Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học Bước chuyển tư tưởng của trần đức thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật ...

Tài liệu Bước chuyển tư tưởng của trần đức thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng

.PDF
68
116
132

Mô tả:

Một là, giới thiệu khái quát về thân thế và sự nghiệp sáng tác của Trần Đức Thảo. Hai là, làm sáng tỏ những khái niệm nền tảng của Hiện tượng học Husserl. Ba là, chỉ ra guồn gốc duy lý của ý thức mà Trần Đức Thảo tiếp thu. Bốn là, phân tích bước chuyển biến tư tưởng của Trần Đức Thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------- BÙI VĂN CHUNG BƯỚC CHUYỂN TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TỪ HIỆN TƯỢNG HỌC SANG CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Hà Nội – 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------- BÙI VĂN CHUNG BƯỚC CHUYỂN TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TỪ HIỆN TƯỢNG HỌC SANG CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Văn Thắng Hà Nội – 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của Th.S Hoàng Văn Thắng. Là kết quả nghiên cứu trực tiếp một số tác phẩm của cố GS.Trần Đức Thảo và nguyên cứu của các học giả về tư tưởng Trần Đức Thảo. Các tài liệu nghiên cứu là trung thực, khách quan, có nguồn gốc rõ ràng. Giáo viên hướng dẫn Sinh viên Hoàng Văn Thắng Bùi Văn Chung LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Th.S Hoàng Văn Thắng, người đã hướng dẫn tận tình tôi hoàn thành nghiên cứu này. Tôi xin tri ân các thầy cô khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã đồng hành cùng tôi trong suốt 3 năm Đại Học. Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn đến các bạn bè và gia đình đã giúp đỡ tích cực trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Tôi xin dành tặng nghiên cứu khoa học này cho mẹ tôi, người đã hết lòng ủng hộ và tin tưởng tôi theo đuổi ngành triết học. Hà nội, ngày... tháng... năm 2018 Sinh viên Bùi Văn Chung MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................................................1 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ........................................................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................................................4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................................................4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................................................................5 6. Đóng góp của Khóa luận ........................................................................................................................5 7. Kết cấu của Khóa luận ...........................................................................................................................5 CHƯƠNG 1. TRẦN ĐỨC THẢO VỚI HIỆN TƯỢNG HỌC ....................................... 6 1.1. Đôi nét về thân thế và sự nghiệp Trần Đức Thảo................................................................................6 1.1.1. Bối cảnh lịch sử cho sự xuất hiện của tư tưởng Trần Đức Thảo ................... 6 1.1.2. Sự nghiệp của Trần Đức Thảo ........................................................................ 8 1.2. Trần Đức Thảo và Hiện tượng học Husserl ......................................................................................12 1.2.1. Nội dung Hiện tượng học Husserl ................................................................12 1.2.2. Những đánh giá của Trần Đức Thảo với Hiện tượng học Husserl ..............21 CHƯƠNG 2. TRẦN ĐỨC THẢO VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG ..... 27 2.1. Tiếp thu phép biện chứng của triết học tinh thần Hegel....................................................................27 2.1.1. Quan niệm về hữu thể tuyệt đối- cái tuyệt đối ..............................................29 2.1.2. Phê phán của Trần Đức Thảo và sự tha hóa của hữu thể tuyệt đối- cái tuyệt đố.............................................................................................................................35 2.2. Trần Đức Thảo tiếp và bản thể luận triết học duy vật .......................................................................38 2.2.1. Quan niệm của Trần Đức Thảo về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức .......38 2.2.2. Trần Đức Thảo tiếp thu chủ nghĩa duy vật biện chứng ................................46 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 61 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trần Đức Thảo là một nhà triết học, một người tri thức yêu nước, suốt đời tận tụy với khoa học. Con người ông, những tư tưởng của ông chính là minh chứng cho tầm vóc, trí tuệ con người Việt Nam dù ở trong bối cảnh khắc nghiệt nhất vẫn luôn giữ vững một ý trí vươn lên. Những năm tháng học tập và nghiên cứu ở Pháp từ 19361951, được đào tạo trong môi trường giáo dục bài bản và quy củ là trường cao đẳng phố d’Ulm- một trong những trường đào tạo học thuật có tiếng, Trần Đức Thảo đã chứng thực năng lực học thuật của mình trong lĩnh vực triết học cũng như nhiều lĩnh vực khoa học xã hội khác. Ông trở thành một con người có sức ảnh hưởng đến giới học thuật Pháp, được nhiều học giả nổi tiếng ở Pháp biết đến và đánh giá cao với tư duy độc đáo, sáng tạo. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như “Phương pháp hiện tượng luận Husserl”, “Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, “Tìm về cuội nguồn của ngôn ngữ và ý thức” ,.v.v. là một sự khẳng định cho khả năng và tầm vóc trí tuệ của ông. Những tác phẩm trên không chỉ là lời khẳng định, là tuyên ngôn cho lập trường tư tưởng vững vàng của Trần Đức Thảo, mà còn ẩn chứa những bước “chuyển mình” về tư tưởng đầy suy tư, trăn trở, đầy mẫu thuẫn, dằn vặt như con trai tạo ngọc. Nhà triết học dường như lặn sâu vào thế giới phản tư “tăm tối” của chính mình, tự đặt những câu hỏi lớn và tự tìm câu trả lời; độc hành, cô đơn và chấp nhận trả giá. Hành trình ấy đã đem lại giá trị và bài học quý giá cho các thế hệ học trò sau. Các tác phẩm của ông trở thành chủ đề hấp dẫn, lôi cuốn, có sức lay động mạnh mẽ tới nhiều thế học trò của chính ông, và của nhiều nhà nghiên cứu sau này. Trong nội dung về bước chuyển tư tưởng của Trần Đức Thảo, rất nhiều học giả đã đưa ra các luận giải khác nhau, việc xác định rõ ràng bước chuyển tư tưởng của ông là bước đầu đi vào thế giới triết học của ông. Tuy vậy việc xác lập một lập trường triết 2 học là cuộc chuyến biến tự thân mang dấu ấn phản tư mạnh mẽ hay đơn thuẩn chỉ là việc học thuộc những trang giáo trình khô cứng? Tiêu chí nào để xác định ai đó đã mang một lập trường triết học? Là sự dấn thân vào thực tiễn bất chấp phải trả giá hay vấn đề chỉ luôn dừng trong lĩnh vực lý thuyết hàn lâm và đó chính là một câu hỏi lớn trong bước chuyển tư tưởng của Trần Đức Thảo. Bản thân tôi luôn tự hỏi như vậy với một thái độ thành kính và mong muốn tìm kiếm câu trả lời xác định thông qua Triết học của ông. Chính vì vậy tôi chọn “Sự chuyển biến tư tưởng Trần Đức Thảo từ Hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Cuộc đời, sự nghiệp và các tác phẩm của cố GS. Trần Đức Thảo đã được rất nhiều học giả trong nước và quốc tế tìm hiểu, nguyên cứu trong đó có một số hội thảo lớn có ý nghĩa quan trọng nhằm làm sáng tỏ những góc khuất về cuộc đời, về sự nghiệp vẻ vang và cả tinh thần cống hiến cho khoa học, đất nước của cố GS.Trần Đức Thảo. Tại hội thảo khoa học quốc tế “Về tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức Thảo” tổ chức tại Đại học Sư phạm Hà Nội 2013, PGS.TS Nguyễn Văn Minh - Hiệu trưởng Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Trưởng ban chỉ đạo tổ chức Hội thảo nêu rõ: Hội thảo lần này được tổ chức tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là hoạt động thiết thực kỷ niệm 95 năm sinh và 20 năm ngày mất của Giáo sư Trần Đức Thảo, được sự ủng hộ của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hội thảo nhằm mục đích: Nghiên cứu, đánh giá những cống hiến của Giáo sư Trần Đức Thảo đối với đất nước, với khoa học Việt Nam và thế giới, đồng thời chỉ ra những giá trị của tư tưởng Trần Đức Thảo đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Hội thảo còn thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và hợp tác trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, tạo môi trường để các nhà khoa học trong nước, các giảng viên, học viên và nghiên cứu sinh khoa học xã hội - nhân văn tiếp xúc và giao lưu học thuật với các nhà nghiên cứu triết học nước ngoài. Một số bài viết nổi bật trong kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế 7/5/2013 về bước chuyển tư tưởng triết học 3 của Trần Đức Thảo: “Võ Văn Dũng, Từ hiện tượng học đến chủ nghĩa duy vật biện chứng trong tư tưởng Trần Đức Thảo, trang 257. Lê Duy Hoa, Trần Đức Thảo với tiến trình từ Hiện tượng học Husserl tới chủ nghĩa duy vật biện chứng Marx và Engel, trang 288. Nguyễn Thị Thường, Trần Đức Thảo Hành trình từ Hiện tượng luận đến chủ nghĩa duy vật biện chứng , trang 350,..” Năm 2017, kỉ niệm 100 năm ngày sinh cố GS. Trần Đức Thảo, Hội thảo quốc tế của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Gần 60 bài viết tham gia hội thảo tập trung làm rõ các chủ đề quan tâm chính của Trần Đức Thảo và một số vấn đề triết học được quan tâm ở Việt Nam trong nửa sau thế kỷ XX và những năm gần đây. Thứ nhất là Trần Đức Thảo đối chiếu hiện tượng học của Husserl với chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ đề lớn thứ hai ở Trần Đức Thảo bao gồm những công trình viết về sự chuyển hoá của phép biện chứng duy tâm Hegel thành phép biện chứng duy vật ở Mác, cùng vai trò của chủ nghĩa Mác trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Chủ đề thứ ba bao gồm những công trình nghiên cứu có thể được xếp vào chủ nghĩa duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo: ý thức, tư tưởng xuất hiện như thế nào trong cuộc tiến hoá vĩ đại của tự nhiên đi từ vật chất, qua sinh vật, lên nhân loại. Chủ đề thứ tư liên quan đến bản chất và sự hình thành con người, qua đó ông nêu lên quá trình tiến hóa của lịch sử loài người. Các bài viết nổi bật trong kỉ yếu hội thảo đề cập bước chuyển trong lập trường tư tưởng Trần Đức Thảo: “Trần Thị Điểu, từ Hiện tượng học Husserl đến hiện tượng học Trần Đức Thảo, trang 47. Nguyễn Thị Liên- Đoàn Thu Nguyệt, Trần Đức Thảo với sự vượt bỏ Hiện tượng học để đi đến chủ nghĩa duy vật biện chứng, trang 77. Nguyễn Thị Thường, Tư tưởng triết học Trần Đức Thảo trong dòng chảy hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa Marx, trang 94. Bùi Thị Tỉnh, Chủ nghĩa duy vật nhân bản- sáng tạo trong hành trình triết học của Trần Đức Thảo, trang 97....” Tuy các bài viết đã đề cập tương đối đến vấn đề “Bước chuyển tư tưởng của Trần Đức Thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng”, nhưng chưa thật sự khắc họa rõ nét bước chuyển ấy trong những tương quan khác nhau, hoặc mới 4 chỉ làm rõ bước chuyển ở một phương diện nhất định. Đồng thời, các bài viết cũng chưa giúp tác giả - mặc dù đang ở trình độ sinh viên tự tìm thấy những câu trả lời thỏa đáng mà mình đã đặt ra. Vì vậy, đó là mảng trống để người viết tiếp tục suy tư, bổ sung vào mảng đề tài này. Tuy các bài viết đã đề cập tương đối đến vấn đề bước chuyển tư tưởng của Trần Đức Thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng chưa thật sự khắc họa rõ nét bước chuyển ấy trong những tương quan khác nhau, hoặc mới chỉ làm rõ bước chuyển ở một phương diện nhất định. Đồng thời, các bài viết cũng chưa giúp tôi - mặc dù đang ở trình độ sinh viên tự tìm thấy những câu trả lời thỏa đáng mà mình đã đặt ra. Vì vậy, đó là mảng trống để người viết tiếp tục suy tư, bổ sung vào mảng đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ bước chuyển biến tư tưởng từ Hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả Khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau đây: • Một là, giới thiệu khái quát về thân thế và sự nghiệp sáng tác của Trần Đức Thảo. • Hai là, làm sáng tỏ những khái niệm nền tảng của Hiện tượng học Husserl. • Ba là, chỉ ra guồn gốc duy lý của ý thức mà Trần Đức Thảo tiếp thu. • Bốn là, phân tích bước chuyển biến tư tưởng của Trần Đức Thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Sự chuyển biến tư tưởng của Trần Đức Thảo từ lập trường Hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng. 5 - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu về tư tưởng triết học trong tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” bắt đầu viết năm 1947, xuất bản 1951 của cố GS. Trần Đức Thảo cũng như bước chuyển biến tư tưởng triết học của ông. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Để giải quyết nhiệm vụ trên, bài viết áp dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống nhất lôgic và lịch sử, phương pháp kết hợp diễn dịch và quy nạp, phương pháp so sánh, đối chiếu tài liệu, v.v... 6. Đóng góp của Khóa luận Kết quả nghiên cứu này góp phần làm rõ ràng hơn bước chuyển trong tư tưởng Trần Đức Thảo từ hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bài viết có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những ai cùng quan tâm về chủ đề này. 7. Kết cấu của Khóa luận Để thực hiện được tốt mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Khóa luận tốt nghiệp này gồm 2 chương, 4 tiết. 6 CHƯƠNG 1. TRẦN ĐỨC THẢO VỚI HIỆN TƯỢNG HỌC 1.1. Đôi nét về thân thế và sự nghiệp Trần Đức Thảo 1.1.1. Bối cảnh lịch sử cho sự xuất hiện của tư tưởng Trần Đức Thảo Sự phát triển với tốc độ chưa từng thấy của tiến bộ-khoa học kỹ thuật của thời cận-hiện đại làm quyền lực của bộ máy nhà nước ngày càng được tăng lên- kéo theo sự xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan như là căn bệnh của thời đại. Cùng với đó sự xuất hiện của con người đại chúng như hệ quả của văn hóa xã hội tư sản và sự khủng hoảng kinh tế của xã hội tư bản làm bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Xã hội phương tây hiện đại, đặt ra hàng loạt vấn đề thách thức với con người, đó là hoàn toàn là điều không thể làm ngơ. Con người ta giường như không còn có thời gian suy nghĩ cho bản thân mình mà bị cuốn vào vòng xoáy thị phi và dối trá của xã hội. Xã hội phương tây hiện đại đẩy con người vào vòng xoáy của các sự kiện mà mục đích, ý nghĩa, của nó luôn luôn mập mờ. Nhiệm vụ của khoa học nói chung và triết học phương tây hiện đại nói riêng là phải tìm mọi cách để có thể thấu hiểu toàn bộ sự phức tạp đó và điều chỉnh nó. Tuy vậy khoa học và triết học phương tây hiện đại không những không thể làm sáng tỏ những nguyên nhân đứng đằng sau các sự kiện xã hội đáng báo động đó, mà ngược lại trở thành một phần của sự hỗn độn đó, và vô hình chung trở thành công cụ của truyền thông nhằm khai thác những ý đồ chính trị hèn kém. Chính ngôn ngữ do phương tiện truyền thông đại chúng đã nồi nhét vào ý thức con người, nó đã xuyên tạc các quy tắc đúng đắn, làm ngơ trước thế giới tinh thần phức tạp, biến con người trở thành phương tiễn lĩnh hội và thực hiện chân lý tối hậu. Trần Đức Thảo đã đến với Triết học vào thời kỳ rất khó khăn. Trong thời đại của mình, ông đã chứng kiến sự tha hóa tinh thần của con người Phương tây hiện đại, mà cuội nguồn sâu xa của mọi vấn đề chủ yếu bắt nguồn trong chính bản thân con người, trong cái thế giới bên trong mỗi con người. Chính các vấn đề bản thân mỗi cá nhân, làm cho họ đau khổ và ngược lại chúng ta mất đi sự kiểm soát với những suy nghĩ nhỏ nhen của mình, cũng khiến cho chúng ta khó có thể giải quyết các vấn đề bên 7 ngoài. Ngoài ra sự thiếu hiểu biết lẫn nhau, làm cho xung đột ngôn ngữ càng trở lên gay gắt, dẫn đến những tổn thương về mặt tinh thần cho cả hai phía. Như vậy, động cơ mà Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa duy vật biện chứng, là làm sao tẩy rửa “ý thức” khỏi những lớp “mặt lạ” che đậy, những bình diện làm cho nó nhạt đi, rắc rối, khó hiểu. Như vậy Trần Đức Thảo đã thừa hưởng cả không khí khủng hoảng của xã hội Phương tây, lẫn giấc mơ cải tạo thế giới bằng lý trí của họ. Cũng có thể khẳng định rằng, cho đến lúc này, Trần Đức Thảo là người Việt Nam hiếm hoi có tư tưởng triết học gắn với tên tuổi của mình và hiện vẫn đang được nhiều học giả trong và ngoài nước tìm hiểu, nghiên cứu. Ông cũng là một nhà triết học Việt Nam đã có những suy tư “riêng” của mình và một thời, “ảnh hưởng” trực tiếp đến nền tảng tư duy lý luận nước nhà. Nhưng cũng phải nói rằng, sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính những khủng hảng trong lòng xã hội châu âu, đặc biệt là ở nước Pháp, khiến họ muốn khôi phục và củng cố địa vị cường quốc của mình, trong đó quan trọng nhất là việc tái chiếm lại các thuộc địa đã mất bị rơi vào phe phát xít trước đó, mà mục tiêu hàng đầu là các nước Đông Dương - một khu vực thuộc địa giàu có và có vị chiến lược quan trọng. Hành động đó của Pháp đi ngược lại mong muốn hòa bình, độc lập dân tộc Việt Nam. Pháp đã sử dụng những biện pháp, đường lối quân sự để tái chiếm lại thuộc địa, gây tổn hại đến nền độc lập của Việt nam, khiến cho mối quan hệ Pháp-Việt trở lên căng thẳng và đi đến bờ vực của cuộc chiến tranh. Nhằm cứu vớt nền hòa bình mong manh, chính phủ Việt nam dân chủ cộng hòa đã có những hành động ngoại giao, mà cụ thể và quan trọng nhất là việc Đoàn đại biểu quốc hội Việt nam sang thăm Pháp do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu từ 25-4 đến 16-5 năm 1946 và 31-5-1946 chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp máy bay từ Hà Nội sang Pháp. Sự đấu tranh của những người cộng sản vì nền độc lập của dân tộc và uy tín, tầm ảnh hưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn tới Việt kiều và sinh viên đang du học ở Pháp lúc bấy giờ trong đó có Trần Đức Thảo. Linh mục Cao văn Luận đã viết trong hồi ký của mình: “Từ đây sự chia rẽ vì chính kiến, chủ nghĩa bắt đầu trở nên trầm trọng và lộ liễu trong hàng ngũ Việt kiều, sinh 8 viên ở Pháp. Trần Đức Thảo ít tới lui với anh em, và hình như đã thiên hẳn sang phía cộng sản không biết từ lúc nào”. Đến năm 1952 mang theo tinh thần yêu nước, ông trở về chiến khu việt bắc tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và giành cả cuộc đời sau này lao động, cống hiến cho nền triết học Việt Nam cũng như đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho triết học thế giới. Cuộc đời của ông đã gắn liền cả một giai đoạn hào hùng của dân tộc Việt Nam và đầy biến động của lịch sử thế giới. Năm 1951, Trần Đức Thảo xuất bản “Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, khẳng định bước chuyển lập trường tư tưởng từ Hiện tượng học Husserl sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác. 1.1.2. Sự nghiệp của Trần Đức Thảo Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình viên chức nhỏ. Cho đến nay, ông là một trong những người Việt Nam được các nhà nghiên cứu trong, ngoài nước biết đến trên diễn đàn khoa học và được công nhận có tầm vóc quốc tế ở phương Tây. Nếu tính cả quãng thời gian tu nghiệp tại Pháp (vào cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước) và những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp, được in tại Pháp của ông, thì “Trần Đức Thảo còn là một triết gia Pháp”1. Ông là người Việt Nam hiếm hoi, ở thế hệ của mình, có con đường học vấn Triết học thực thụ. Trần Đức Thảo là một nhà triết học trầm lặng, ít phô danh, sự vinh danh ông đến từ bên ngoài. Trần Đức Thảo vốn là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert Sarraut (Hà Nội), từng đạt giải Nhì cuộc thi Triết học các trường trung học toàn quốc Pháp. Năm 1935, sau khi đỗ xuất sắc tú tài, ông theo học Trường Luật Hà Nội. Năm 1936, ông được gửi sang Pháp chuẩn bị thi vào Trường cao đẳng sư phạm phố d' Ulm (Thủ đô Paris) - một trường nổi tiếng ở Pháp về truyền thống tư tưởng tân tiến, văn hoá và khoa học hiện đại. Trường cũng nổi tiếng là cái nôi đào tạo những nhà tư tưởng và những chính khách cho nước Pháp. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi đỗ vào trường 1 Thierry Marchaisse - Cựu sinh viên sư phạm Cao cấp phố d’Ulm, hiện là giám đốc nhà xuất bản mang tên ông từ năm 2011, trong thời gian gặp gỡ Trần Đức Thảo , ông làm việc ở Nxb Editions du seuil, Paris. 9 này với số điểm cao. Đến năm 1945, ông tốt nghiệp thủ khoa, nhận học vị thạc sĩ triết học qua luận án “Phương pháp hiện tượng luận của Husserl”. Hoà bình lập lại trên miền Bắc năm 1954, ông được cử làm Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, giảng dạy môn Lịch sử triết học ở Trường Đại học tổng hợp Hà Nội (1956-1957). Những bài giảng của ông về Lịch sử triết học sau này đã được các cựu sinh viên như Nguyễn Hoàng Gia biên tập lại và xuất bản thành sách “Lịch sử tư tưởng trước Mác”, (NXB KHXH, 1995). Sau đó, Trần Đức Thảo thôi giảng dạy ở trường đại học, ông dành nhiều thời gian nghiên cứu các tác phẩm kinh điển Mác - Lênin, làm chuyên viên Nhà xuất bản Sự thật. Trần Đức Thảo là một nhà khoa học, tư tưởng của ông trải rộng đến rất nhiều vấn đề từ Triết học, Lịch sử triết học, đến Sử học, Nhân học, Sinh học, Ngôn ngữ học, Văn học và Tôn giáo học… Tuy nhiên, chủ đề mà ông quan tâm hơn cả cũng lại là những nội dung rất căn cốt đó là triết học, lịch sử triết học cùng những đề tài nhân sinh liên quan trực tiếp đến số phận và hoạt động của con người, của xã hội…, vốn là những nội dung mà không một nghiên cứu triết học cơ bản nào có thể lảng tránh. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, tôi chỉ đề cập đến những chuyển biến về mặt triết học “hành trình của Trần Đức Thảo từ Hiện tượng luận Husserl sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng”, qua tác phẩm chính “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” và các bài viết về ông, chứ không đi sâu vào toàn bộ các tác phẩm mà Trần Đức Thảo nghiên cứu. Cũng phải nói rằng, sống trong lòng chiến tranh thế giới thứ hai tại Pháp từ 1936-1952, trước hoàn cảnh của những tù binh Việt Nam và bối cảnh cách mạng trong nước 1939-1945, hội sinh viên tại Pháp trong đó có Trần Đức Thảo đã sáng lập “Hội liên hiệp những người Đông Dương tại Pháp” nhằm kêu gọi chính quyền bảo hộ Pháp phải trao trả nền độc lập cho Việt Nam. Năm 1945, khi quân đồng minh giành chiến 10 thắng, các lãnh tụ và cả Trần Đức Thảo bị bắt giam 3 tháng2. Có thể nói rằng vận mệnh dân tộc và sự cố chấp của thực dân Pháp đã làm cho Trần Đức Thảo có những chuyển biến về mặt tư tưởng và hướng về những người cộng sản. Chính điều này có thể đã khiến Trần Đức Thảo có Thái độ bênh vực chủ nghĩa duy vật trong cuộc tranh luận giữa Trần Đức Thảo và Jean-Paul Sartre3. Trong khi chấp nhận quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác, Sartre công kích quan điểm chính trị và văn hoá của nó biểu hiện ở Liên Xô. Cuộc tranh luận này không có hồi kết vì Trần Đức Thảo bị thu hút bởi các biến cố trong nước, nhưng theo lời của chính Simone de Beauvoir, nữ triết gia và vợ của Sartre trong “Hồi ký” thì phần đúng là thiên về ông Thảo. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác, Trần Đức Thảo được đào tạo chính quy tại trường cao đẳng sư phạm phố d’Ulm nổi tiếng ở Paris nên ông có cơ hội hoạt động trong một môi trường trí thức tinh hoa Pháp và có liên hệ gần gũi với nhiều Triết gia có ảnh hưởng lớn trong sinh hoạt triết học nửa sau thế kỷ XX như Jean-Paul Sartre, Merleau-Ponty, Alexandre Kojève, Louis Althusser, Jacques Derrida… Đó là những tư tưởng gia hàng đầu của trào lưu hiện tượng học, của chủ nghĩa hiện sinh. Đồng thời, những phát kiến và tư tưởng của ông đều được họ công nhận và đánh giá cao như là “những cống hiến độc đáo cho các lĩnh vực Triết học, Nhân chủng học, Ngôn ngữ học” (Daniel J. Herman). Trần Đức Thảo thành nhà Hiện tượng học nổi danh với tư duy đặc sắc có khả năng soi chiếu tỉnh táo các vấn đề hóc búa của triết học. Từ khi trở thành 2 Linh Mục Cao Văn Luận- Bên giòng lịch sử“Chính phủ Pháp lập tức bắt giam một số lãnh tụ sinh viên đồng thời cũng là lãnh tụ hội Liên Hiệp những người Đông Dương tại Pháp như các anh Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Mãn, Hoàng Xuân Nhị, Phạm Huy Thông. Nếu không phải là tu sĩ, được sự che chở của tòa Tổng Giám mục Ba-Lê chắc chắn tôi đã không thoát khỏi tù tội. Những sinh viên bắt giam tại khám đường La Santé, nơi đã từng giam giữ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh ngày trước”. 3 Jean-Paul Charles Aymard Sartre ( 21 tháng 6 năm 1905 – 15 tháng 4 năm 1980) là nhà triết học hiện sinh, nhà soạn kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp. Ông là một trong những nhân vật nòng cốt trong hệ thống triết học của chủ nghĩa hiện sinh, và một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ 20 . 11 nhà triết học theo khuynh hướng duy vật Mác đến khi về cõi vĩnh hằng vào ngày 24/4/1993, thời gian cách nhau trên 40 năm, ông đã dành toàn bộ thời gian đó để hiện thực hóa phương pháp luận Mác-xít, làm cho Triết học gắn chặt với đời sống, bám chặt lấy số phận, vận mệnh con người dân tộc mình. Trần Đức Thảo có niềm tin sâu sắc rằng “Phép biện chứng duy vật” của Mác không phải là một lý thuyết giáo điều, mà là ngọn đuốc thực tiễn, một lý luận để “nuôi dưỡng” lý trí và dẫn đường cho cuộc cách mạng vô sản. Với nghĩa đó, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định, có một triết lý mang tên Trần Đức Thảo và càng có “tư duy và phong cách Trần Đức Thảo” - một đóng góp lớn của trí tuệ Việt Nam cho nhân loại. Đóng góp lâu dài của Trần Đức Thảo cho học thuật là một tư duy triết học thuần khiết. Điều này trước hết thể hiện ở một năng lực trừu tượng hoá cao, kế đó là khả năng biết đặt và giải quyết các vấn đề triết học dưới ánh sáng của những phát kiến khoa học mới bằng các phương pháp nghiên cứu liên ngành. Trong hơn 25 năm, kể từ ngày cố GS. Trần Đức Thảo trở về với Đất mẹ, ông luôn là một tấm gương sáng, suốt đời cấu hiến vì khoa học, gắn với những giá trị đích thực của cuộc đời đầy sóng gió, nước mắt và “lương tâm” không ngừng suy tư của mình. Cuộc đời, sự nghiệp của Trần Đức thảo gắn liền với những giai đoạn khó khăn của lịch sử thế kỉ XX. Cùng với bước chuyển biến lập trường tư tưởng của mình, cố GS.Trần Đức Thảo để lại cho chúng ta một tư duy triết học mang đậm giấu ấn của ông, một tinh thần yêu nước nồng nàn, một trái tim tràn đầy nhiệt huyết với khoa học và hơn thế nữa là một ý chí vượt lên số mệnh để sống, để cống hiến. Cố GS. Trần Đức Thảo gửi gắm hai bài học lớn đến thế hệ chúng ta, đó là bài học về phương pháp tư duy và không không kém phần quan trọng, là bài học về nhân cách người trí thức Việt Nam, cũng chính là bài học làm người. 12 1.2. Trần Đức Thảo và Hiện tượng học Husserl Trong suốt cuộc đời nghiên cứu của mình, Trần Đức Thảo được đông đảo học giả biết đến với những công trình nghiên cứu liên quan đến Hiện tượng học, Phương pháp Hiện tượng học, cũng như lịch sử triết học. Vì thế, khi bàn đến triết học Trần Đức Thảo, chúng ta không thể bỏ qua những nội dung cốt lõi của Hiện tượng học. 1.2.1. Nội dung Hiện tượng học Husserl Hiện tượng học, tức phénoménnologie là khoa học về các hiện tượng, nó gồm hai thành tố là phainomenon và logos. Phainomenon có nghĩa là cái bày tỏ mình ra, cái tự bày tỏ, cái khai mở. Vì vậy hiện tượng được hiểu là cái tự bày tỏ mình trong chính nó, là cái khai mở. Nghĩa thứ hai của Phainomenon là dáng vẻ hay có thể gọi là biến dạng khiếm khuyết của hiện tượng (chủ nghĩa hiện sinh sử dụng-cái hiện sinh). Logos ám chỉ lời nói, ngôn từ, ngôn thuyết và sau cùng logic, nó có chức năng dùng để thể hiện cái gì đó trong lời nói. Logos có một tầm hạn nghĩa rộng dùng để ám chỉ cái gì làm cho ta thấy sự vật, làm sáng tỏ sự vật, thì đều có thể gọi là Logos. Tóm lại Hiện tượng học là học thuyết về hiện tượng, tức tìm chân lý trong cái tự tỏ mình ra, tức là quay trở về với chính bản chất của sự vật, thông qua các hiện tượng. Chính vì vậy, trong quan niệm của Husserl, triết học cũng như các khoa học khác không phải là những thứ xa vời với đời sống tinh thần của mỗi cá nhân hay là một cái gì đó dị biệt, đánh mất những giá trị cốt lõi của con người. Do vậy, ông chủ trương xây dựng một thứ triết học và phương pháp triết học nhằm đưa con người trở về với bản chất chân thực trong nhận thức, trong hành vi ý thức, trong việc hình thành thế giới sống của chính mình. Nội dung cơ bản của hiện tượng học Husserl có thể hiểu là “mỗi chúng ta bị bao bọc bởi các nguyên lý, đây là cái làm nên điều khác biệt của chúng ta, lược bỏ toàn bộ những nguyên lý chúng ta trở về cái bản chất loài, thông qua việc phân tích ý thức cá nhân hiện thực: từ đó hướng tới nhận thức tâm lý. Hiện tượng học không đồng nhất với hiện thực khách quan trong giới tự nhiên và xã hội như chủ nghĩa Mác đề cập, mà là “hiện tượng ý thức” hay hoạt động tinh thần, chúng ta mổ xẻ ý thức của mỗi cá 13 nhân, trong đó có cái quy luật mang tính phổ quát trong mỗi người chúng ta”4. Hiện tượng học cũng biểu hiện như là phương pháp nhằm mô tả, tường minh, tức là những sự vật xuất hiện trực tiếp với chủ thể như thế nào thì mô tả như thế ấy. Nó không truy tìm nguyên nhân, hay đưa ra những giả thuyết, mà nó chỉ mô tả đúng cái kinh nghiệm sống trong “cuộc gặp gỡ- cảm nghiệm” đầu tiên giữa chủ thế với thế giới. Cũng theo đó, hiện tượng học là trào lưu triết học muốn xóa bỏ bản thể luận triết học, coi thế giới là thứ đã có sẵn, từ đó đòi hỏi triết học quay trở lại tìm hiểu cái cơ sở đầu tiên của sự hiện hữu, tức là đối tượng của hiện tượng từ đây là cái bản chất, chứ không phải là giới tự nhiên. Ở đây tôi đề cập đến một số khái niệm cơ bản của Hiện tượng học Husserl để làm nổi bật nội dung triết học của nó. Đầu tiên là khái niệm “Tính ý hướng”, một khái niệm trung tâm làm nên học thuyết Hiện tượng học. “Tính ý hướng” tiếng La tinh là intentino, có nghĩa là hướng tới, khái niệm của một loạt các học thuyết triết học, được sử dụng để ghi nhận tính đặc thù của ý thức con người thể hiện sự định hướng của nó vào một đối tượng nào đó, ở sự quy định một cách lý tưởng ở trong tư duy, qua đó đối tượng trở thành đối tượng lý tưởng. Tính ý hướng có thể hiểu là phương thức vận động của tinh thần, hay công cụ thực tại hóa các tiềm năng của trí tuệ nhờ nắm bắt khách thể bằng ý thức. Tính ý hướng là một đặc trưng của ý thức. Bằng việc tiếp thu quan niệm “Tính ý hướng” của Brentano5, Hiện tượng học của Husserl bắt đầu với ý tưởng cho rằng, mọi hành vi ý 4 Nguyễn Vũ Hảo( là một nhà triết học Việt Nam): “Cái tôi tiên nghiệm là cái đạt được sau khi chúng ta làm phương pháp quy giảm hiện tượng học, bóc tách dần những nguyên tắc, thành kiến, đã làm cho các quan điểm khác nhau, kết quả cuối cùng đó là cái tôi tiên nghiệm. Nó xuất hiện ở giai đoạn cuối nhận thức, là suy tư của bản thân. Cái tôi mang cho mình ý nghĩa về thế giới hiện có và tiền đề tất yếu đó là cái tôi tiên nghiệm và là nền tảng của hiện tượng học, cái tôi tiên nghiệm chủ quan là sự thống nhất của những trải nghiệm thuần túy...” 5 Franz Clemens Honoratus Hermann Brentano (16 tháng 1, 1838 – 17 tháng 3 năm 1917) là một triết gia, nhà tâm lý học và tu sĩ người Đức. Những tác phẩm của ông ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đối với những học trò của ông như Sigmund Freud, Kazimierz Twardowski, Alexius Meinong, Carl Stumpf, Anton Marty, Christian von Ehrenfels, và Tomáš Masaryk (cũng như học trò của Masaryk là Edmund Husserl), mà còn đối với nhiều tác phẩm của những người khác cũng nối gót và sử dụng những ý tưởng và khái niệm ban đầu của ông.. 14 thức của con người đều có một đối tượng để hướng tới. Tính “ý hướng” đã trở thành chủ đề trọng tâm trong hiện tượng học của Husserl. Tư tưởng về tính ý hướng này được kế thừa từ Brentano, người đã cho rằng, tính ý hướng là nét đặc biệt của kinh nghiệm nhằm ý thức về một cái gì đó. Như vậy “tính ý hướng” theo Husserl xuất hiện, trong đó cảm nghiệm(kinh nghiệm sống) ý hướng và đối tượng ý hướng không phải là hai sự vật khác nhau, mà là một cái thống nhất. Khác với tâm lý học, hiện tượng không phân tích những phương diện kinh nghiệm hiện thực, mà phân tích các phương diện lý tưởng, tức là ý hướng của cảm nghiệm. (Ví dụ: Trong tâm lý có liệu pháp chữa trị cho các bệnh nhân tâm thần do sang trấn tâm lý, bằng cách dẫn dắt người bệnh hồi tưởng những hình ảnh kinh nghiệm của quá khứ hoặc tìm hiểu cuộc sống của bệnh nhân, từ đó biết được những nguyên nhân gây lên những sang chấn tấm lý, rõ dàng hiện thực mà bệnh nhân, hay người thân thuật lại cũng chỉ là những dữ kiện kinh nghiệm sống và phần lớn đã có sự quên, vì vậy mà có những bệnh nhân, bác sĩ không thể chuẩn hóa, nguyên nhân, lên phải sử dụng rất nhiều liệu pháp...) Tiến hành phân tích hành vi ý hướng, ông phân biệt; Đối tượng ý hướng, vật chất ý hướng, và bản chất ý hướng. Ông phân biệt chất lượng ý hướng với vật chất ý hướng: Hành vi có thể là hành vi tri giác, biểu tượng, phán đoán, đánh giá,..v..v..Vật chất đặc trưng cho định hướng của hành vi vào một đối tượng nào đó, vào cái mà người ta tri giác, biểu tượng, phán đoán,..Chất lượng và vật chất trong sự thống nhất của chúng cấu thành bản chất ý hướng hành vi. Husserl xóa bỏ ranh giới giữa biểu tượng và vật, biến tất cả những gì hiện có đối với ý thức thành nội dung, tức thành cái gì đó trung hòa, không có liên quan đến cái gì trên thực tế, đó chính là nguyên tắc xuất phát của tâm thế hiện tượng học chín mười. Bằng việc khước từ các những tiền đề siêu hình học trong nghiên cứu và tìm kiếm bản nguyên tuyệt đối của tri thức, chính vì vậy ông xác định triết học là “tâm lý học miêu tả”-logic học về mặt tâm lý. Đến đây tư duy Husserl lại trở về với triết học tiên nghiệm Kant. Tính ý hướng không chỉ đơn giản là sự định hướng của ý thức về phía các sự vật tồn tại bên ngoài, mà còn có nghĩa là, ý thức hay “ý thể” “tạo dựng” nên các sự vật. Tính ý hướng 15 bao gồm: Hành vi ý hướng (Noesis- (thắp sáng "sự hiểu biết", "trí tuệ") là một từ tiếng Hy Lạp đề cập đến nhận thức của tâm trí, trong triết học nó là một thuật ngữ triết học cổ điển, đôi khi tương đương với trí tuệ hay trí thông minh “Nous6” ). Xét về thực chất của mình, nó chính là sự “thống nhất giữa chủ thể và các kinh nghiệm sống, là một nội dung hồi tưởng nào đó mang tính hiện tại hóa. Hay đúng hơn là sự thống nhất giữa các cảm xúc và kinh nghiệm sống. Khi phân tích Noesis sẽ làm xuất hiện nội dung đối tượng có tính ý hướng và Noesis khẳng định ý thức thật sự giả định một cái gì đó, tồn tại một nội dung đối tượng nào đó. Nội dung ý hướng (Noema-xuất phát từ chữ Hy Lạp “νόημα” có nghĩa là "suy nghĩ") là khái niệm cho phép xem xét cụ thể hơn nội dung đối tượng. Noema là nội dung độc đáo, vốn có của ý thức, bất kì ý thức nào cũng có cái “gì đó” của mình giả định, tức là sự “hoài nghi phổ biến”, tưởng tượng, tức là “có nội dung đối tượng của mình”. Theo Husserl, điều này có nghĩa rằng, ý thức có nội dung hay có nghĩa(Noema). Không nên lẫn lộn nghĩa(Noema) với nội dung đối tượng hiện thực được hiểu theo nghĩa tâm lý học. Theo Husserl, Noema, tức nội dung đối tượng của ý thức, có thể là các sự vật, tha nhân, đặc điểm tâm lý, trực giác, trạng thái tâm lý,.v.v.. Với tư cách Noema(nội dung), đối tượng ý hướng là một điểm thống nhất độc đáo của ý thức, là tác nhân của vô số nội dung đối tượng và gọi chung là “tính chủ quan”. Trong đó Hành vi ý hướng(Noesis) là hành vi mà ở đó, chúng ta xác định Nội dung ý hướng(Noema) để tiến tới “dựng” nên khách thể (sự vật); nói một cách dễ hiểu, nó là ý nghĩa được tạo ra trong hành vi hướng tới một khách thể của chủ thể; Nội dung ý hướng là sự tổng hợp những đặc điểm mà cái tôi thuần túy của chúng ta có được về sự 6 Nous là sự hiểu biết, trí tuệ hoặc nhận thức cho phép con người suy nghĩ hợp lý. Đối với Aristotle, điều này khác với việc nhận thức bằng các giác quan-kinh nghiệm, nó bao gồm cả việc sử dụng trí tưởng tượng và trí nhớ, kết nối những người tham gia thảo luận có thể thiết lập các định nghĩa một cách nhất quán và có thể giao tiếp, chính vì vậy mọi người đều được sinh ra với một số tiềm năng bẩm sinh để hiểu cùng một loại phổ quát theo cùng một cách logic. Trong triết học, các bản dịch tiếng Anh thông dụng bao gồm "hiểu biết" và "tâm trí"; hoặc đôi khi " suy nghĩ " hoặc " lý do " (theo ý nghĩa của lý do đó, không phải là hoạt động của lý luận).
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan