BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------------
NGUYỄN ĐOÀN THẾ VINH
BỒI DƯỠNG TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG KHI DẠY HỌC
GIẢI BÀI TẬP HÌNH HỌC KHÔNG GIAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGHỆ AN – 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN ĐOÀN THẾ VINH
BỒI DƯỠNG TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG KHI DẠY HỌC
GIẢI BÀI TẬP HÌNH HỌC KHÔNG GIAN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN TOÁN
Mã số: 60.14.10
Người hướng dẫn khoa học:
GVCC, TS. LÊ HIỂN DƯƠNG
NGHỆ AN – 2013
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho
phép được sử dụng và chưa được công bố trên bất kì một công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Đoàn Thế Vinh
4
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại khoa Toán, trường Đại học Vinh.
Đầu tiên, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc
đến TS. Lê Hiển Dương, người đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành gởi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm Khoa Toán –
Trường Đại học Vinh, Phòng tổ chức cán bộ – Trường Đại học Sài Gòn và
quý thầy cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, xin gởi lời cảm ơn đến nhóm cao học Toán khóa 19 – ĐH
Sài Gòn, các đồng nghiệp, bạn bè, gia đình và người thân luôn động viên và
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Nghệ An, tháng 8 năm 2013
5
Những từ viết tắt trong luận văn
Viết tắt
Viết đầy đủ
GQVĐ
Giải quyết vấn đề
GV
Giáo viên
HHKG
Hình học không gian
HĐ
Hoạt động
HS
Học sinh
HĐHT
Hoạt động học tập
KQHT
Kết quả học tập
KTDH
Kỹ thuật dạy học
LT
Liên tưởng
MTDH
Mục tiêu dạy học
NDDH
Nội dung dạy học
NVHT
Nhiệm vụ học tập
PPDH
Phương pháp dạy học
QTDH
Quá trình dạy học
SGK
Sách giáo khoa
TD
Tư duy
THPT
Trung học phổ thông
TTPP
Tri thức phương pháp
6
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
8
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
9
3. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
9
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
9
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
10
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
10
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
11
1.1. Khái niệm tư duy, tư duy sáng tạo, tư duy sáng tạo trong
dạy học Hình học không gian
1.1.1. Tư duy
11
1.1.2. Sáng tạo
14
1.1.3. Tư duy sáng tạo
18
1.1.4. Năng lực tư duy sáng tạo
24
1.1.5. Một số điều kiện phát triển và bồi dưỡng tư duy sáng tạo 34
1.2. Mục đích dạy học bài tập hình học không gian ở phổ thông 35
1.3. Nội dung bài tập hình học không gian ở phổ thông
36
1.4. Đặc điểm, chức năng của bài tập hình học không gian ở
38
phổ thông và khả năng bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo
cho học sinh
1.5. Đánh giá chung về thực trạng
39
1.6. Khả năng rèn luyện và phát triển năng lực tư duy sáng tạo
cho học sinh phổ thông qua dạy học
41
Kết luận chương 1
45
CHƯƠNG 2. CÁC BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG TƯ DUY SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH KHI DẠY HỌC HÌNH HỌC KHÔNG GIAN
2.1. Những căn cứ
46
46
7
2.2. Các biện pháp
46
2.2.1. Biện pháp 1
46
2.2.2. Biện pháp 2
66
2.2.3. Biện pháp 3
73
2.2.4. Biện pháp 4
87
2.2.5. Biện pháp 5
95
2.2.6. Biện pháp 6
111
2.2.7. Biện pháp 7
122
Kết luận chương 2
CHƯƠNG III.
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
130
132
KẾT LUẬN
135
Tài liệu tham khảo
136
8
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay ngành giáo dục nước ta đang có phong trào đổi mới mạnh mẽ
PPGD mỗi giáo viên đều kết hợp nhiều PPDH, nhằm mục đích đào tạo ra con
người năng động sáng tạo phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước.
Toán học có liên quan chặt chẽ với thực tế và có ứng dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học, công nghệ, sản xuất và đời sống
xã hội hiện đại, nó thúc đẩy mạnh mẽ các quá trình tự động hoá sản xuất, trở
thành công cụ thiết yếu cho mọi ngành khoa học và được coi là chìa khoá của
sự phát triển.
Xuất phát từ những yêu cầu xã hội đối với sự phát triển nhân cách của
thế hệ trẻ, từ những đặc điểm của nội dung mới và từ bản chất của quá trình
học tập buộc chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng bồi
dưỡng tư duy sáng tạo cho học sinh.
Việc học tập tự giác tích cực, chủ động và sáng tạo đòi hỏi học sinh
phải có ý thức về những mục tiêu đặt ra và tạo được động lực trong thúc đẩy
bản thân họ tư duy để đạt được mục tiêu đó.
Trong việc rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ở trường phổ thông,
môn Toán đóng vai trò rất quan trọng. Bởi vì, Toán học có một vai trò to lớn
trong sự phát triển của các ngành khoa học và kỹ thuật; Toán học có liên quan
chặt chẽ và có ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa
học, công nghệ, sản xuất và đời sống xã hội hiện đại; Toán học còn là một
công cụ để học tập và nghiên cứu các môn học khác.
Vấn đề bồi dưỡng tư duy sáng tạo cho học sinh đã được nhiều tác giả
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Với tác phẩm "Sáng tạo toán học"
nổi tiếng, nhà toán học kiêm tâm lý học G.Polya đã nghiên cứu bản chất của
quá trình giải toán, quá trình sáng tạo toán học. Đồng thời trong tác phẩm
"Tâm lý năng lực toán học của học sinh", Krutecxiki đã nghiên cứu cấu trúc
năng lực toán học của học sinh. Ở nước ta, các tác giả Hoàng Chúng, Nguyễn
9
Cảnh Toàn, Phạm Văn Hoàn, Nguyễn Bá Kim, Vũ Dương Thụy, Tôn Thân,
Phạm Gia Đức,… đã có nhiều công trình giải quyết những vấn đề về lý luận
và thực tiễn việc phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
Như vậy, việc bồi dưỡng và phát triển tư duy sáng tạo trong hoạt động
dạy học toán được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, việc bồi
dưỡng tư duy sáng tạo thông qua dạy học giải bài tập hình học không gian ở
trường THPT thì các tác giả chưa khai thác và đi sâu vào nghiên cứu cụ thể.
Vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu của luận văn này là: "Bồi dưỡng tư duy
sáng tạo cho học sinh THPT thông qua dạy học giải bài tập hình học
không gian”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của luận văn này là nghiên cứu và đề xuất một số cách thức
tương tác giữa giáo viên và học sinh qua dạy học giải bài tập hình học không
gian nhằm bồi dưỡng yếu tố tư duy sáng tạo cho học sinh.
3. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu thực hiện được những cách thức tương tác giữa thầy và trò khi dạy
học giải bài tập hình học không gian theo định hướng bồi dưỡng tư duy sáng
tạo cho học sinh thì có thể góp phần nâng cao chất lượng dạy học hình học
không gian nói riêng, dạy học toán ở trường trung học phổ thông nói chung.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1- Làm sáng tỏ khái niệm tư duy, tư duy sáng tạo.
4.2- Nghiên cứu thực trạng dạy học giải bài tập hình học không gian
lớp 11 ở các trường THPT huyện Mộc Hóa.
4.3- Xác định các cách thức tương tác hợp lý giữa giáo viên và học sinh
khi dạy học giải bài tập hình học không gian lớp 11 nhằm bồi dưỡng tư duy
sáng tạo cho học sinh.
4.4- Xây dựng và khai thác hệ thống bài tập hình học không gian phù
hợp với sự phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
10
4.5- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính khả thi, tính
hiện thực, tính hiệu quả của đề tài.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1- Nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các tài liệu về giáo dục học môn toán, tâm lý học, lý luận
dạy học môn toán.
- Các sách báo, các bài viết về khoa học toán phục vụ cho đề tài.
- Các công trình nghiên cứu có các vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài.
5.2. Quan sát
- Dự giờ, quan sát việc dạy học của giáo viên và việc học của học sinh
trong quá trình khai thác các bài tập sách giáo khoa.
5.3. Thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm sư phạm với lớp học thực nghiệm và lớp học
đối chứng trên cùng một lớp đối tượng.
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHƯƠNG II. CÁC BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG TƯ DUY SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH KHI DẠY HỌC HÌNH HỌC KHÔNG GIAN
CHƯƠNG III.
KẾT LUẬN
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
11
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái niệm tư duy, tư duy sáng tạo, tư duy sáng tạo trong dạy học
Hình học không gian
1.1.1. Tư duy
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông: “Tư duy là giai đoạn cao của quá
trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật
bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy lý”.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 4 (NXB Từ điển
bách khoa. Hà Nội. 2005): Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ
chức một cách đặc biệt Bộ não người Tư duy phản ánh tích cực hiện thực
khách quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý luận, …
Theo Nguyễn Quang Uẩn: Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh
những thuộc tính, bản chất mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật
của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết
[36].
Theo Từ điển Triết học: “Tư duy, sản phẩm cao nhất của vật chất được
tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, là quá trình phản ánh tích cực thế giới
khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận. Tư duy xuất hiện trong
quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh thực
tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật. Tư duy chỉ
tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời khỏi hoạt động lao động và lời
nói, là hoạt động chỉ tiêu biểu cho xã hội loài người cho nên tư duy của con
người được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với lời nói và những kết quả
của tư duy được ghi nhận trong ngôn ngữ. Tiêu biểu cho tư duy là những quá
trình như trừu tượng hoá, phân tích và tổng hợp, việc nêu lên là những vấn đề
nhất định và tìm cách giải quyết chúng, việc đề xuất những giả thiết, những ý
niệm. Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là một ý nghĩ nào đó”.
12
Theo quan niệm của Tâm lý học: Tư duy là một quá trình tâm lý thuộc
nhận thức lý tính, là một mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác và tri
giác. Tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất, những mối liên
hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà trước đó ta chưa biết.
1.1.1.2. Đặc điểm của tư duy
a) Tính có vấn đề, tính phức hợp, tính thay đổi liên tục
Khi gặp những tình huống mà vấn đề hiểu biết cũ, phương pháp hành
động đã biết của chúng ta không đủ giải quyết, lúc đó chúng ta rơi vào “tình
huống có vấn đề”, và chúng ta phải cố vượt ra khỏi phạm vi những hiểu biết
cũ để đi tới cái mới, hay nói cách khác chúng ta phải tư duy.
Có thể nói rằng, quá trình của tư duy được thúc đẩy theo một vận động
xoáy trôn ốc. Quá trình tư duy là sự tái sinh trở lại sau mỗi lần đạt tới cái mới,
mỗi thay đổi đã xảy ra, mỗi xáo động gặp phải. Tư duy vận động đa hình, đa
chiều, biến đổi không ngừng.
b) Tính trừu tượng, khái quát và tính cụ thể
Tư duy có khả năng phản ánh những thuộc tính chung, những mối quan
hệ, liên hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật hiện tượng. Do đó, tư duy
mang tính trừu tượng, khái quát.
c) Tính độc lập tương đối của tư duy
Trong quá trình sống con người luôn giao tiếp với nhau, do đó tư duy
của từng người vừa tự biến đổi qua quá trình hoạt động của bản thân vừa chịu
sự tác động biến đổi từ tư duy của đồng loại thông qua những hoạt động có
tính vật chất. Do đó, tư duy không chỉ gắn với bộ não của từng cá thể người
mà còn gắn với sự tiến hóa của xã hội, trở thành một sản phẩm có tính xã hội
trong khi vẫn duy trì được tính cá thể của một con người nhất định. Mặc dù
được tạo thành từ kết quả hoạt động thực tiễn nhưng tư duy có tính độc lập
tương đối. Sau khi xuất hiện, sự phát triển của tư duy còn chịu ảnh hưởng của
toàn bộ tri thức mà nhân loại đã tích lũy được trước đó. Tư duy cũng chịu ảnh
hưởng, tác động của các lý thuyết, quan điểm tồn tại cùng thời với nó. Mặt
13
khác, tư duy cũng có lôgic phát triển nội tại riêng của nó, đó là sự phản ánh
đặc thù lôgic khách quan theo cách hiểu riêng gắn với mỗi con người. Đó
chính là tính độc lập tương đối của tư duy.
d) Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ
Nhu cầu giao tiếp của con người là điều kiện cần để phát sinh ngôn
ngữ. Kết quả tư duy được ghi lại bằng ngôn ngữ. Ngay từ khi xuất hiện, tư
duy đã gắn liền với ngôn ngữ và được thực hiện thông qua ngôn ngữ. Vì vậy,
ngôn ngữ chính là cái vỏ hình thức của tư duy.
e) Trí tuệ, tư duy và ý thức
Trí tuệ, tư duy, ý thức - mà chúng ta đã từng được nghe giảng, từng đọc
và nhiều tài liệu đã lặp đi lặp lại khá nhiều - là những sự hợp trội bắt nguồn từ
vô số những tương tác giữa vô số những hoạt động của não tạo nên. Bản thân
mỗi hợp trội ấy đã tự nó có những đặc tính riêng, do đó, có tính độc lập tương
đối, chúng tác động trở lại thành những vòng xoắn ốc vào não, phát triển, và
lại bắt nguồn từ não.
Tư duy là kết quả của nhận thức đồng thời là sự phát triển cấp cao của
nhận thức. Xuất phát điểm của nhận thức là những cảm giác, tri giác và biểu
tượng... được phản ánh từ thực tiễn khách quan với những thông tin về hình
dạng, hiện tượng bên ngoài được phản ánh một cách riêng lẻ. Giai đoạn này
được gọi là tư duy cụ thể. Ở giai đoạn sau, với sự hỗ trợ của ngôn ngữ, hoạt
động tư duy tiến hành các thao tác so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khu
biệt, quy nạp những thông tin đơn lẻ, gắn chúng vào mối liên hệ phổ biến, lọc
bỏ những cái ngẫu nhiên, không căn bản của sự việc để tìm ra nội dung và bản
chất của sự vật, hiện tượng, quy nạp nó thành những khái niệm, phạm trù, định
luật... Giai đoạn này được gọi là giai đoạn tư duy trừu tượng.
Trí tuệ, tư duy, ý thức không chỉ lệ thuộc lẫn nhau: mỗi cái cần có
những cái khác để được xác định và hiểu được. Chẳng hạn, tư duy cần có
nghệ thuật và chiến lược nhận thức, nghĩa là cần có trí tuệ. Trí tuệ thì cần có
tư duy, nghĩa là những đối lôgic đa dạng của tinh thần, và nó cũng cần có
14
năng lực quan niệm. Ý thức cần được kiểm soát bởi trí tuệ, còn trí tuệ thì cần
có ý thức. Tư duy cần có phản xạ (ý thức), còn ý thức thì cần có tư duy.
1.1.1.3. Phân loại tư duy
Cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất khi phân loại tư duy. Tuy
nhiên, có hai cách phân loại tư duy phổ biến nhất, đó là:
a) Phân loại tư duy theo đối tượng: Với cách phân loại này, ta có các
loại tư duy sau: Tư duy kinh tế; Tư duy chính trị; Tư duy văn học; Tư duy
toán học; Tư duy nghệ thuật; Tư duy kỹ thuật; Tư duy khoa học; …
b) Phân loại tư duy theo đặc trưng của tư duy: Với cách phân loại này,
ta có các loại tư duy sau: Tư duy cụ thể; Tư duy trừu tượng; Tư duy lôgic; Tư
duy biện chứng; Tư duy sáng tạo; Tư duy phản biện; Tư duy phản ánh, …
1.1.2. Sáng tạo
1.1.2.1. Quan niệm
(1) “Sáng tạo” hiểu theo Từ điển tiếng Việt là tạo ra giá trị mới về vật
chất và tinh thần. Tìm ra cách giải quyết mới, không bị gò bó hay phụ thuộc
vào cái đã có. Hoặc theo Đại từ điển tiếng Việt, sáng tạo là làm ra cái mới
chưa ai làm. Tìm tòi làm tốt hơn mà không bị gò bó. Lecne. I. Ia. cho rằng:
“Sáng tạo là quá trình con người xây dựng cái mới về chất bằng hành động trí
tuệ đặc biệt mà không thể xem như là hệ thống các thao tác hoặc hành động
được mô tả thật chính xác và được điều hành nghiêm ngặt” [24].
Nhà tâm lí học Henry Gleitman định nghĩa : “Sáng tạo, đó là năng lực
tạo ra những giải pháp mới hoặc duy nhất cho một vấn đề thực tiễn và hữu
ích” . Nhà tâm lí học Karen Huffman cho rằng người có tính sáng tạo là người
tạo ra được giải pháp mới mẻ và thích hợp để giải quyết vấn đề.
Theo Nguyễn Cảnh Toàn: “Sáng tạo là sự vận động của tư duy từ
những hiểu biết đã có đến những hiểu biết mới”
(2) Tự bản chất con người vốn có tính sáng tạo. Tinh hoa của tính người
là tính sáng tạo, và con người luôn luôn phải biểu lộ tính sáng tạo trong hành vi
và trong các hoạt động của mình. “Chúng ta bắt đầu từ chỗ nhận thức rằng con
15
người không thể sáng tạo ra vật chất. Nhưng chúng ta có thể tạo ra giá trị. Sáng
tạo ra giá trị chính là tính nhân loại của chúng ta. Khi chúng ta khen ai là vì có
“tính cách mạnh mẽ”, thật ra chúng ta thừa nhận rằng người đó có nhiều năng
lực sáng tạo ra giá trị.
Liên hệ với tư tưởng này, việc học sinh giải một bài toán (chẳng hạn là
bài toán hình học) thì nội dung bài toán sẽ cũ đi, sang năm sau sẽ lại có HS
khác giải bài toán đó. Nhưng tri thức phương pháp giải bài toán đó sẽ có giá
trị, giá trị đó đi cùng với con người HS đó, tri thức về cách giải bài toán ấy sẽ
góp phần làm nên nhân cách con người, cái văn hóa của con người HS đó.
Ví dụ: Có thể có rất nhiều người HS đã từng học THPT sẽ không quên
bài toán sau:
“Bài toán : Cho ∆ ABC vuông tại A, M bất kì trên BC, AM tạo với
AB, AC các góc theo thứ tự là và
. Chứng minh cos2 + cos2 = 1.”
Với có thể một cách giải như sau:
A
Qua M dựng đường thẳng vuông góc với AM,
C'
cắt AB, AC lần lượt tại B’ và C’.
B
C
M
Khi đó cos =
AM
AB '
, cos =
cos2 + cos2 =
AM
AC '
1
AM2( ( AB' ) 2
1
+ ( AC ' ) 2
B'
) = AM2.
Hình 1
1
=1
( AM ) 2
(Trong tam giác vuông cạnh huyền a và b, c là hai cạnh góc vuông và đường
cao ha thì:
1
1
1
).
2 =
2 +
ha
b
c2
Tri thức phương pháp giải bài toán và việc mở rộng khai thác cách giải
của bài toán phẳng sang bài toán trong không gian, sự vận dụng phương pháp
giải bài toán phẳng để giải bài toán mở rộng đó có giá trị đối với mỗi HS.
Bài toán mở rộng trong không gian: Cho hình chóp tam diện vuông
SABC đỉnh S, M là điểm thuộc miền trong tam giác ABC. SM hợp với các
cạnh SA, SB, SC các góc theo thứ tự , , .
Chứng minh cos2 + cos2 + cos2 = 1.
16
Giải:
S
Sử dụng cách giải tương tự cách giải với bài toán
C
trong mặt phẳng. Dùng mặt phẳng qua M và vuông
góc với SM cắt hình chóp lần lượt tại A’, B’, C’.
A'
A
C'
M
B'
Khi đó cos =
Nên cos2
SM
SA'
, cos =
SM
SB '
, cos =
SM
SC '
B
Hình 2
1
1
1
+ cos2 + cos2 = SM2(
)= 1
2 +
2 +
SA'
SB '
SC '2
Vậy cos2 + cos2 + cos2 = 1
(3) Sáng tạo đơn giản chỉ là tìm ra một cách mới để làm việc hoặc làm
cho công việc đó trôi chảy hơn, làm nên thành công. Sáng tạo vì thế cứ tiếp
nối sáng tạo như một cuộc đua tiếp sức để đời sống loài người ngày một văn
minh, tiện lợi hơn. Khi đã hiểu sáng tạo là gì và sáng tạo có tầm quan trọng
như thế nào thì rõ ràng, tư duy sáng tạo luôn là phẩm chất số 1 của người lao
động trong bất cứ xã hội nào. Thực chất thì sáng tạo là quá trình hoạt động
của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Nói cho dễ
hiểu thì sáng tạo là hoạt động của con người tạo ra sản phẩm và sản phẩm này
phải đáp ứng được hai yêu cầu sau: Có tính mới (mới về chất); Có giá trị so
với sản phẩm cũ (có lợi hơn, tiến bộ hơn)
1.1.2.2. Động cơ sáng tạo?
Động cơ là xung lực thúc đẩy con người hành động để thỏa mãn nhu
cầu về cá nhân hay về xã hội. Nhu cầu của con người có nhiều, nên động cơ
để thỏa mãn các nhu cầu đó cũng rất phong phú. Sáng tạo của con người có
thể xuất phát từ động cơ hiếu thắng, có khi là từ lòng ham hiểu biết, có khi
muốn hơn người, cũng có khi vì danh dự, tiền tài, địa vị hay vì lý tưởng của
con người đối với dân tộc, đất nước hay nhân loại.
1.1.2.3. Đặc điểm của người sáng tạo
Người sáng tạo có những đặc điểm:
17
(1). Lao động chuyên cần, thái độ lao động đúng đắn: Sáng tạo và
thành công chỉ xuất hiện ở những con người lao động chuyên cần và có
phương pháp, có thái độ đúng đắn với công việc. Đây là một phẩm chất cơ
bản của người lao động sáng tạo. Đối với người HS, nhiệm vụ học tập ở
trường phổ thông rất nặng nề, đòi hỏi HS phải có tinh thần say sưa, tự nguyện
tự giác với ý chí và nghị lực tiến công cao. Học tập, nhất là học toán, là một
dạng lao động trí óc căng thẳng, một quá trình đầy khó khăn, như các em có
thể là được, vì các em đang lứa tuổi thanh niên dồi dào cả về thể chất và tinh
thần để học tập, cơ sở cho những sáng tạo sau này.
(2). Nhiệt tình, say mê thúc đẩy sáng tạo: Đối với HS, muốn có được
kết quả học tập tốt, đó không là điều đơn giản, không phải ngẫu nhiên mà có,
đặc biệt trong học toán và lại gặp những chủ đề kiến thức khó như Hình học
không gian. Học sinh phải có tinh thần say sưa, ý thức tự giác, chủ động quyết
tâm trong học tập.
(3). Dám nghĩ dám làm, chịu đựng gian khổ. Thất bại không nản. Dũng
cảm phấn đấu bền bỉ đến thắng lợi cuối cùng.
(4). Lòng tin và sáng tạo: Trong cuộc sống, sự nghiệp nói chung, trong
học tập nghiên cứu chiếm lĩnh kiến thức nói riêng, niềm tin vào khả năng của
bản thân có vai trò rất quan trọng cho sáng tạo và thành công. Thiếu tính tự
tin là một trong những nguyên nhân thất bại, và như thế thì không bao giờ có
sự sáng tạo.
(5). Luôn đổi mới, không chịu lạc hậu: Trong thời đại này hôm nay, khi
mà nhịp độ của sự thay đổi ngày càng gia tăng chóng mặt thì chân lý của câu
nói trên ngày càng được minh chứng. Một con người sáng tạo là con người
biết chấp nhận sự thay đổi, luôn luôn đổi mới, hiểu được bản chất của sự thay
đổi, có cách nhìn nhận đúng đắn về sự thay đổi, nắm bắt kịp thời chính xác
của sự thay đổi, có biện pháp để thực hiện thay đổi hiệu quả, sáng tạo.
Ví dụ: Giải một bài toán hình học không gian bằng nhiều phương pháp,
cách giải khác nhau lại là một trong những nội dung quan trọng trong giảng
18
dạy Toán ở trường phổ thông nhưng phương pháp giáo dục hiện nay còn
nhiều gò bó và hạn chế tầm suy nghĩ, sáng tạo của học sinh. Bản thân các em
học sinh khi đối mặt với một bài toán cũng thường có tâm lý tự hài lòng sau
khi đã giải quyết được nó bằng một cách nào đó, mà chưa nghĩ đến chuyện tối
ưu hóa bài toán, giải quyết nó bằng cách nhanh nhất. Do đó, việc giáo viên
hướng dẫn và tập cho học sinh giải quyết một bài toán bằng nhiều cách khác
nhau là một cách rất hay để phát triển tư duy và rèn luyện kỹ năng học toán
của mỗi người, giúp học sinh có khả năng nhìn nhận vấn đề theo nhiều hướng
khác nhau. Nếu giáo viên làm được điều này thì khả năng tư duy sáng tạo của
học sinh sẽ được nâng lên một bậc cao hơn, hoàn thiện hơn.
(6). Tính khiêm tốn và sự sáng tạo: Người ta thường nói: biết được cái
mạnh của mình để phát huy, biết được cái yếu của mình để hạn chế, đó là
thung lũng của Vương quốc sáng tạo.
(7). Những phẩm chất của một người nghĩ sáng tạo: Ðộc lập; Tự tin;
Chấp nhận rủi ro; Nhiều năng lượng; Nồng nhiệt; Không gò bó; Thích phiêu
lưu; Tò mò, hiếu kỳ; Nhiều sở thích; Hài hước; Biết nghi ngờ.
1.1.3. Tư duy sáng tạo
1.1.3.1. Một số quan niệm
Theo Nguyễn Bá Kim: “Tính linh hoạt, tính độc lập và tính phê phán
là những điều kiện cần thiết của tư duy sáng tạo, là những đặc điểm về những
mặt khác nhau của tư duy sáng tạo. Tính sáng tạo của tư duy thể hiện rõ nét
ở khả năng tạo ra cái mới, phát hiện vấn đề mới, tìm ra hướng đi mới, tạo ra
kết quả mới. Nhấn mạnh cái mới không có nghĩa là coi nhẹ cái cũ” [21].
Theo Tôn Thân quan niệm: “Tư duy sáng tạo là một dạng tư duy độc
lập tạo ra ý tưởng mới, độc đáo, và có hiệu quả giải quyết vấn đề cao”. Theo
ông: “Tư duy sáng tạo là tư duy độc lập và nó không bị gò bó phụ thuộc vào
cái đã có. Tính độc lập của nó bộc lộ vừa trong việc đặt mục đích vừa trong
19
việc tìm giải pháp. Mỗi sản phẩm của tư duy sáng tạo đều mang rất đậm dấu
ấn của mỗi cá nhân đã tạo ra nó”. [32].
Trong cuốn “Sáng tạo Toán học”, G.Polya cho rằng: “Một tư duy gọi
là có hiệu quả nếu tư duy đó dẫn đến lời giải một bài toán cụ thể nào đó. Có
thể coi là sáng tạo nếu tư duy đó tạo ra những tư liệu, phương tiện giải các
bài toán sau này. Các bài toán vận dụng những tư liệu phương tiện này có số
lượng càng lớn, có dạng muôn màu muôn vẻ, thì mức độ sáng tạo của tư duy
càng cao. Thí dụ: lúc những cố gắng của người giải vạch ra được các
phương thức giải áp dụng cho những bài toán khác. Việc làm của người giải
có thể là sáng tạo một cách gián tiếp, chẳng hạn lúc ta để lại một bài toán tuy
không giải được nhưng tốt vì đã gợi ra cho người khác những suy nghĩ có
hiệu quả” [14].
Nhà tâm lí học người Đức Mehlhorn cho rằng: “TD sáng tạo là hạt
nhân của sự sáng tạo cá nhân, đồng thời là mục tiêu cơ bản của GD”. Theo
ông, TD sáng tạo bởi mức độ cao của chất lượng hoạt động trí tuệ như tính
mềm dẻo, tính nhạy cảm, tính kế hoạch, tính chính xác, ...
Trong khi đó, J. Danton lại cho rằng: “TD sáng tạo đó là những năng
lực tìm thấy những ý nghĩ mới, tìm thấy những mối quan hệ; là một chức
năng của kiến thức, trí tưởng tượng và sự đánh giá; là một quá trình, một
cách dạy và học bao gồm một chuỗi phiêu lưu; chứa đựng những điều như:
sự khám phá, sự phát sinh, sự đổi mới, trí tượng tượng, sự thí nghiệm, sự
thám hiểm”.
Theo định nghĩa thông thường và phổ biến nhất của tư duy sáng tạo thì
đó là tư duy sáng tạo ra cái mới. Không những sản phẩm là mới, mà quá trình
tư duy cũng mới, thể hiện ở chỗ quá trình tư duy đổi mới, chuyển đổi quan
điểm, khắc phục những thói quen không phù hợp trong phương thức tư duy.
1.1.3.2. Các yếu tố của tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo bao gồm 6 thành phần:
(1) Sự mềm dẻo linh hoạt
20
Tính mềm dẻo và tính linh hoạt thể hiện khả năng chuyển từ hoạt động trí
tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác, chuyển từ đối tượng suy nghĩ này sang đối
tượng suy nghĩ khác; biết thay đổi phương pháp giải quyết vấn đề cho phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh, không bị gò bó, rập khuôn bởi những gì đã có; kịp
thời và nhanh chóng điều chỉnh hướng suy nghĩ khi gặp trở ngại và tìm ra
hướng giải quyết mới cho một vấn đề.
(2) Tính nhuần nhuyễn
Tính nhuần nhuyễn trong tư duy có thể được sử dụng một cách dễ
dàng, thoải mái, một cách tự nhiên trong quá trình suy nghĩ để phát hiện và
nhận thức bản chất của sự vật.
Tính nhuần nhuyễn được thể hiện ở việc vận dụng các thao tác tư duy
đạt đến mức độ thành thạo một cách tự nhiên nhằm tạo ra một số ý tưởng để
giải quyết vấn đề, nhanh chóng đưa ra giả thuyết, ý tưởng mới và số ý tưởng
nghĩ ra càng nhiều thì càng có khả năng xuất hiện ý tưởng độc đáo.
Mặt khác, tính nhuần nhuyễn còn được thể hiện ở chỗ khả năng tìm ra
được nhiều giải pháp trên nhiều tình huống, góc độ, khía cạnh khác nhau, từ
đó tìm ra được phương án tối ưu.
(3) Sự độc đáo
Tính độc đáo của tư duy thể hiện ở khả năng phát hiện cái mới, khác lạ,
không bình thường trong quá trình nhận thức sự vật. Đây là đặc trưng cơ bản
nhất của tư duy sáng tạo, là dấu hiệu để phân biệt giữa tư duy sáng tạo với các
dạng tư duy khác.
(4) Sự hiếm lạ, duy nhất, sự liên tưởng rộng
Những phát minh và sáng tạo nào được ghi vào những nguyên lý,
những qui tắc, những dạng thức, những lý thuyết đã có trước đó là thuộc về
một khả năng phát minh hay sáng tạo thông thường, thậm chí là tầm thường.
Hiếm thấy hơn là những phát minh vượt qua các qui tắc và những sáng tạo
cách mạnh hóa chúng. Những sáng tạo có tính sáng tạo nhất là những sáng tạo
đưa ra một khái niệm mới, tạo nên một hệ thống ý tưởng (lý thuyết) mới,
- Xem thêm -