Tiểu luận
BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT NAM- TRUNG
QUỐC, NHÌN LẠI VÀ SUY NGẪM
1
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam- Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông là hai nước có mối
quan hệ văn hóa, kinh tế truyền thống lâu đời. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Trung Quốc là đồng minh trong phe xã
hội chủ nghĩa, đã tận tình giúp đỡ nhân dân Việt Nam trường kỳ kháng chiến
giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Quan hệ giữa hai nước lúc này
hết sức tốt đẹp. Tuy nhiên, sau khi giải phóng miền Nam 30/04/1975, do có
nhiều bất đồng từ nhiều phía không thể hòa giải, quan hệ hai nước càng trở
nên xấu đi. Chiến tranh Việt Nam- Camphuchia và chiến tranh biên giới Việt
Trung đã chính thức đưa mối quan hệ Việt- Trung về “ vạch xuất phát”. Do
những vấn đề lịch sử để lại và do chính sách của hai nước có sự khác biệt
liên quan đến lợi ích quốc gia của hai nước nên cả một thời gian dài những
năm thập kỷ 80 quan hệ Việt- Trung bị đóng băng. Tuy nhiên, vào cuối
những năm 80 do tình hình quốc tế, khu vực cũng như trong nước đã đặt ra
cho cả hai nước yêu cầu bình thường hóa mối quan hệ này. Co thể nói, vào
thời điểm đó, trên thế giới hội nhập và tăng cường hợp tác là xu thế chung
của thời đại, đặc biệt mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước lớn là yêu cầu
bức thiết. Vì vậy, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là vấn đề lớn
được Việt Nam quan tâm. Tuy nhiên, trái lại từ phía Trung Quốc mà nói,
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Vậy tại sao chúng ta lại nóng vội
trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc? Bài tiểu luận sẽ đi sâu
vào phân tích những sai lầm và thiếu sót của Việt Nam trong quá trình đàm
phán tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Từ đó rút ra những
bài học kinh nghiệm cho tương lai.
2
Do hạn chế về mặt thời gian và tài liệu, bài tiểu luận không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô trong khoa
góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
I.Thiếu sót trong quá trình chuẩn bị đàm phán
Bác Hồ đã từng nói “ Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái
tiếng; Chiêng có to thì tiếng mới lớn”. Thật vậy, thực lực của một quốc
gia là nhân tố quan trọng quyết định vị thế, tiếng nói của quốc gia đấy
trên trường quốc tế. Đặc biệt điều đó có ảnh hưởng lớn đến kết quả của
quốc gia trong những cuộc đàm phán song phương và đa phương. Việt
Nam đám phán với Trung Quốc tiến tới bình thường hóa quan hệ hai
nước cuối những năm 80 đầu những năm 90 khi mà thực lực của Việt
Nam còn yếu.
Thật vậy, Sau khi giải phóng đất nước năm 1975, Việt Nam phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn. Nạn diệt chủng Pôn-pốt, chiến tranh biên
giới Việt Trung đã khiến cho nước ta lâm vào tình trạng khó chồng chất.
Về mặt chính trị, nước ta bị cô lập về chính trị và ngoại giao. Ngay cả các
nước ASEAN, là những nước láng giềng, cũng không có cùng quan điểm
với nước ta về vấn đề Campuchia, tất cả các nước này đều phản đối việc
Việt Nam đưa quân vào Campuchia. Mặt khác, chính sách đối ngoại của
Việt Nam lúc đó cũng không nhằm vào việc cải thiện quan hệ với các
nước ASEAN. Trong khi đó Trung Quốc đã lôi kéo các nước lớn khiến
cho Việt Nam gặp phải khó khăn trong việc phát triển quan hệ. Và chính
Việt Nam cũng đã bỏ lỡ cơ hội quan trọng để phát triển quan hệ với các
nước có vị thế lớn trên thế giới. Năm 1977, khi Mỹ bắt đầu có ý định
bình thường hóa quan hệ vô điều kiện với Việt Nam nhưng do thiếu
3
thông tin và hiểu biết về chính trị nội Mỹ chúng ta đã không đánh giá
được hết tình hình, không điều chỉnh kịp thời lập trường đàm phán để
năm bắt cơ hội tiến tới bình thường hóa quan hệ hai nước, từ đó có thể
nâng cao uy tín và tiếng nói của mình trên trường quốc tế. Trái lại, Trung
Quốc đã tận dụng tôt thời cơ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với
Mỹ tháng 12 năm 1978 đã tạo ra những thuận lợi to lớn cho mình. Về
mặt kinh tế,Việt Nam đã dần dần mất đi sự giúp đỡ về tài chính của các
nươc xã hội chủ nghĩa lớn. Chiến tranh đã làm cho Việt Nam bị hao tổn
cả về người và của. Hơn nữa, Việt Nam đang bị cô lập không chỉ về
chính trị-ngoại giao mà còn bị cô lập về kinh tế. Đặc biệt, khi bước vào
giai đoạn đổi mới năm 1986, Việt Nam vấp phải cuộc khủng hoảng kinh
tế kéo dài hai năm (1986-1988) gây ra những cản trở nghiêm trọng đến
sự phát triển của đất nước.
Trong khi đó, Trung Quốc năm 1978 bắt đầu công cuộc cải cách
mở cửa, tất cả các hoạt động đối nội và đối ngoại của Trung Quốc với
chiến lược “4 hiện đại” biến Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu
thế giới, đồng thời xác định vị trí nước lớn của mình trước hết ở Đông
Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương.1 Từ đây, Trung Quốc không ngừng
tăng cường sự ủng hộ của phương Tây, Mỹ, Nhật Bản , đồng thời bình
thường hóa quan hệ với Liên Xô. Với nhiều thủ đoạn, chiêu bài khác
nhau đặc biệt lợi dụng vấn đề Campuchia, Trung Quốc đã thành công
trong việc chia rẽ nội bộ các nước Đông Nam Á, chia rẽ các nước
ASEAN với Việt Nam, chia rẽ nội bộ các nước Đông Dương nhặm hạ
thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Có thể thấy, Việt Nam trong quá trình bình thường hóa với Trung
Quốc đứng ở một vị trí khiêm tốn hơn do thực lực của ta còn yếu. Hơn
1
Hồi ký Trần Quan Cơ, Trang 84
4
nữa chính sách lôi kéo của Trung Quốc đã giúp cho nước này nâng cao vị
thế của mình trên trường quốc tế, đồng thời gián tiếp đẩy Việt Nam vào
con đường bề tắc. Và ngay bản thân Việt Nam cũng tự đánh mất cơ hội
của chính mình khi chưa đưa ra được những quyết sách mang tính chiến
lược.
II. Nóng vội trong quá trình đàm phán
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa xuân
năm 1975, một kỷ nguyên mới đã mở ra trên đất nước ta: hòa bình, độc
lập, thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Tranh thủ tình hình quốc tế thuận lợi ấy, Đảng
và Nhà nước ta đã ra sức mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên
thế giới nhằm phục phụ đắc lực cho công cuộc xây dựng, kiến thiết đất
nước trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam lại
đứng trước những thử thách nghiêm trọng trong quan hệ quốc tế. Cuộc
chiến chống chế độ diệt chủng Pôn Pốt ở Camphuchia và cuộc chiến
tranh biên giới với Trung Quốc đã ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ
đến quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng khu vực mà còn làm
cho các nước trên thế giới hiểu sai về đường lối, chính sách của Việt
Nam. Các thế lực trong và ngoài luôn tìm cách chống phá Việt Nam. Có
thể nói, chưa bao giờ chưa bao giờ chúng ta lại đứng trước tình thế khó
khăn về quan hệ ngoại giao đến như vậy. Chúng ta bị cô lập về chính trị
ngoại giao, kinh tế khó khăn chồng chất.
Trước tình hình đó, vào ĐH Đảng VI (1986), Bộ Chính trị đã
chính thức đưa ra nhiệm vụ là giải quyết vấn đề Campuchia và bình
5
thường hóa quan hệ Việt – Trung. Tất nhiên, xét trên yêu cầu thực tế,
bình thường hóa là một yêu cầu tất yếu, và chỉ có bình thường hóa với
Trung Quốc, Việt Nam mới có thể giải quyết được những nhiệm vụ thời
đại đặt ra cho mình. Nhưng, liệu có phải bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc là yêu cầu hàng đầu mà Việt Nam đã vô tình đặt những bước
chân sai lầm, thiếu suy xét?
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 Liên Xô và hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Thành trì của chủ nghĩa xa hội
không còn nữa, Việt Nam đã mất đi một chỗ dựa vững chắc cả về tinh
thần lẫn vật chất. Giai đoạn 1986-1990 là giai đoạn chứng kiến sự thay
đổi trong chiến lược của cả ba nước lớn Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô với
mục đích cải thiện mối quan hệ đôi một, chủ nghĩa xã hội dần dần xích
lại với chủ nghĩa đế quốc vì mưu lợi cá nhân. Đứng trước tình hình ngày
càng khó khăn này, Việt Nam mong muốn nhanh chóng tìm được đồng
minh thân cận cho mình.Và Trung Quốc là nước mà Việt Nam hướng tới.
Điều đó được thể hiện trong chính sách đối ngoại rộng mở của Đảng và
Nhà nước đã đề ra Đại hội VI của Đảng năm 1986, đặc biệt đã sửa lời nói
đầu của Điều lệ Đảng và lời nói đầu của Hiến Pháp bỏ chỗ Trung Quốc là
ke thù trực tiếp và nguy hiểm nhất 2 và quyết định rút quân khỏi
Campuchia. Điều này đã để lộ sơ hở rằng Việt Nam đang rất cần bình
thường hóa, và Trung Quốc vì thế nghiễm nhiên ở vào thế chủ động trong
quá trình đàm phán.
III. Thiếu sót khi không tận dụng được lợi thế của mình trong quá
trình đàm phán.
2
Hồi ký Trần Quang Cơ, trang 31
6
Trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có 3 vấn đề liên
quan đến biên giới lãnh thổ là: biên giới đất liền, trên vịnh Bắc Bộ và vấn
đề xác định chủ quyền lãnh thổ, thềm lục địa ỏ Biển Đông, trong đó có
hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đây là những vấn đề hết sức nhạy
cảm trong quan hệ hai nước.
Tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước diễn ra từ năm 1951 cho tới nay,
bao gồm cả tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển, xuất phát từ cách
nhìn nhận khác nhau của hai bên về Hiệp định biên giới 1887 giữa Pháp
(đại diện cho Việt Nam) và nhà Thanh. Trên bộ, tranh chấp xảy ra trên
nhiều mảnh lãnh thổ nhỏ dọc biên giới, với tổng diện tích khoảng 60km2 .
Trong những năm 1951-1975, chính phủ Việt Nam Cộng hòa bác bỏ
những tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền lãnh thổ trên bộ và trên
biển. Từ năm 1976, chính quyền Việt Nam (thống nhất) thể hiện lập
trường tương tự. Tranh chấp lãnh thổ giữa hai quốc gia là một trong
những nguyên nhân góp phần làm xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Việt
Trung năm 1979.
Trong khoảng thời gian từ tháng 4 cho tới tháng 8 năm 1978, quan
hệ giữa hai nước trở nên đặc biệt xấu. Cùng với cuộc khủng hoảng Hoa
kiều, vấn đề Campuchia, quan hệ Việt Nam-Liên Xô và các vụ tranh
chấp biên giới, Trung Quốc không còn giữ thái độ kiềm chế mà bắt đầu
lớn tiếng đe dọa, buộc Hà Nội phải chấp thuận các yêu sách từ Trung
Quốc. Trung Quốc bắt đầu tính đến khả năng dùng vũ lực để đối phó với
Việt Nam. Ngày 3 tháng 11 năm 1978, Việt Nam ký kết Hiệp ước Hợp
tác và Hữu nghị với Liên Xô, ngay sau đó, Nhân dân Nhật báo của Trung
Quốc bắt đầu đăng các bài tố cáo Việt Nam tiến hành xâm phạm và khiêu
khích trên biên giới với Trung Quốc.
7
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa ở ngoài khơi Việt
Nam trong biển Đông, từ lâu là lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam. Nhà
nước Việt Nam đã chiếm hữu hai quần đảo đó khi mà nó chưa thuộc chủ
quyền của bất kỳ quốc gia nào3. Cho đến đầu thế kỉ 20 Trung Quốc cũng
chưa bao giờ nêu “yêu sách” về hai quần đảo này. Nhưng đến năm 1974,
Trung Quốc cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa do quân đội chính
quyền Sài Gòn đang canh giữ và năm 1988, chiếm một số bãi đá thuộc
quần đảo Trường Sa là những bộ phận lãnh thổ của nước CHXHCN Việt
Nam. Hành động đó đã xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, làm
cho tình hình trên biển Đông và khu vực căng thẳng.
Ngoài tranh chấp lãnh thổ, buôn lậu xuyên biên giới là vấn đề tiếp
theo mà hai nước chính thức thừa nhận là vấn đề mà hai quốc gia cần
phải giải quyết. Cuối năm 1978, Trung Quốc đưa ra chính sách cải cách mở cửa, nhưng lúc bấy giờ mới chú trọng khu vực ven biển, chưa chú ý
đến mở cửa khu vực biên giới. Bước sang thập kỉ 90, trước tình hình biến
động trên thế giới và trong nước, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách
đối ngoại và bắt đầu mở cửa khu vực ven biên giới, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc buôn bán qua biên giới với các nước láng giềng, trong đó có
Việt Nam. Chính điều này cũng đã tạo điều kiện cho vấn đề buôn lậu qua
biên giới Việt – Trung càng phát triển và trở thành vấn đề đáng lo ngại
trong quan hệ hai nước.
Như vậy, những mâu thuẫn trên đây là những mâu thuẫn cơ bản và
luôn cần được giải quyết trong mối quan hệ giữa hai nước. Đáng lẽ ra
chúng đã được xem xét giải quyết trong tiến trình bình thường hoá quan
hệ Việt – Trung. Nhưng trên thực tế những vấn đề này chưa hề được nhắc
đến trong quá trình đàm phán. Tất cả những gì phía Trung Quốc đưa ra
3
http://vi.wikipedia.org/wiki/Quần_đảo_trường_sa
8
để bàn bạc trong quá trình bình thường hóa lại là vấn đề Campuchia.
Chúng ta đã không bình tĩnh để nhận định tình hình thực tế rằng, sau sự
kiện Thiên An Môn, Trung Quốc cũng đang gặp phải những khó khăn
nhất định trong quan hệ đối ngoại. Trung Quốc bị một số nước phương
Tây cô lập, nội bộ mâu thuẫn gay gắt về các vấn đè đối nội và đối ngoại.
Chúng ta không biết được rằng Trung Quốc cũng đang rất cần bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam để xoa dịu phương Tây. Đáng tiếc là
Việt Nam đã không nhận thức được rõ những điều này và cũng bị đẩy
vào trong vòng tính toán của Trung Quốc, để rồi chỉ chạy theo những
thoả thuận xung quanh vấn đề Campuchia mà quên mất rằng còn những
vấn đề vô cùng bức xúc trong quan hệ hai nước đang cần được giải quyết.
Chính vì những lẽ đó, không hề có bất kì một nguyên tắc chuẩn mực nào
trong suốt quá trình hai nước thực hiện nỗ lực bình thường hoá có liên
quan đến biên giới lãnh thổ, nạn buôn lậu hay vấn nạn Hoa kiều. Tức là
không hề có sự liên quan nào giữa vấn đề bình thường hoá quan hệ với
việc giải quyết các mâu thuẫn còn tồn tại. Đây là một sai lầm của Việt
Nam vì đáng lẽ ra ta đã có thể lợi dụng cơ hội trên bàn đàm phán để lấy
làm điều kiện đặt Trung Quốc vào thế bị động hơn, hay ít ra cũng là có
thể đưa ra các nguyên tắc để có thể giải quyết các tranh chấp nếu có xảy
ra sau này. Tuy nhiên, cần phải nhìn vào thực tế rằng chỉ có phía Việt
Nam là “quên” mất những mâu thuẫn cần giải quyết này còn Trung Quốc
vẫn luôn nhăm nhe đến nó mặc dù không trực tiếp đưa ra trong các thoả
thuận. Thực ra việc Trung Quốc tăng cường lấn ép ta trên bàn đàm phán
cũng chính là vì Trung Quốc đang có ý đồ chiếm hữu toàn bộ vùng Biển
Đông.
Cũng chính vì không giải quyết được các mâu thuẫn còn tồn tại đó,
hay đúng hơn là chưa đưa ra được các nguyên tắc chung thống nhất giải
9
quyết trong tương lai cho nên sau khi bình thường hoá, quan hệ Việt –
Trung thậm chí còn căng thẳng hơn với các mâu thuẫn ngày càng gia
tăng. Các cuộc tranh chấp biên giới lãnh thổ, thay đổi cột mốc biên giới
và đặc biệt gần đây nhất là cuộc tranh chấp chủ quyền trên quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đều cho thấy Việt Nam đã vướng phải những sai
lầm nghiêm trọng trong tiến trình bình thường hoá này. Và vấn đề biên
giới lãnh thổ trên đất liền phải mất gần 20 năm kể từ khi bình thường hóa
quan hệ hai nước (1991-2009) mới giải quyết một cách cơ bản.
IV. Sai lầm trong chính sách của Việt Nam khi tham gia đàm phán
bình thường hoá quan hệ Việt – Trung
1.Nhận thức chủ quan
Hội nghị Thành Đô là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình
bình thường hóa quan hệ Việt Nam- Trung Quốc. Tuy nhiên, chính tại
hội nghị này phía Việt Nam đã bộc nhiều sai lầm thiếu sót mà ảnh hưởng
bất lợi cho Việt Nam. Trần Quang Cơ trong cuốn hồi ký của mình đã
đánh giá “ Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9/1990 hoàn toàn không phải
là một thành tựu đối ngoại của ta, trái lại đó là một sai lầm hết sức đáng
tiếc về đối ngoại”4. Tại hội nghị này chúng ta đã bị “mắc lỡm” với Trung
Quốc, phía Trung Quốc nói sẽ đàm phán cả vấn đề Camphuchia và vấn
đề bình thường hóa với Việt Nam nhưng thực chất chỉ đàm phán về vấn
đề Camphuchia là chính còn vấn đề bình thường hóa giữa hai nước chỉ
nói tới khi đã giải quyết xong vấn đề Camphuchia. Hội nghị Thành Đô
được xem là cuội họp kín giữa hai nước nhưng Trung Quốc đã tiết lộ cho
nhiều nước làm bất lợi cho ta. Điều đáng chú ý là qua hội nghị Thành Đô,
4
Hồi ký Trần Quang Cơ, trang 94
10
Trung Quốc đã dùng chiêu bài chia rẽ nội bộ của ta cũng như quan hệ của
ta với Lào và Campuchia.
Thực chất, chúng ta mắc những sai lầm như vậy là do chúng ta đã
nhận thức sai về Trung Quốc. Ta đã tự ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương
cao ngọ cờ chủ nghĩa xã hội, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc
cho cách mạng Việt Nam cũng như chủ nghĩa xã hội thế giới.
Một mâu thuẫn nữa là sự bất đồng ý kiến trong nội bộ Bộ Chính trị.
Càng gần đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thì càng bộc lộ rõ rệt.
Việc đánh giá tình hình thế giới và đưa ra đường lối đối ngoại trong thời
gian tới không có sự thống nhất giữa bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng.
Nhưng nếu trong việc nhận định tình hình đã gặp khó khăn thì làm sao
đưa ra được quyết sách đúng đắn và toàn vẹn. Ngay sau đó đã có cuộc
họp giữa An ninh, Quốc phòng và Ngoại giao để thống nhất về nhận định
tình hình thế giới. Song kết quả của cuộc họp này chỉ dừng lại ở mấy
điểm lí luận chung chung mà không hề thống nhất trọn vẹn. Trong đã
không ổn thì làn sao đối phó được với bên ngoài, mà nhất là với một đối
thủ mưu mô như Trung Quốc.
Có thể nói “ Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc”
chúng ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng hành động
như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thỏa thuận Thành Đô đàm
làm chậm tiến trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, uy tín
nước ta bị giảm sút đáng kể.
2. Sai lầm trong đường lối đối ngoại cuối những năm 70
Nửa cuối thập niên 1970 là thời kỳ ta chồng chất nhiều sai lầm
nhất về đối ngoại trong lịch sử cách mạng Việt Nam từ 1945. Có thể chỉ
ra bốn sai lầm:
11
Một là, ta không khôn ngoan để duy trì cân bằng quan hệ với Liên
Xô và Trung Quốc – nhân tố cực kỳ quan trọng đảm bảo thắng lợi cho ta
trong kháng chiến chống Mĩ. Việt Nam tin tưởng vào thành trì cách mạng
thế giới là Liên Xô mà quên mất rằng quốc gia láng giềng của chúng ta là
một nước lớn và tất nhiên cũng là một nước XHCN. Chúng ta đã đánh
đồng Trung Quốc với Mỹ, xem Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy
hiểm nhất. Vì vậy, chúng ta đã không đánh giá đúng chiến lược các nước
lớn dẫn đến mất cân bằng quan hệ giữa Trung Quốc với Lien Xô để rồi
sau này lại phải tiến hành bình thường hoá quan hệ với Trung là một điều
hết sức sai lầm.
Hai là, năm 1977 ta bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mĩ
khi mà chính tổng thống Mĩ Carter đã đưa ra vấn đề bình thường hoá một
cách vô điều kiện. Có thể do ý thức hệ chi phối, tâm lý sau cuộc chiến
tranh ngăn cản ta trong việc tiến gần đến quan hệ Mĩ – Việt. Nhưng cũng
phải thừa nhận rằng do mải mê quan tâm đến hệ thống XHCN anh em mà
chúng ta quên đi lợi ích của việc thiết lập quan hệ với Mĩ.
Ba là, đối với ASEAN, ta cũng đánh giá sai khi không gia nhập
khối này ngay từ năm 1976 khi mà cả 6 quốc gia của ASEAN lúc đó đều
muốn Việt Nam tham gia vì lợi ích của mỗi quốc gia và của cả khu vực.
Hậu quả của hành động này là khi xảy ra vấn đề Campuchia, cả khối
ASEAN đã chống đối và phản bác Việt Nam kịch liệt.
Bốn là, dính líu sâu và lâu vào vấn đề Campuchia. Cũng chính vấn
đề Campuchia mà chúng ta đã bị các nước cô lập về chính trị và ngoại
giao. Các nước trong khu vực “quay lưng” lại với Việt Nam. Trung Quốc
có cớ để gây ra cuộc chiến tranh biên giới Việt- Trung gây cho ta nhiều
tổn thất. Uy tín quốc tế của ta bị tổn hại nghiêm trọng.
12
Tóm lại, những sai lầm nêu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, gây
thiệt hại lớn cho ta về đối ngoại, về an ninh quốc phòng, về kinh tế trong
một thời gian dài để rồi khi đàm phán với Trung Quốc về vấn đề bình
thường hóa chúng ta gặp phải nhiều khó khăn và chịu nhiều thiệt thòi.
V.
Những bài học rút ra trong quá trình bình thường hóa
Thứ nhất, nóng vội duy ý chí là những sai lầm đáng tiếc của Việt Nam
trong quá trình bình thường hóa với Trung Quốc. Chính do ý thức hệ xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta đã đánh giá không đúng về Mỹ và các nước
ASEAN từ đó bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ sớm với Mỹ cũng
như việc gia nhập ASEAN. Từ đó, chúng ta đã đánh mất cơ hội nâng
cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Trái lại, cùng với xung đột phía
Tây Nam với Pôn Pốt, chiến tranh biên giới với Trung Quốc đã làm cho
các nước hiểu sai về đường lối chính sách đối ngoại của ta, khiến cho
chúng ta bị cô lập về chính trị và ngoại giao.
Thứ hai, quá trình bình thường hóa quan hệ Việt- Trung cho thấy bài
học quan hệ một nước lớn và một nước nhỏ. Trung Quốc là một nước
xã hội chủ nghĩa lớn, với những cải cách mở cửa vào cuối những năm
70 và đầu những năm 80 đang khiến Trung Quốc trở nên hùng mạnh.
Trung Quốc với mong muốn trở thành quốc gia giàu mạnh nhất thế giới
với tầm ảnh hưởng lớn, đối trọng với Mỹ thì bình thường hóa quan hệ
với Việt Nam là một trong những chiến lược quan trọng của Trung
Quốc.
13
KẾT LUẬN
Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là một trong những
thành công lớn trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Bình thường hóa quan hệ Việt- Trung có ý nghĩa to lớn đối với quá trình
phát triển của hai nước, đánh dấu một thời kỳ mới trong quan hệ hai nước
mà sau này lãnh đạo hai nước đã khái quát thành phương châm 16 chữ
vàng “ Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối
tác tốt”, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng căn bản của nhân dân hai
nước. Gần 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt- Trung đã trôi qua,
nhưng mỗi khi nhìn lại quá trình bình thường hóa chúng ta lại càng thấy
rõ hơn những sai lầm và thiếu sót của ta. Vì quá nôn nóng trong việc cải
thiện quan hệ mà Việt Nam đã nóng vội và chủ quan trong đàm phán, kết
quả là đã phải đánh đổi việc “được lòng” Bắc Kinh cho việc trì trệ trong
giải quyết vấn đề Campuchia và thậm chí uy tín của ta còn bị suy giảm
trên trường quốc tế. Đặc biệt những vấn đề còn tồn tại giữa hai nước cho
đến thời điểm hiện nay vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để có ảnh
hưởng sâu sắc đến quan hệ hai nước. Những bài học về nhận định tình
14
hình và nắm bắt thời cơ, đấu tranh một cách triệt để vì lợi ích quốc gia
dân tộc là những bài học vô cùng quý cho công tác đối ngoại mọi thời kỳ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Vũ Tùng, Chính sách đối ngoại Việt Nam, tập II (1975 –
2006), Học viện Quan hệ quốc tế
2. Vũ Dương Huân, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới,
Học viện Quan hệ quốc tế
3. Trần Quang Cơ, Hồi ký Trần Quang Cơ, 2003
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 13/BCT, ngày 20/5/1988
5. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 2/2002, 5/2002
6. http://www.mofa.gov.vn
15
- Xem thêm -