Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh lớp 10 trong dạy học các trích đoạn truy...

Tài liệu Bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh lớp 10 trong dạy học các trích đoạn truyện kiều

.PDF
119
93
62

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––– ĐỖ THỊ THANH HOA BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO HỌC SINH LỚP 10 TRONG DẠY HỌC CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN - 2019 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––– ĐỖ THỊ THANH HOA BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO HỌC SINH LỚP 10 TRONG DẠY HỌC CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU Ngành: Lí luận và PPDH bộ môn Văn - Tiếng Việt Mã số: 8 14 01 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HUY QUÁT THÁI NGUYÊN - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Đỗ Thị Thanh Hoa i LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Huy Quát – Người thầy khoa học, đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô, những người đã giảng dạy, động viên, giúp đỡ, đóng góp ý kiến cho tôi trong quá trình học tập cũng như khi tiến hành thực hiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong khoa Đào tạo sau đại học, tổ bộ môn phương pháp dạy học văn, khoa Ngữ văn và các phòng ban của trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, chi bộ trường THPT Lương phú, cùng các bạn bè đồng nghiệp, người thân trong gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Thái nguyên, tháng 8 năm 2019 Tác giả luận văn ii MỤC LỤC Lời cam đoan ........................................................................................................ i Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................... iii Danh mục các chữ viết tắt .................................................................................. iv MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 4 3. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 11 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 11 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 12 6. Giả thuyết khoa học ....................................................................................... 12 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 12 NỘI DUNG ....................................................................................................... 13 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN & THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .................... 13 1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 13 1.1.1. Năng lực và năng lực thẩm mỹ ................................................................ 13 1.1.2. Dạy học tích cực - yếu tố cơ bản trong đổi mới PPDH văn theo hướng phát triển năng lực và năng lực thẩm mỹ cho học sinh .......................... 22 1.1.3. Vài nét về đặc trưng thi pháp truyện Nôm - một vấn đề có liên quan đến đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều .......................................................... 23 1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 25 1.2.1. Thực trạng dạy học truyện thơ Nôm trong nhà trường THPT ................ 25 1.2.2. Tình hình bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh lớp 10, qua dạy học các trích đoạn Truyện Kiều ......................................................................... 26 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 31 Chương 2: NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CÁC TRÍCH ĐOẠN “TRAO DUYÊN” VÀ “CHÍ KHÍ ANH HÙNG” .....................32 iii 2.1. Tạo tâm thế tiếp nhận văn bản cho học sinh .............................................. 32 2.1.1. Trước giờ học .......................................................................................... 32 2.1.2. Đầu giờ học.............................................................................................. 36 2.2. Hình thành nhận thức thẩm mỹ cho học sinh qua các trích đoạn ............... 37 2.2.1. Trích đoạn “Trao duyên” ......................................................................... 37 2.2.2. Trích đoạn “Chí khí anh hùng” ............................................................... 44 2.3. Vận dụng linh hoạt một số phương pháp dạy học tích cực phù hợp với việc dạy học các trích đoạn Truyện Kiều .......................................................... 49 2.3.1. Trích đoạn “Trao duyên” ......................................................................... 49 2.3.2. Trích đoạn “Chí khí anh hùng” ............................................................... 53 2.4. Tích hợp các văn bản có liên quan đến trích đoạn ..................................... 56 2.4.1. Trích đoạn “Trao duyên” ......................................................................... 56 2.4.2. Trích đoạn “Chí khí anh hùng” ............................................................... 58 2.5. Luyện tập vận dụng .................................................................................... 60 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 60 Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ...................................................... 61 3.1. Kế hoạch dạy học thực nghiệm .................................................................. 61 3.1.1. Mục đích và yêu thực nghiệm ................................................................. 61 3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm .......................................... 61 3.1.3. Nội dung và phương pháp tiến hành thực nghiệm .................................. 61 3.2. Tổ chức dạy thực nghiệm ........................................................................... 62 3.2.1. Tổ chức dạy học thực nghiệm và dạy học đối chứng .............................. 62 3.2.2. Kết quả thực nghiệm................................................................................ 83 3.2.3. Kết luận chung về thực nghiệm ............................................................... 84 Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 85 KẾT LUẬN....................................................................................................... 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 89 iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT THPT: Trung học phổ thông THCS: Trung học cơ sở PPDH: Phương pháp dạy học GV: Giáo viên HS: Học sinh SGK: Sách giáo khoa STK: Sách tham khảo TPVC: Tác phẩm văn chương KVK: Kim Vân Kiều VHVN: Văn học Việt Nam iv MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ việc nhận thức rõ vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của quốc gia, nhà nước Việt Nam đã có những quan điểm đúng đắn về đầu tư cho phát triển giáo dục. Với tiêu chí “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, từ nhiều năm qua, nước ta đều đề ra mục tiêu hướng đến việc giáo dục toàn diện cho học sinh ở tất cả các cấp học. Từ Luật giáo dục năm 2005, nhà nước đã đề ra Mục tiêu giáo dục là “ ” cho đến văn bản hợp nhất Số 07/VBHN-VPQH ra ngày 31/12/2015 của Quốc hội, những nội dung này trong mục tiêu giáo dục vẫn được giữ nguyên. Tất cả các tiêu chí được Quốc hội thống nhất và đưa vào luật giáo dục đều hướng đến đích cuối cùng là phát triển toàn diện con người Việt Nam. Trong số những tiêu chí đề ra thì tiêu chí về việc để hướng tới hình thành cho công dân là một nội dung quan trọng. Điểu đó đã khẳng định sự cần thiết và tầm quan trọng của việc giáo dục thẩm mỹ cho HS qua dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của BCH Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam (4 - 11 - 2013) do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký, ban hành đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp để định hướng đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục đào tạo là “ ”. Hướng đổi mới này 1 được áp dụng ở tất cả các cấp học trong nhà trường, từ cấp học mầm non đến THPT. Từ đó, Nghị quyết đề ra giải pháp: “ ”. Như vậy, quan điểm trên đã cho thấy sự đòi hỏi mạnh mẽ của việc khắc phục lối dạy cũ, phát triển năng lực cho HS bằng những phương pháp dạy học tích cực. Đây chính là tính cấp thiết của việc đổi mới GD - ĐT ở nước ta hiện nay mà người GV phải thấm nhuần và vận dụng vào quá trình dạy học của mình. Ở bất cứ môn học nào, việc giáo dục thẩm mỹ cho HS cũng được chú trọng thực hiện với những mức độ khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù của môn học. Tuy nhiên, trong tất cả các môn học được giảng dạy trong nhà trường thì môn Ngữ văn là có lợi thế hơn cả đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho HS. Bởi môn học này gắn với nghệ thuật, văn chương, nó là một loại hình nghệ thuật đặc biệt - nghệ thuật ngôn từ. Văn chương có khả năng tác động sâu sắc đến nhận thức, tâm tư, tình cảm của con người, bởi thế đây là một trong số ít những môn học có khả năng mang lại hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cao. Có thể thấy, qua nhiều năm tiến hành cải cách giáo dục, nhà nước vẫn luôn con trọng và hướng tới sự phát triển, hình thành năng lực cho HS ở mọi mặt, hướng tới việc đào tạo cho các thế hệ người học có những phẩm chất của công dân toàn cầu. Bên cạnh những năng lực thiết thực với thực tế hội nhập hiện nay thì việc phát triển của HS luôn được chú trọng và đề cao. 2 Mặc dù nhà nước, ngành GD-ĐT đã có những văn bản, chỉ thị và chương trình tập huấn về đổi mới PPDH, chú trọng phát triển các kĩ năng, năng lực cho HS nhưng về cơ bản, GV vẫn chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển năng lực cho HS, đặc biệt là . Cụ thể, trong chương trình SGK THPT hiện hành có rất nhiều tác phẩm có tiềm năng hình cho HS nhưng hiệu quả bồi dưỡng năng lực này qua thành các tiết học còn nhiều hạn chế. Một trong số đó phải kể đến Truyện Kiều, tác phẩm được xem là tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Không chỉ có giá trị nội dung tư tưởng sâu sắc, tác phẩm này còn có khả năng thanh lọc tâm hồn, giúp hình thành ở người học năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Rất nhiều hình tượng nhân vật do đại thi hào Nguyễn Du xây dựng có những phẩm chất thẩm mỹ cao đẹp như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải... Vì vậy, khi dạy những trích đoạn Truyện Kiều, ngoài nội dung kiến thức, GV cần chú ý đến việc bồi dưỡng cho HS. Tuy nhiên, vẻ đẹp của Thúy Kiều cũng như những phẩm chất anh hùng của Từ Hải vẫn chưa được HS cảm thụ một cách sâu sắc và chưa thực sự trở thành năng lực thẩm mỹ của bản thân để từ đó có kỹ năng tiếp nhận những giá trị thẩm mỹ của những tác phẩm văn học khác. Ngoài ra, giáo dục phổ thông so với các cấp học khác có những điểm riêng biệt, bởi lẽ ở giai đoạn này HS đang trong quá trình hoàn thiện về mặt nhân cách, việc phát triển năng lực thẩm mỹ ở HS cần được đặc biệt chú trọng để hướng tới sự phát triển toàn diện. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài là xuất phát từ những lý do nêu trên. Chúng tôi mong rằng, từ kết quả nhỏ bé khi thực hiện đề tài này sẽ rút ra được những điều bổ ích cho bản thân và đồng nghiệp trong dạy học TPVC nói chung và các trích đoạn Truyện Kiều nói riêng. 3 2. Lịch sử vấn đề Ngay từ khi xuất hiện, Truyện Kiều lập tức trở thành một sự kiện quan trọng trong đời sống văn học dân tộc. Những giá trị nghệ thuật đặc sắc và những giá trị nhân sinh tiến bộ mà Nguyễn Du thể hiện trong tác phẩm của mình đã trở thành những vùng đất đầy hấp dẫn để giới nghiên cứu và phê bình văn học tìm tòi, khám phá. Cho đến nay, hơn hai thế kỉ đã trôi qua, nhưng công việc nghiên cứu, phê bình tác phẩm này chưa bao giờ dừng lại. Có thể nói, trong lịch sử văn học dân tộc, chưa có một tác phẩm nào lại có sức hấp dẫn lớn đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học như vậy. Rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị đã khiến cho người đọc có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về đỉnh cao của Truyện Kiều cũng như tác giả của nó. Ở những thời đại khác nhau, các quan điểm nhìn nhận và đánh về giá trị tác phẩm cũng có những điểm khác nhau. Khác với của Đặng Trần Côn, ngay khi ra đời với bản chữ Nôm, Truyện Kiều đã phổ cập rộng rãi trong giới nho sĩ. Theo Trần Đình Sử “Độc giả đầu tiên có thể là Vũ Trinh (anh rể Nguyễn Du), Nguyễn Lượng (em ruột khác mẹ), đây là hai người “bình” Truyện Kiều đầu tiên. Phạm Quý Thích tán thưởng, nhuận sắc và cho khắc in . Nếu giai thoại này có thật thì bản in Truyện Kiều của Phạm Quý Thích là rất sớm vì ông mất năm 1825. Việc in ấn Truyện Kiều có thể đã được làm khi Nguyễn Du còn sống. Mộng Liên Đường chủ nhân viết bài tựa năm 1820, rồi Minh Mệnh lên ngôi từ năm 1820 đã cùng triều thần làm thơ vịnh Kiều và bài Tổng thuyết của ông viết vào năm 1830. Phong thuyết chủ nhân Thập Thanh Thị lại đề tựa Truyện Kiều năm Mậu Tý (1828). Nguyễn Văn Thắng lập Kim Vân Kiều án năm 1830… Những sự việc đó làm náo động văn đàn Việt Nam nửa đầu thế Kỉ XIX và kéo dài đến tận cuối thế kỉ. [1, tr.329 - 230] Truyện Kiều khi mới xuất hiện, dưới cái nhìn khắt khe của con mắt nho giáo đã chịu không ít những chỉ trích và phán xét, đặc biệt là đối với nhân vật 4 trung tâm của tác phẩm - Thúy Kiều. Nguyễn Công Trứ đã từng rất gay gắt khi đánh giá về nhân vật này. “Từ Mã Giám Sinh cho đến Từ Hải, Tấm thân đem bán lại chốn thanh lâu. Bây giờ Kiều còn hiếu vào đâu, Mà bướm chán ong chường cho đến thế? … Mệnh bạc chẳng làm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm” (Vịnh Thúy Kiều) Theo quan điểm của những nhà nho “Trai thời trung hiếu làm đầu/Gái thời tiết hạnh lấy câu trau mình” thì Thúy Kiều thực sự là một nhân vật tà dâm không tuân thủ lễ giáo và giữ gìn tiết hạnh. Tuy nhiên, đó chỉ là những đánh giá sai lầm, chưa toàn diện của số ít những gương mặt đại diện cho tư tưởng đạo đức chính thống của thời đại. Bên cạnh đó, những người cùng thời như Nguyễn Văn Thắng, Tự Đức hay Minh Mệnh, … thì lại hết lời ca ngợi Thúy Kiều và tác phẩm của Nguyễn Du là biết giữ tròn đạo hiếu, biết tiết, biết nghĩa. Đào Nguyên Phổ, Mộng Liên Đường chủ nhân, Phong Tuyết chủ nhân nhận xét… “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột” [15]. Những đánh giá, phát ngôn của những nhà nho thời phong kiến tuy đã được khẳng định là những bình luận có giá trị và đáng lưu tâm, song những ý kiến đó mới chỉ mang tính cảm hứng chứ chưa thực sự là sự phê bình khoa học. Phải sang đến thế kỉ XX, những sản phẩm nghiên cứu, phê bình về Truyện Kiều mới thực sự ra đời và có những nhận thức đúng đắn, toàn diện hơn. Một trong những người có nhiều bài viết về Truyện Kiều nhất ở đầu giai đoạn này phải kể đến Phạm Quỳnh, chủ bút của tờ Nam Phong tạp chí. Ông 5 cho rằng, phát triển ngôn ngữ dân tộc đến đỉnh cao, không tác phẩm nào khác, chính là Truyện Kiều. Ông khẳng định: “Bao giờ trên bán đảo Đông Dương này còn có người An Nam thì Truyện Kiều còn có người đọc. Truyện Kiều còn có người đọc thì cái hồn cụ Tiên Điền còn phảng phất mãi mãi trong sông núi đất Việt Nam, không bao giờ mất!” (Nam Phong, 12/1919, Thương Chi). Và ở chỗ khác, Phạm Quỳnh viết “… Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; Một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta.” [2, tr.470). Sau này, khi lí luận và phê bình văn học ngày càng phát triển thì kéo theo đó là sự xuất hiện của nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về Truyện Kiều với những tên tuổi nổi tiếng như Hoài Thanh, Hoài Chân, Đào Duy Anh… Tuy nhiên, vì chưa được trang bị một cách đầy đủ những kiến thức mỹ học Mác - Lênin nên ở sản phẩm phê bình của những tác giả này vẫn bị chi phối, ảnh hưởng bởi chủ nghĩa duy tâm “Cái đẹp của Đoạn trường tân thanh, cái chất thơ bàng bạc trong quyển truyện cũng cần phải được cảm thấy một cách hồn nhiên, cứ phân tích, cứ giảng giải nó sẽ tan biến đi. Đến đây phải im hơi, phải nhẹ nhàng mới hòng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng thùy mỵ, khi tráng lệ huy hoàng.” [16]. Đi sâu hơn vào Truyện Kiều với các hình tượng nhân vật, Đào Duy Anh đã có cái nhìn xác đáng hơn về nhân vật Từ Hải, một trong những nhân vật lí tưởng mà Nguyễn Du đã dụng công xây dựng. Hình tượng của nhân vật đã được nghiên cứu và khai thác một cách chân xác hơn về mặt nội dung tư tưởng. “Từ Hải đã thực hiện một cách gián tiếp ước mơ có lẽ tha thiết nhất trong đời Nguyễn Du, nếu không làm sao cắt nghĩa được cái lòng kính trọng của một nhà nho với một người khinh thường lễ giáo như Từ Hải. Bởi vì thế Nguyễn Du vẫn là một nhà nho, vẫn không quên cái nghĩa lớn nhất của một nhà nho, cái nghĩa tôn quân…” [3, tr.44]. Đến giữa thế kỉ XX khi đất nước giành được nền độc lập, mọi vấn đề của xã hội đều được nhận thức lại và có những đánh giá mới, dựa trên cách 6 nhìn và cách cảm mới của con người thời đại mới. Trong việc kiểm định lại giá trị cũ, người ta vẫn không thể bỏ qua Truyện Kiều, thậm chí một loạt các sản phẩm nghiên cứu, đánh giá của các nhà nghiên cứu đã ra đời. Năm 1946, ông Đặng Thai Mai tiếp tục đề cập đến Truyện Kiều trong bài viết “Cần phải tu dưỡng nghệ thuật” được đăng trên tạp chí Tiên phong, số 8. Đến năm 1949, ông Hoài Thanh cho xuất bản quyển “ ”. Cũng năm 1949, thiếu tướng Nguyễn Sơn nói chuyện về Truyện Kiều ở trường Thiếu sinh quân Liên Khu Bốn và trường Phổ thông cấp ba Đào Duy Từ ở Thanh Hóa. Năm 1951, ông Lê Duẩn trong báo cáo “ ” có phê bình quyển nghiên cứu “ ” của ông Hoài Thanh, nhân đó có nói đến Truyện Kiều. Năm 1952, ông Lê Trí Viễn xuất bản quyển “ ” (thời Lê mạt Nguyễn sơ) có một chương viết về Nguyễn Du và “ ”. Trong số những sản phẩm nghiên cứu, đánh giá về Truyện Kiều ở giai đoạn này thì có giá trị và đáng quan tâm hơn cả là quyển “ ” (Hoài Thanh)... Sau hơn 100 năm tồn tại và đối mặt với nhiều quan điểm đánh giá khác nhau, Truyện Kiều không những vẫn giữ nguyên những giá trị của mình mà ngày càng tỏa ra những ánh hào quang lấp lánh khi nhận được sự quan tâm đúng mức. Không chỉ là từ phía các nhà phê bình, lí luận văn học mà còn từ phía Đảng và nhà nước. Trên báo Nhân dân, tờ báo được xem là cơ quan ngôn luận chính thức của Trung ương Đảng, số ra ngày 25 tháng 9 năm 1955 đã đăng một bài xã luận với tiêu đề “ ”. Sau đó 10 năm, nhân sự kiện trọng đại, khi Hội đồng hòa bình thế giới ra quyết định kỉ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, báo Nhân dân số ra ngày 25 tháng 11 năm 1965 đã cho đăng bài xã luận “ ”. Qua sự kiện Nguyễn Du được công nhận là danh nhân văn hóa và Truyện Kiều trở thành một trong những kiệt tác của văn học nhân loại thì vấn 7 đề đi tìm hiểu cái hay, cái đẹp để khẳng định sức sống của tác phẩm càng được giới nghiên cứu và phê bình văn học quan tâm. 3254 câu thơ lục bát trong Truyện Kiều chưa bao giờ là cũ kĩ đối với người yêu văn chương. Sang đến thế kỉ XXI, dưới góc nhìn khoa học, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm đến Truyện Kiều ở những vấn đề cũ nhưng dưới cái nhìn mới. Trong cuốn Truyện Kiều - Những lời bình của NXB Thông tin - Hà Nội 2000 với 37 bài viết của những nhà lí luận và phê bình văn học nổi tiếng trong nước và nước ngoài đã giúp người đọc có cái nhìn toàn diện hơn về kiệt tác của nền văn học của dân tộc. Tiếp tục với cảm hứng khẳng định giá trị của Truyện Kiều và tài năng của Nguyễn Du, sản phẩm nghiên cứu gần đây nhất như cuốn sách “ ” của Vũ Nho được NXB Hội nhà văn (2016) đã được lưu hành rộng rãi. Tác giả đã tiếp tục khẳng định giá trị của Truyện kiều qua tài năng, sự sáng tạo không ngừng nghỉ ở Nguyễn Du. Trong cuốn sách của mình, Vũ Nho đã làm sáng tỏ và khẳng định tính đúng đắn của nhận định thứ hai về Truyện Kiều mà xưa nay người ta vẫn không ngừng tranh cãi “ ”. Trong cuốn này, 11 nhân vật của Truyện Kiều như: Từ Hải, Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Mã Giám Sinh, Tú bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Hoạn bà, Hồ Tôn Hiến, Thúy Vân cùng với 11 đoạn trích, trong đó có , ... Vũ Nho cũng so sánh Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài nhân với Truyện Kiều của Nguyễn Du để thấy rõ cái khác, điểm sáng tạo của nhà thơ Việt Nam... Ngoài những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học cao kể trên, Truyện kiều cũng là đề tài nghiên cứu của rất nhiều khóa luận, luận văn, luận án cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ ở trong và ngoài nước, như: 8 (Ths. Nguyễn Thị Hoa - Trường ĐH Thăng (Đoàn Thị Thanh Long), Bình), “ ” (Hoài (Đỗ Thúy Phương), Thanh) (Cao Thị Mỹ Trang), (Nguyễn Thị Ngọc Hà), (Nguyễn Thị Bảo Thu), … Trong nhiều năm trở lại đây, sau những mục tiêu cải cách giáo dục được đề ra trong luật giáo dục, việc dạy học phát triển năng lực ở người học đã được quan tâm và thực hiện một cách đồng bộ trên cả nước. Trong số các năng lực được quan tâm phát triển, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng và phát triển năng lực thẩm mỹ của học sinh trong dạy học môn Ngữ văn. Với một tác phẩm có nhiều giá trị thẩm mỹ như “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thì việc vận dụng để phát triển năng lực thẩm mỹ cho học sinh càng được chú ý quan tâm nhiều hơn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc phát triển năng lực thẩm mỹ cho học sinh thông qua việc dạy học các trích đoạn “Truyện Kiều” Trong bài viết “Truyên Kiều trong chương trình trung học Việt Nam, nhìn từ dạy học đào tạo năng lực cho học sinh” của GS. Trần Đình Sử cũng đã khẳng định tính ưu thế của việc bồi dưỡng năng lực cho học sinh thông qua dạy. Trong bài viết, tác giả quan tâm đến việc phát triển năng lực cho học sinh nhưng chỉ tập trung nhiều vào năng lực ngôn ngữ và hành văn. Trong luận văn “Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình ngữ văn 10 năm 2006 – 2007” của học viên Nguyễn Thị Bảo Thu chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học môn văn của trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh cũng đã có những 9 nghiên cứu cơ bản làm thế nào để phát triển năng lực cho học sinh trong đó có năng lực thẩm mỹ thông dạy học đọc hiểu song còn chưa cụ thể và rõ ràng vì còn tập trong vào nhiều năng lực khác. Khi nói đến “Truyện Kiều” với việc giảng dạy tác phẩm trong nhà trường, trước nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết có giá trị của Trần Đăng Xuyền, Vũ Ngọc Phan, Trần Đình Sử, … Trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2 chương trình chuẩn, trang 103 trích đoạn “Trao duyên”, nhấn mạnh vào bi kịch của có Thúy Kiều qua sự lựa chọn khó khăn giữa chữ tình và chữ hiếu. Đối với trích đoạn “Chí khí anh hùng” SGK Ngữ văn 10, tập 2, trang 112 yêu cầu nhấn mạnh hình tượng người anh hùng Từ Hải với tư cách là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng sáng tạo và nghệ thuật miêu tả. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2, nâng cao, Nxb Giáo dục, trang 137 hướng học sinh đến việc “cảm nhận được tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều trong đêm trao duyên” để thấy được “tài nghệ tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật”. Ở trang 159, sách cao tiếp tục hướng dẫn dạy học đoạn trích “ 10 nâng ” để “hiểu được chí khí anh hùng của Từ Hải dưới ngòi bút sáng tạo của Nguyễn Du và tài năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả trong việc diễn tả chí khí, khát vọng tự do của nhân vật”. Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo dục hướng dẫn dạy học các trích đoạn theo cách: Đặt vào ngữ cảnh chung của toàn tác phẩm để truyền đạt đúng tinh thần đoạn trích. Đặc biệt là cần nắm được cảm hứng ngợi ca, khẳng định của Nguyễn Du về vẻ đẹp tâm hồn, nhân phẩm của Thúy Kiều và lí tưởng anh hùng của Từ Hải. Từ khi các trích đoạn của Truyện Kiều được đưa vào chương trình, SGK Ngữ văn cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp giảng dạy các trích đoạn này. Có thể kể đến bài hướng dẫn dạy học đoạn trích ở sách giáo viên và nhiều sách thiết kế bài học khác cùng dựa trên văn 10 bản ở Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo dục. Ví dụ: Sách thiết kế của Hoàng Hữu Bội, Nguyễn Văn Đường… Nhìn chung, những tài liệu nói trên đã đề cập đến những đặc điểm nội dung và nghệ thuật cũng như việc tiếp cận văn bản theo hướng phát triển năng lực thẩm mỹ cho HS. Song những hướng dẫn đó còn chưa thật cụ thể, chi tiết. Đó cũng là lí do khiến chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài luận văn nói trên của mình. 3. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu Đề tài: nhằm đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho học sinh, cụ thể về: cái đẹp, cái bi (ở nhân vật Thúy Kiều), cái hùng, cái đẹp (ở nhân vật Từ Hải) thông qua 2 trích đoạn của Truyện Kiều là “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng”. - Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học vào dạy học đọc hiểu TPVC ở trường THPT, các lý thuyết về: năng lực, năng lực thẩm mỹ; lí thuyết về dạy học tích cực và các PPDH tích cực trong dạy học văn. - Khảo sát thực tế dạy học hai trích đoạn nói trên ở một số trường THPT trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên để thấy thực trạng về năng lực thẩm mỹ của HS và khó khăn của GV khi bồi dưỡng năng lực này cho HS. - Đề xuất các biện pháp để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho HS qua dạy học 2 trích đoạn “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng” - Thực nghiệm sư phạm 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Là hoạt động dạy - học của GV và HS lớp 10 THPT qua hai văn bản “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng”. 11 Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động dạy học của GV và HS về hai văn bản “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng” (SGK Ngữ văn 10, tập 2), đồng thời tiến hành thực nghiệm sự phạm ở trường THPT Lương Phú và trường THPT Phú Bình, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. 5. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu tổng hợp các vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài - Khảo sát chương trình, SGK, sách hướng dẫn GV, các STK - Khảo sát thực tế dạy học ở một số trường THPT đã nêu. - Thống kê, tổng hợp, so sánh các kết quả nghiên cứu. 6. Giả thuyết khoa học Những biện pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho HS về “cái đẹp”, “cái bi” và “cái hùng” thông qua dạy đọc hiểu đoạn trích “Trao duyên” và “Chí khí anh hùng” do tác giả luận văn đề xuất, nếu có tính khả thi và góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở lớp 10, thì luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho GV trong việc đổi mới PPDH Ngữ văn ở THPT theo hướng bồi dưỡng, phát triển năng lực thẩm mỹ cho HS. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Chương 2 Chương 3 12 NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN & THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lí luận - Theo nghiên cứu của các nhà giáo dục thì mục tiêu giáo dục theo định hướng năng lực cho người học trong những năm gần đây đã được quan tâm nhiều hơn. Tại dự thảo đổi mới chương trình và SGK giáo dục phổ thông năm 2015, một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực. Giáo dục theo định hướng phát triển năng lực hiện nay không còn là vấn đề của riêng một quốc nào mà đã trở thành xu hướng giáo dục chung của quốc tế nhằm hướng tới mục tiêu phát triển năng lực người học. Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn bởi định hướng giáo dục này đã thực sự quan tâm đến kết quả đầu ra của hoạt động đào tạo. Cũng bởi thế mà cách hiểu về năng lực cũng có rất nhiều quan điểm, xu hướng khác nhau. Trong phần lớn các tài liệu của nước ngoài thì năng lực được quy vào phạm trù khả năng của con người. Các nghiên cứu trong nước thì lại quy năng lực vào những phạm trù khác. Trong tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn ngữ văn cấp THPT (2014) người ta đã đưa ra quan niệm năng lực chính là “ ” [4,tr.49]. Như vậy năng lực là việc vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố được cá nhân thực hiện nhằm mục đích hoàn thành một loại công việc nào đó. Hay “ 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan