường duy nhất, đang thực thi chiến lược thế giới đơn cực với mục tiêu làm bá chủ toàn cầu; đa số các nước lớn còn lại chủ trương trật tự thế giới đa cực. Một số nước lớn mâu thuẫn với Mỹ song phải dựa vào Mỹ để phát triển kinh tế, duy trì an ninh; vì thế trong quan hệ với Mỹ họ tránh xung đột, đối đầu với Mỹ. Hiện nay và trong vài thập kỷ tới Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất với ưu thế toàn diện về kinh tế, khoa học công nghệ và quân sự. Tuy nhiên, Mỹ cũng có những hạn chế, phải đối phó với nhiều thách thức trong và ngoài nước. Sự bùng nổ khủng hoảng tài chính nghiêm trọng và việc Mỹ sa lầy trong chiến tranh ở Irap và Afghanistan đã phản ánh xu thế suy giảm vị thế của Mỹ trong cán cân so sánh lực lượng giữa các nước lớn trên toàn cầu, buộc chính quyền mới của Tổng thống Obama phải có những điều chỉnh mới trong đường lối đối nội và đối ngoại. Trong khi đó, các cường quốc khác, nhất là Trung Quốc, Ấn Độ đang nổi lên rất nhanh. Đặc biệt, Trung Quốc là quốc gia với tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ và có ảnh hưởng ngày càng lớn trên toàn cầu đang làm suy yếu vị trí siêu cường của Mỹ. Mối quan hệ Mỹ - Trung có tầm quan trọng đặc biệt đối với thế giới hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, những đặc điểm và xu thế của tình hình thế giới luôn vận động đan xen giữa thời cơ và thách thức, tác động mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam trên tất cả các phương diện từ tầm vĩ mô đến vi mô, từ chính trị tư tưởng đến kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc gia, truyền 11 thống, bản sắc dân tộc và môi trường sinh thái. Do đó, Đảng ta chỉ rõ “Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai với các nước phát triển trên thế giới”[89]. 1.2.1.2. Tình hình khu vực Việt Nam - Trung Quốc nằm ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, là một khu vực năng động nhất về phát triển kinh tế. Trong hơn mười năm qua, kinh tế khu vực này đã tăng trưởng gần 50%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế các khu vực khác. Đặc biệt, khu vực Đông Á đã trở thành khu vực có tiềm năng và sức tăng trưởng nhanh nhất trong nền kinh tế thế giới [75]. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng tăng. Xu thế hợp tác, liên kết trong khu vực phát triển mạnh mẽ, đặc biệt về kinh tế. Điều này thể hiện qua sự ra đời của hàng loạt các tổ chức trong khu vực như Diễn đàn khu vực (ARF); sự mở rộng của ASEAN song song với việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); sự ra đời của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC); sự hình thành cơ chế hợp tác ASEAN - Đông Bắc Á theo mô hình ASEAN + 1, ASEAN + 3; Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA)... Tuy nhiên, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là khu vực chứa nhiều mâu thuẫn và nhân tố gây mất ổn định. Đây là một khu vực rất đa dạng về văn hoá, tôn giáo, chế độ chính trị xã hội, trình độ phát triển. Đó là một nhân tố tiềm ẩn sự bất ổn định ở khu vực. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh của các nền kinh tế lớn trong khu vực những năm đầu thế kỷ XXI cũng chứa đựng những nguy cơ của sự phát triển nóng, thiếu bền vững ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chung của các nền kinh tế khác trong khu vực. Châu Á - Thái Bình Dương từng là trận tuyến nóng bỏng trong chiến tranh lạnh nên khu vực phải đối mặt với nhiều vấn đề di sản của chiến tranh như khoảng trống quyền lực; những điểm nóng; xung đột sắc tộc, tôn giáo; sự nghi kỵ lẫn nhau giữa các quốc gia... ảnh hưởng lớn đến an ninh quốc gia, sự ổn định và phát triển của toàn khu vực. Hơn thế nữa, sau sự kiện 11/9/2001 tại Mỹ, quan hệ giữa các nước lớn có thay đổi lớn do sự điều chỉnh chiến lược trong chính sách đối ngoại - vừa hợp tác vừa kiềm chế lẫn nhau và việc khu vực có sự hội tụ của hầu hết các nước lớn đã tạo ra thuận lợi cũng như thách thức cho các nước trong khu vực. Nổi bật trong số những điểm nóng đó là vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề Đài Loan trong mối quan hệ giữa các nước lớn như cặp quan hệ Trung - Mỹ, Trung - Nhật,... hay vấn đề tranh chấp Biển Đông là một trong những sự kiện gây nhiều tranh cãi, gây mất đoàn kết giữa các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các nước xung quanh biển Đông, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc. 12 Các nước ASEAN ngày càng có tiếng nói quan trọng trong khu vực thể hiện ngày càng tích cực của tổ chức này trong việc giải quyết các vấn đề khu vực. ASEAN đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của Diễn đàn khu vực (ARF), có vai trò tích cực trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông giữa các nước trong khu vực. Với phương cách làm việc của mình các nước ASEAN tạo ra thói quen đối thoại, tiếp xúc trong khu vực, nhằm tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin giữa các quốc gia ở Đông Nam Á. Đồng thời, qua đó làm giảm sự nghi kỵ lẫn nhau giữa các nước và làm suy giảm ý chí dùng vũ lực trong khu vực. Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, của xu thế toàn cầu hoá kinh tế, cạnh tranh, hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn diễn ra ở nhiều nơi song hợp tác vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội vẫn là xu thế lớn. Sự phát triển của xu thế đa cực hoá thế giới và toàn cầu hoà kinh tế đã mang lại cơ hội và điều kiện có lợi cho hoà bình và phát triển thế giới. CNXH tạm thời lâm vào thoái trào; song những bài học thành công và thất bại, cùng với khát vọng và thức tỉnh của các dân tộc XHCN có điều kiện, khả năng và sẽ tạo ra bước phát triển mới trong thế kỷ XXI. Chính vì vậy, các nước XHCN, các nước đang phát triển đều đứng trước cơ hội và thách thức lớn. Nắm bắt được những thanh đổi đó, để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, tranh thủ cơ hội và đối phó với thách thức, Việt Nam cũng như Trung Quốc đều đã có những điều chỉnh trong chính sách đối nội, đối ngoại, nhằm hiện thực hoá những mục tiêu chiến lược của mình trong thế kỷ XXI. 1.2.2. Tình hình trong nước và chính sách đối ngoại của Việt Nam, Trung Quốc 1.2.2.1. Tình hình Việt Nam và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc * Tình hình Việt Nam Công cuộc đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Bước vào thế kỷ XXI đối mặt với vô vàn thách thức lớn ở trong nước và trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn duy trì đường lối lãnh đạo, đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển trên mọi lĩnh vực và hội nhập tương đối sâu rộng vào đời sống quốc tế. Về kinh tế, hiện nay nền kinh tế nước ta là một trong những nền kinh tế “mở”, gắn kết với nền kinh tế thế giới vào loại hàng đầu thế giới. Kinh ngạch xuất - nhập khẩu bằng khoảng gần 140% GDP (so với 56,9% của Trung Quốc, 58,5% của Nga, cao nhất trong ASEAN, chỉ sau Xinh-ga-po); ODA và FDI đóng góp khoảng trên dưới 30% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội. 13 Từ tháng 01/2007, Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới với hơn 150 thành viên, chiếm hơn 90% dân số thế giới, 95% GDP và thương mại toàn cầu. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với Việt Nam, đánh dấu một mốc mới rất quan trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế: từ hội nhập ở cấp khu vực (ASEAN năm 1995) đến cấp độ liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) và đến cấp độ toàn cầu hiện nay. Về chính trị, nhờ thắng lợi của hơn 20 năm đổi mới, dựa trên chính sách đối ngoại đúng đắn, chúng ta có quan hệ hoà bình, hữu nghị rộng lớn trong quan hệ quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình [97]. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao trên 170 nước trên thế giới, có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới, đưa các quan hệ trên vào xu thế ổn định lâu dài, dựa trên các thoả thuận đã được ký kết. Hơn thế nữa, Việt Nam đã là thành viên và tích cực đóng góp vào hoạt động của các tổ chức khu vực và quốc tế như Liên Hợp Quốc, WTO, ASEAN, APEC, ASEM, tham gia các cam kết xây dựng thị trường tự do khu vực ASEAN (AFTA), Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN (ACFTA). Đặc biệt, Việt Nam được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 20082009 với số phiếu cao đã thể hiện sự tín nhiệm và vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Do vậy, uy tín và vị thế của Việt Nam trên thế giới và khu vực không ngừng tăng lên. Điều đó đã tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta tiếp tục đổi mới giúp phát triển kinh tế, ổn định xã hội; thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức lớn, đó là biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại. Điều này thể hiện ở việc chưa nhận thức rõ được định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, trong đó yêu cầu giữ vững vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Quá nhấn mạnh các chỉ tiêu lợi nhuận trong hoạt động kinh tế, chưa quán triệt đầy đủ việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển, tăng cường kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Đồng thời, các thế lực thù địch đang ngày đêm âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình”, lợi dụng sự mất cảnh giác của nhân dân gây bạo loạn, làm mất trật tự xã hội, bất ổn chính trị; chúng sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị nước ta... Vì vậy, song song với tập trung phát triển kinh tế chúng ta phải nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực, tự giác học tập lý luận chính trị, đường lối, quan điểm của Đảng. Tích cực trau dồi, cập nhật kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra trên thế giới vào cuối năm 2007 đã ảnh hưởng hầu hết đến nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam không ngoài tầm ảnh hưởng. Vì vậy, Việt Nam cần có những 14 biện pháp phù hợp để vượt qua khủng hoảng kinh tế, duy trì tốc độ phát triển, đảm bảo đời sống nhân dân. Về công tác đối ngoại, tháng 8/1988, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương khoá VI, đã thông qua Nghị quyết số 13-NQ/TW về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Đây là mốc quan trọng thể hiện sự đổi mới tư duy trên lĩnh vực đối ngoại. Với chủ đề “giữ vững hoà bình, phát triển kinh tế“, nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục vụ ổn định chính trị, ưu tiên phát triển kinh tế hàng đầu, đồng thời bảo vệ Tổ quốc, nhấn mạnh quan điểm kết hợp sức mạnh của thời đại trong điều kiện của tình hình thế giới thay đổi. Việt Nam bắt đầu điều chỉnh quan hệ với các nước xung quanh, nhất là quan hệ với Trung Quốc và các nước ASEAN nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn và củng cố uy tín của mình. Năm 1991, Việt Nam và Trung Quốc bình thường hoá quan hệ, bước đầu mở ra những trang mới trong quan hệ Trung - Việt những năm tiếp theo. Năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, đây được coi là một mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam. Đồng thời, quan hệ Việt – Trung sau sự kiện này được phát triển hơn nữa trong khuôn khổ ASEAN. Năm 2000, hai nước kỷ niệm 10 năm bình thường hoá quan hệ, hai bên khẳng định lại sự cần thiết và lợi ích cơ bản của quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX họp tháng 4/2001 đã khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế và Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”[90]. Đại hội đầu tiên của thế kỷ XXI, chúng ta đã có bổ sung, nhấn mạnh tư cách đối tác tin cậy là để cam kết, khẳng định một lần nữa nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tính hiệu quả của các hoạt động đối ngoại, hợp tác. Một nét mới trong nội dung công tác đối ngoại so với thời kỳ trước là Đại hội khẳng định mạnh mẽ việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN và đề ra nhiệm vụ đối ngoại là “tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [90]. Đồng thời, Đại hội cũng nhấn mạnh một phương hướng quan trọng hàng đầu trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là: “coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng”[90]. Đây là cơ sở thúc đẩy sự phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc lên bước mới và toàn diện hơn. Để khẳng định lại nhiệm vụ công tác đối ngoại giai đoạn đầu của thế kỷ XXI, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X họp tháng 4/2006 tiếp tục xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương 15 hoá, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”[91]. Như vậy nhiệm vụ công tác đối ngoại những năm đầu thế kỷ XXI vẫn tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Là một thành viên của ASEAN - một tổ chức khu vực rất thành công, phát triển năng động, hợp tác chặt chẽ, có quan hệ đối tác mật thiết với nhiều quốc gia và tổ chức quan trọng hàng đầu thế giới; Việt Nam có vai trò ngày càng quan trọng phát huy hiệu quả hoạt động của tổ chức này, đặc biệt là vai trò của Việt Nam trong xử lý mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc - Việt Nam. Trung Quốc và ASEAN có cơ chế đối thoại trao đổi nhiều tầng nấc tương đối hoàn thiện, Việt Nam - một thành viên của ASEAN - là cơ hội để lãnh đạo hai nước Việt Nam và Trung Quốc tiếp xúc, trao đổi, bàn bạc cũng tăng lên tương ứng, khiến cho những người quyết sách cao nhất của hai bên có cơ hội hơn trong việc trao đổi ý kiến về những vấn đề quan hệ song phương và quốc tế mà hai bên cùng quan tâm một cách trực tiếp, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, mở rộng nhận thức chung. Đồng thời, Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN sẽ trở thành khu mậu dịch lớn thứ ba trên thế giới sau khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ, khu mậu dịch tự do EU, và sẽ trở thành một trong những khu vực có nền kinh tế năng động nhất trên thế giới. Khó có thể đánh giá hết những cơ hội mà khu mậu dịch tự do có dân số đông dân nhất thế giới này ấp ủ. Đối với Việt Nam mà nói, đây chắc chắn cũng là một cơ hội tuyệt vời. Đặc biệt, với Chương trình thu hoạch sớm giữa Trung Quốc và ASEAN, cùng với việc thuế xuất hàng nhập khẩu giữa Trung Quốc với các nước ASEAN sẽ dần giảm xuống, thì đây là cơ hội tốt cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc phát triển mạnh mẽ hơn. 16 Vị thế của Việt Nam không ngừng tăng lên, nhưng Việt Nam chưa có vai trò quyết định đối với các vấn đề khu vực. Hiện nay Việt Nam phải đối mặt với không ít khó khăn và bất ổn bắt nguồn từ những tranh chấp lãnh thổ với các nước trong khu vực, đặc biệt là vấn đề Biển Đông. Tranh chấp quần đảo Trường Sa luôn là trở ngại trong phát triển quan hệ hai nước Việt - Trung, cũng như kìm hãm sự phát triển của quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Việc đẩy mạnh quan hệ với Trung Quốc, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước sẽ hoá giải các nguy cơ, trở lực trong quan hệ với Trung Quốc. Hơn nữa, Trung Quốc là một nước lớn đang trỗi dậy mạnh mẽ, là nước vượt qua cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu sớm trên thế giới, giữ vững được tốc độ tăng trưởng kinh tế; việc tăng cường và phát triển quan hệ với Trung Quốc là một biện pháp nhằm nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế... Thực tế trong những năm qua, lãnh đạo đất nước ta đã có những chủ trương đúng đắn khắc phục những vấn đề còn tồn tại, tăng cường hơn nữa mối quan hệ truyền thống hữu nghị Việt - Trung. * Vị trí của Trung Quốc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam Việt Nam và Trung Quốc là hai nước đang phát triển, cùng xây dựng CNXH, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đều đang tiến hành “đổi mới”, “cải cách mở cửa”. Hai nước đều cần có một môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội. Trong chính sách đối ngoại của Việt Nam có mấy ưu tiên, một là ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng, hai là ưu tiên phát triển quan hệ với các nước lớn, ba là ưu tiên phát triển quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, bốn là ưu tiên phát triển quan hệ với các nước bạn bè truyền thống. Trong cả bốn ưu tiên này thì Trung Quốc hội tụ tất cả các yếu tố trên. Chính vì vậy, có thể nói xuất phát từ lợi ích quốc gia và dân tộc chúng ta không thể không phát triển tốt quan hệ với Trung Quốc. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, Trung Quốc vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế, nền kinh tế Trung Quốc hiện đang đứng thứ ba trên thế giới với tốc độ phát triển kinh tế rất cao. Vị thế, vai trò và ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Cùng với sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc, hầu hết các quốc gia trong khu vực đang nhìn nhận Trung Quốc như một đầu tàu dẫn dắt kinh tế đối với các nước [100]; Việt Nam đương nhiên không nằm ngoài xu thế đó. Phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện với Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam có một môi trường ổn định để phát triển kinh tế - xã 17 hội trong nước. Ngoài ra, Trung Quốc là một nước XHCN, tiến hành cải cách mở cửa sớm hơn Việt Nam 10 năm, có nhiều kinh nghiệm quý báu trong xây dựng Đảng, quản lý đất nước - là một đối tác để chúng ta tham khảo, thực hiện mục tiêu phát triển của mình. Do yêu cầu của công cuộc Đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại [90] như đã đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Việt Nam rất coi trọng việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại “hai bên cùng có lợi” với các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Trung Quốc, nước láng giềng lớn nhất ở phía Bắc Việt Nam, một nước đã thu được những thành tựu quan trọng và kinh nghiệm quý báu trong cải cách kinh tế mở cửa đối ngoại. Quả thực, Trung Quốc là một thị trường rộng lớn và tiềm năng trong khu vực; hơn nữa, đối với Việt Nam, Trung Quốc còn là một thị trường tương đối dễ thâm nhập. Ví dụ, trong trao đổi thương mại, một số sản phẩm của Việt Nam không xuất được sang thị trường khác nhưng lại có thể xuất sang thị trường Trung Quốc vì các sản phẩm như nông sản, lâm hải sản của Việt Nam rất được người Trung Quốc ưu thích. Việt Nam cũng cần nhập từ Trung Quốc vật tư, nguyên liệu, máy móc... để phục vụ các ngành kinh tế quốc dân với chi phí vận chuyển rẻ hơn việc nhập từ nước khác (vì đường vận chuyển gần hơn). Trong công cuộc Đổi mới của nước ta mà trọng tâm là đổi mới kinh tế thì rõ ràng không thể không coi trọng thị trường Trung Quốc. Trung Quốc là láng giềng của Việt Nam và luôn là nước có ảnh hưởng quan trọng trong khu vực. Những năm thập niên đầu thế kỷ, Trung Quốc ngày càng vươn lên mạnh mẽ với tốc độ phát triển kinh tế cao, đang là một cường quốc có ảnh hưởng trong khu vực và xa hơn nữa là cường quốc thế giới với uy tín và ảnh hưởng trên trường quốc tế ngày càng tăng. Trung Quốc cũng là đối tác, bạn hàng chiến lược và là đối tượng cần tranh thủ của nhiều quốc gia lớn nhỏ trên thế giới. Chính vì vậy, Trung Quốc có vị trí quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam (thể hiện ở vai trò của nước láng giềng, nước lớn). Trung Quốc với tư cách là nước láng giềng: Việt Nam ta có câu “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “nước xa không cứu được lửa gần”, thể hiện tầm quan trọng của người láng giềng. Trong quan hệ quốc tế, những câu nói đó vẫn còn nguyên giá trị. Láng giềng chính là môi trường an ninh bên ngoài của quốc gia, mọi sự ổn định hay bất ổn định ở láng giềng đều có ảnh hưởng nhất định đến an ninh quốc gia. Một quốc gia muốn ổn định, phát triển thì phải “nội yên, ngoại tĩnh” theo câu nói của Hồ Chủ Tịch. Nếu môi trường bên ngoài mà bất ổn thì bên trong sẽ khó có thể ổn định được. Sự gần gũi về địa lý giữa các nước láng giềng tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, vận chuyển, thông thương, giao lưu... Điều này rất có ý nghĩa trong quan hệ mọi mặt giữa hai nước 18 láng giềng gần nhau; đặc biệt là quan hệ kinh tế, buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc là một thị trường có sức tiêu thụ lớn hàng hoá đủ chủng loại. Hiện Việt Nam đang xuất khẩu các mặt hàng nông sản (vốn là lợi thế lớn nhất của Việt Nam) sang Trung Quốc như rau quả nhiệt đới, hải sản khô, thực phẩm chế biến... Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều thành công trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hoá - giáo dục... mà Việt Nam có thể học hỏi được. Với mục tiêu cơ bản là nhằm duy trì môi trường quốc tế hoà bình, ổn định phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, tạo thế quốc tế cho ta trong mối quan hệ đa dạng, đa phương với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã xác định mục tiêu cụ thể trong quan hệ với Trung Quốc những năm đầu thế kỷ mới là “tiếp tục phát triển toàn diện quan hệ hai nước” và “không ngừng thúc đẩy quan hệ hai nước bước sang một giai đoạn phát triển mới trong thế kỷ XXI” [70]. Trung Quốc với tư cách là một nước lớn: Lịch sử hơn 50 năm qua cho thấy các nước lớn luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, chúng ta càng cần có quan hệ với các nước lớn, những nước có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Trung Quốc là một trong những nước lớn mà Việt Nam đặc biệt quan tâm. Hơn nữa, Trung Quốc là một nước lớn đang trỗi dậy mạnh mẽ, tăng cường và phát triển quan hệ với Trung Quốc là một biện pháp nhằm nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Trung Quốc giữ vai trò là một “chỗ dựa tâm lý” cân bằng sức mạnh cho Việt Nam trong hội nhập khu vực và quốc tế. Như vậy, mục tiêu cơ bản trong quan hệ với Trung Quốc là nhằm “duy trì môi trường quốc tế hoà bình, ổn định” phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước, “tạo thế quốc tế cho ta trong mối quan hệ đa dạng, đa phương với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”. Đây là mục tiêu lâu dài và nhất quán trong chính sách của ta đối với Trung Quốc khi hai nước bình thường hoá quan hệ tới nay. Để thực hiện mục tiêu này, ta đã xác định mục tiêu cụ thể cần thực hiện trong giai đoạn đầu thế kỷ mới là: “tiếp tục thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển toàn diện” và “không ngừng thúc đẩy quan hệ hai nước bước sang một giai đoạn phát triển mới trong thế kỷ XXI” [70]. 1.2.2.2. Tình hình Trung Quốc và vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc * Tình hình Trung Quốc Mục tiêu hàng đầu của Trung Quốc trong thế kỷ XXI là tập trung phát triển đất nước, phấn đấu đến khoảng giữa thế kỷ hoàn thành hiện đại hoá đất nước, trở thành một quốc gia phát triển. Để thực hiện mục tiêu trên, Trung Quốc có yêu cầu ổn định tình hình ở cả trong nước và trên thế giới để tập trung phát triển kinh tế. Chính vì vậy, Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XVI (năm 2002) đã nhấn mạnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong 19 những năm đầu của thế kỷ mới là: “Trung Quốc thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình, độc lập, tự chủ. Tôn chỉ mục đích là bảo vệ hoà bình thế giới, thúc đẩy phát triển chung. Cùng với cộng đồng quốc tế tích cực thúc đẩy đa cực hoá thế giới, thúc đẩy các lực lượng cùng tồn tại hoà dịu, duy trì ổn định cộng đồng quốc tế. Thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế phát triển theo hướng có lợi cho việc thực hiện cùng phồn vinh, giành lợi tránh hại, làm cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển đều được lợi trong toàn cầu hoá kinh tế” [41] Như vậy, bước sang thế kỷ XXI, ngoại giao Trung Quốc luôn nhấn mạnh hoà bình và phát triển. Những bước tiến lớn của ngoại giao Trung Quốc là từ chính sách ngoại giao “nước lớn” đến ngoại giao của một “nước lớn có trách nhiệm” [41]. Trung Quốc coi giai đoạn đầu của thế kỷ XXI là thời cơ tốt nhất để phát triển xây dựng hiện đại hoá, tiến tới là một quốc gia phát triển trung bình vào khoảng giữa thế kỷ. Để thực hiện chiến lược này, Trung Quốc rất cần có môi trường bên ngoài hoà bình, ổn định. Vì vậy, Trung Quốc tiến hành ngoại giao toàn phương vị, coi trọng quan hệ với các nước lớn chủ yếu, quan hệ hữu hảo với các quốc gia xung quanh và trong khu vực. Sau 30 năm tiến hành cải cách mở cửa đối ngoại, Trung Quốc đã tạo được nền tảng vững chắc với tốc độ phát triển kinh tế cao, duy trì được sự ổn định chính trị và giành được những thành tựu to lớn trên lĩnh vực đối ngoại. Hiện nay, Trung Quốc là nền kinh tế đang phát triển, là nước XHCN lớn nhất trên thế giới. Nếu như trước kia, Trung Quốc chỉ tập trung vào các hoạt động ngoại giao song phương, thì nay cùng với sự lớn mạnh về kinh tế và trưởng thành về chính trị, Trung Quốc ngày càng mở rộng quan hệ đa phương và khẳng định vai trò của mình trong các diễn đàn khu vực, tổ chức quốc tế. Trung Quốc đã cải thiện và thiết lập quan hệ hợp tác với các nước lớn, mở rộng quan hệ với các nước Châu Á, Châu Âu, Châu Phi và Mỹ La tinh. Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc có vai trò quan trọng. Là một bên đối thoại chính thức của ASEAN, là thành viên tích cực của cơ chế ASEAN + 3, tổ chức APEC và diễn đàn ARF, ASEM. Phát huy vai trò là Uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Trung Quốc đã ủng hộ các nước đang phát triển nhằm xây dựng một trật tự kinh tế, chính trị mới công bằng và bình đẳng hơn, cổ vũ cho các hoạt động trao đổi hợp tác kinh tế, văn hoá, chính trị, khoa học kỹ thuật giữa các nước và khu vực trên thế giới. Trung Quốc đã phát huy vai trò tích cực của một nước lớn trong khu vực, đóng góp ý kiến nhằm tăng cường hợp tác khu vực trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng. Trung Quốc tiếp tục hợp tác với các nước chủ chốt trong khu vực xử lý các vấn đề phát sinh tại các điểm nóng, góp phần giữ gìn hoà bình, ổn định ở khu vực Đông Á và Châu Á - Thái Bình Dương. Trung Quốc cho rằng: một trong những phương pháp tốt nhất để tạo ảnh hưởng chính trị khu vực là tạo cho mình một ảnh hưởng “nước lớn có trách nhiệm” [41]. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan