ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ HỒNG LOAN
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH TRÍ THỨC
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ HỒNG LOAN
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH TRÍ THỨC
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:
60 22 85
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐỖ THỊ THẠCH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Đỗ
Thị Thạch
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2014.
Tác giả luận văn
Trần Thị Hồng Loan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1. BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH TRÍ THỨC HÀ NỘI - CƠ
SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................................ 10
1.1.
Quan niệm về bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình trí
thức ........................................................................................................... 10
1.1.1. Quan niệm và nội dung của bình đẳng giới .......................................... 10
1.1.2. Bình đẳng giới trong gia đình trí thức ................................................... 16
1.2.
Tầm quan trọng của việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình trí
thức hiện nay............................................................................................. 20
1.2.1. Xuất phát từ vị trí quan trọng của gia đình đối với phát triển cá
nhân và xã hội ......................................................................................... 20
1.2.2. Xuất phát từ vai trò của trí thức đối với phát triển xã hội ................. 25
1.2.3. Xuất phát từ vị trí, vai trò của thành phố Hà Nội trong phát
triển đất nước, thực hiện bình đẳng giới .............................................. 27
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH TRÍ THỨC Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY .......................................................... 34
2.1.
Đặc điểm gia đình trí thức Thành phố Hà Nội................................... 34
2.1.1. Gia đình trí thức ở Hà Nội xuất thân từ nhiều nguồn khác nhau ..........34
2.1.2. Gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội thường là gia đình ít thế
hệ cùng sinh sống ............................................................................. 35
2.1.3. Gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội có địa bàn cư trú trải khắp
thành phố nhưng tập trung nhiều ở các quận nội thành................... 37
2.1.4. Mô hình nhà ở của gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội đa dạng........38
2.2.
Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong gia đình trí thức ở
thành phố Hà Nội hiện nay .................................................................... 39
2.2.1. Trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình ................... 39
2.2.2. Trong việc tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực và tham gia các
quyết định của gia đình .......................................................................... 58
2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới ở gia đình trí
thức thành phố Hà Nội hiện nay ........................................................ 62
Chương 3. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GÓP PHẦN
THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH TRÍ THỨC Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY .......................................................... 72
3.1.
Quan điểm cơ bản góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình
trí thức ở Thành phố Hà Nội hiện nay ..................................................... 72
3.1.1. Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình trí thức gắn liền với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội ............72
3.1.2. Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình trí thức thành phố Hà
Nội gắn liền với chiến lược xây dựng gia đình văn hóa và vì sự
tiến bộ của phụ nữ của Thành phố ................................................... 74
3.1.3. Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình trí thức ở thành phố Hà
Nội là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội
đặc biệt Hội liên hiệp phụ nữ, Ban vì sự tiến bộ phụ nữcác cấp,
các ngành, các đơn vị nơi các trí thức làm việc ............................... 76
3.2.
Những giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong
gia đình trí thức ở Thành phố Hà Nội hiện nay ........................................ 79
3.2.1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của bình đẳng
giới trong gia đình trí thức đối với bình đẳng giới trong toàn
Thành phố................................................................................................. 79
3.2.2. Tăng cường các dịch vụ y tế, giáo dục, gia đình nhằm tạo điều
kiện thuận lợi chăm sóc sức khỏe, chia sẻ việc nhà cho nữ trí
thức ........................................................................................................... 82
3.2.3. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đồng
thời đẩy mạnh sự tham gia của các tổ chức xã hội đặc biệt là
Hội liên hiệp phụ nữ các cấp, Hội nữ trí thức trong việc thực
hiện bình đẳng giới........................................................................... 84
3.2.4. Tăng cường việc thực hiện pháp luật và chính sách bình đẳng
giới trong gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội .............................. 87
3.2.5. Tạo điều kiện thuận lợi để nữ trí thức học tập, nâng cao trình độ
từ đó có bình đẳng trong cống hiến ngoài xã hội tạo điều kiện
cho bình đẳng giới trong gia đình .................................................... 92
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 97
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 104
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự tiến bộ của con người được xem là tiêu chuẩn cao nhất
của sự phát triển xã hội. Sự phát triển của xã hội đòi hỏi phải đem lại công
bằng, bình đẳng cho tất cả mọi người (cả nam và nữ). Từ cuối thế kỷ XX,
bình đẳng giới là vấn đề thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà khoa học cũng
như quản lý trên thế giới, nhờ đó bình đẳng giới đã có nhiều tiến bộ quan
trọng cả trong nhận thức và trong hành động thưc tiễn trọng phạm vi của quốc
gia và quốc tế. Ở Việt Nam, tư tưởng về bình đẳng giới đã có ngay từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và được thể hiện trong Văn kiện và Hiến
pháp đầu tiên của Đảng, Nhà nước, trong đó khẳng định: phụ nữ và nam giới
được bình đẳng với nhau trên mọi phương diện. Từ đó đến nay, tư tưởng về
bình đẳng nam nữ tiếp tục được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chỉ đạo. Kể
từ khi Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng chống bạo hành gia đình ra đời và
được triển khai trên thực tế thì bình đẳng giới ở nước ta có biến chuyển tích
cực theo hướng phụ nữ bình đẳng hơn với nam giới.
Tuy nhiên, trên thực tế, bất bình đẳng giới vẫn tồn tại khá rõ nét. Đặc
biệt trong gia đình, sự bất bình đẳng vẫn diễn ra với nhiều hình thức và mức
độ khác nhau. Nam giới vẫn tiếp tục được đề cao, coi trọng hơn phụ nữ.
Những năm gần đây, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về bình
đẳng giới trong gia đình công nhân, gia đình nông dân, gia đình dân tộc thiểu
số... nhưng hầu như chưa có nghiên cứu nào bàn về bình đẳng giới trong gia
đình trí thức, bởi vì, hầu hết các nhà nghiên cứu cũng như phần lớn người dân
đều có chung nhận thức cho rằng ở gia đình công nhân, nông dân, dân tọc thiểu
số... bất bình đẳng giới còn rất phổ biến và nặng nề do trình độ học vấn, nhận
thức của các thành viên còn hạn chế, kinh tế khó khăn, còn trong gia đình trí
thức, bất bình đẳng giới có lẽ rất ít xảy ra. Gia đình trí thức Việt Nam là bộ
1
phận gia đình có trình độ học vấn cao, đóng góp tích cực trong việc xây dựng
đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hầu hết
trong gia đình trí thức sự chia sẻ giữa vợ - chồng, nam - nữ về vai trò, trách
nhiệm trong công việc gia đình cũng như công việc xã hội là khá bình đẳng.
Song, trên thực tế, việc thực hiện bình đẳng giới của phụ nữ trí thức trong gia
đình vẫn còn rất nặng nề và mang nhiều sắc thái. Phụ nữ vẫn là người phải đảm
nhận phần lớn các chức năng cơ bản của gia đình: từ chức năng kinh tế, sinh
sản đến chăm sóc các thành viên, giáo dục con cái... Tình trạng bạo hành tưởng
như chỉ diễn ra trong gia đình có trình độ thấp song ở gia đình trí thức vẫn diễn
ra, thậm chí có tính chất sâu sắc hơn. Thực tế, phụ nữ trí thức cũng bị bạo hành
dưới tất cả hình thức, nhiều nhất là bạo hành về tinh thần. Song do vị trí xã hội,
do tâm lý “xấu chàng, hổ thiếp”... phụ nữ trí thức ít bộc lộ hậu quả của bạo
hành ra ngoài. Chính vì vậy, nghiên cứu bình đẳng giới trong gia đình trí thức
có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó không chỉ cung cấp thực trạng bình đẳng giới
trong gia đình trí thức mà còn chỉ ra rằng, bất bình đẳng giới không chỉ diễn ra
trong các gia đình có học vấn thấp mà cả trong gia đình có học vấn cao, từ đó
đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế sự bất bình đẳng, góp phần tạo dựng
một thế hệ gia đình trí thức biết đề cao giá trị bình đẳng giới, làm tấm gương để
định hướng, cổ vũ, động viên cho các gia đình khác noi theo. Hơn thế, con cái
sinh sống trong gia đình trí thức do được hưởng thành quả của bình đẳng giới
từ cha mẹ, họ sẽ là những lớp người đi tiên phong trong việc thực hiện bình
đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội.
Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Cùng với xu
thế hội nhập quốc tế, Hà Nội đang có nhiều chuyển biến. Là trung tâm, Hà Nội
tập trung nhiều gia đình trí thức sinh sống và làm việc, được tiếp thu sớm nhất
những giá trị bình đẳng của thế giới, do có trình độ cao về học vấn, về nhận
thức... nên hầu hết trong các gia đình trí thức ở Hà Nội, mối quan hệ giới giữa
nam - nữ, vợ - chồng khá tiến bộ theo hướng: bình đẳng, tôn trọng, chia sẻ.
2
Song, bên cạnh đó, gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội do chịu ảnh
hưởng sâu sắc của gia đình truyền thống và một bộ phận không nhỏ gia đình
trí thức xuất thân từ nông thôn nên vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư
tưởng phong kiến, nho giáo. Chính vì vậy, sự bất bình đẳng giới trong gia
đình trí thức ở Hà Nội vẫn diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau,
ảnh hưởng trực tiếp và không nhỏ tới việc xây dựng gia đình văn hóa Thủ đô,
sự tiến bộ của phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới của cả nước hiện nay.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài Bình đẳng giới trong gia đình
trí thức ở thành phố Hà Nội làm luận văn tốt nghiệp mong muốn góp phần
đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường vấn đề bình đẳng giới cho gia đình
trí thức ở Hà Nội hiện nay, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới toàn xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ngoài một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin nghiên cứu
về gia đình, bình đẳng giới; một số ngành luật của Nhà nước ta như Luật Hôn
nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình,
tác giả luận văn còn tập trung nghiên cứu một số công trình của một số tác giả
liên quan đế gia đình và bình đẳng giới tiêu biểu như sau:
Lê Thi (1998) “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam”,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội, là một công trình nghiên cứu đã chỉ rõ thực trạng đời
sống lao động nữ trong giai đoạn đổi mới của đất nước và những vấn đề cần
quan tâm giải quyết.
Trung tâm Nghiên cứu gia đình và phụ nữ (1998-2000) “Điều tra cơ bản
về gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đề tài chỉ ra sự biến đổi các mối quan hệ cơ bản
trong gia đình như quan hệ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Qua đó phân tích, làm rõ
quan hệ giới trong gia đình cũng có sự chuyển biến theo một cách rõ rệt.
Trần Thị Thu (2003) “Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” (phân tích tình hình tại Hà Nội), Nxb Lao động xã
3
hội, Hà Nội. Cuốn sách đã chỉ ra, đất nước đã và đang tạo cơ hội tìm kiếm
việc làm cho lao động nữ trong các khu vực kinh tế với nhiều ngành nghề đa
dạng và phong phú, nhưng cũng đặt ra những khó khăn tìm kiếm việc làm, mà
người thiệt thòi là lao động nữ.
Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Gia đình Việt
Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kì CNH, HĐH đất nước”, Nxb
KHXH, Hà Nội. Các tác giả công trình nghiên cứu này khẳng định vai trò to
lớn của người phụ nữ trong gia đình, đóng góp của họ cũng như sự cần thiết
phải giải phóng họ khỏi sự bất bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội.
Mai Huy Bích (2003), “Xã hội học gia đình”, Nxb KHXH, Hà Nội.
Tiếp cận gia đình dưới góc nhìn xã hội học, tác giả đã phân tích cơ cấu gia
đình, khảo sát sự diễn biến, tiến hóa và thay đổi của gia đình theo thời gian, từ
đó tác giả chỉ ra sự vận động, biến đổi của gia đình trong mối quan hệ với
biến đổi kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Vũ Tuấn Huy (2003) có cuốn sách “Mâu thuẫn vợ chồng trong gia
đình và những yếu tố ảnh hưởng”, Nxb KHXH, Hà Nội, tác giả gợi mở cho
bạn đọc kiểm soát và giải quyết các xung đột. Xem mâu thuẫn không phải là
có ảnh hưởng tiêu cực phá vỡ hệ thống xã hội.
Mai Quỳnh Nam (2004), (chủ biên): “Gia đình trong tấm gương xã hội
học”, Nxb, KHXH, Hà Nội. Đây là công trình được tập hợp từ những nghiên
cứu của tác giả trong Viện Xã hội học và các công tác viên của Viện về gia
đình. Các tác giả trong cuốn sách đã đề cập đến cấu trúc gia đình và vấn đề
giới; chức năng kinh tế gia đình; chức năng sinh đẻ của gia đình; gia đình và
các ảnh hưởng văn hóa; sự biến đổi và các quan hệ trong gia đình.
Dương Thị Minh (2004),“Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ
trong gia đình hiện nay”, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến những
nhân tố tác động đến gia đình, đặc điểm cơ bản của gia đình và vai trò của
4
người phụ nữ trong gia đình; đồng thời dự báo các xu hướng biến đổi của gia
đình Việt Nam hiện nay.
Đỗ Thị Thạch (2005), “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb CTQG, Hà Nội. Từ việc làm
rõ quan niệm về trí thức, trí thức nữ; những cơ sở khẳng định phẩm chất trí
tuệ cũng như yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của phụ nữ, tác giả đã đi
sâu phân tích sự hình thành, đặc điểm của nguồn lực trí thức nữ Việt Nam,
những đóng góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và đất nước... Đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đặng Phương Kiệt (2006), “Gia đình Việt Nam các giá trị truyền thống
đến những vấn đề tâm - bệnh lý xã hội”, Nxb Lao động Hà Nội. Tác giả đã
đánh giá xác thực các truyền thống quí báu của gia đình Việt Nam; nêu và
phân tích bức tranh hiện thực về gia đình Việt Nam và những thách thức cần
phải vượt qua. Đây cũng chính là lời nhắn gửi tới các nhà hoạch định chính
sách cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến gia đình, trẻ em.
Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quí (2007), “Gia đình học”, Nxb CTQG,
Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến gia đình Việt Nam trước những thách thức của
sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa; đồng thời phân tích mối quan hệ giới
- gia đình và công cuộc phát triển; chỉ ra những sai lệch giá trị gia đình hiện
nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của gia đình trong xã hội
hiện đại.
Vũ Ngọc Khánh (2007), “Văn hóa gia đình Việt Nam”, Nxb Thanh
niên, Hà Nội. Tác giả đã khẳng định có một văn hóa gia đình trong nền văn
hóa Việt Nam, tác giả cũng chỉ ra rằng văn hóa gia đình Việt Nam có được
dựa trên cơ sở dân gian và tiếp thu nhiều yếu tố ngoại lai khác, ảnh hưởng của
tôn giáo, triết học, văn học nghệ thuật...
5
Phan Thanh Khôi - Đỗ Thị Thạch: (đồng chủ biên) “Những vấn đề
giới: từ lịch sử đến hiện đại”. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007. Công
trình này đã trang bị những kiến thức cơ bản về giới như: vấn đề giới trong
kinh điển Mác xít; vấn đề giới trong đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước Việt Nam; vấn đề giới trong thông tin đại chúng; vấn đề
giới trong sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Trịnh Quốc Tuấn - Đỗ Thị Thạch: (đồng chủ biên) “Khoa học giới
những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội,
2008. Công trình tập hợp những bài viết của các tác giả bàn về thực trạng vấn
đề giới trong một số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Đề tài đã cung cấp
những vấn đề lý luận thực tiễn về giới cho việc nghiên cứu về bình đẳng giới
ở Việt Nam hiện nay.
“Tác động của toàn cầu hóa đối với việc thực hiện bình đẳng giới ở
Việt Nam hiện nay”, PGS. TS. Đỗ Thị Thạch (2010). Đề tài khoa học cấp cơ
sở đã đi sâu phân tích những tác động của toàn cầu hóa đối với bình đẳng giới
trong gia đình trên một số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Từ đó, đưa ra
những giải pháp chủ yếu để phát huy sự tác động tích cực, hạn chế sự tác
động tiêu cực nhằm thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
"Về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng Đại hội XI của
Đảng", PGS. TS. Đỗ Thị Thạch (2011), Tạp chí Cộng sản số 56. Tác giả đã
phân tích và làm sáng tỏ vấn đề nhận thức của Đảng ta về vai trò của gia đình
và xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới và làm rõ những
giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của Đảng.
Ảnh hưởng của một số tín ngưỡng, tôn giáo tới bình đẳng giới ở Việt
Nam hiện nay, Đỗ Thị Thạch (2012). Đề tài khoa học cấp cơ sở đã đi sâu
phân tích làm rõ tác động tích cực, tiêu cực của một số tín ngưỡng, tôn giáo
tới việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam, trong đó chỉ rõ đạo thờ Mẫu ở
Việt Nam là một trong những căn cứ thực tiễn có ảnh hưởng rất tích cực đến
6
vị trí, vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam so với nam giới hiện nay. Còn tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên lại có tác động không mấy tích cực tới vai trò của
phụ nữ trong gia đình. Đối với đạo Phật vừa có tác động tích cực, vừa có
những hạn chế nhất định tới bình đẳng giới.
Ngoài ra, còn có hàng trăm bài viết mỗi năm đã được đăng tải trên các
sách báo, tạp chí nghiên cứu về gia đình, gia đình truyền thống và xây dựng
gia đình văn hóa trong giai đoạn hiện nay như: "Gia đình Việt Nam hiện nay:
truyền thống hay hiện đại?" của TS. Nguyễn Thị Thường, Tạp chí Lý luận
chính trị số 253/1999; "Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa trong
thời kỳ hội nhập" của ThS. Trần Thị Tuyết Mai, Tạp chí Cộng sản 09/2008;
Kết quả nghiên cứu của các đề tài trên là những tài liệu tham khảo quý
giá cho việc nghiên cứu về bình đẳng giới trong gia đình. Song những công
trình đó đề cập đến vấn đề giới và bình đẳng giới trong gia đình ở phạm vi
rộng, có tính khái quát cao chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu vấn đề bình đẳng
giới trong gia đình trí thức nói chung, ở Hà Nội nói riêng. Trước tình hình đó,
tác giả chọn đề tài “Bình đẳng giới trong gia đình trí thức ở thành phố Hà
Nội hiện nay” với mong muốn góp một phần công sức nhỏ của mình vào
công tác giải phóng phụ nữ cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc thực
hiện bình đẳng giới trong gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội hiện nay, luận
văn đề xuất một giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong gia
đình trí thức ở thành phố Hà Nội làm tấm gương cổ vũ, định hướng thực hiện
bình đẳng giới cho các gia đình khác hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận cho việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình
trí thức hiện nay.
7
- Phân tích thực trạng việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình trí
thức ở thành phố Hà Nội hiện nay và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy bình đẳng giới
trong gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ giới trong gia đình, đặc biệt
là mối quan hệ giữa vợ và chồng, con trai/con gái trong gia đình trí thức ở
thành phố Hà Nội hiện nay (việc thực hiện bình đẳng trong gia đình).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát số liệu và phân tích trong giới hạn gia đình trí thức ở
thành phố Hà Nội từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986) cho đến nay
(chủ yếu là gia đình trí thức sống ở các quận nội thành).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về bình đẳng
giới trong gia đình trí thức. Đồng thời, luận văn cũng sử dụng một số tư liệu,
các công trình đã được tuyên bố liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận mác xít, luận văn sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều
tra xã hội học.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Từ việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong
gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội, luận văn chỉ ra nguyên nhân của những
tồn tại và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy bình đẳng giới
8
trong gia đình trong thời gian tới, tạo tiền đề quan trọng xây dựng gia đình
thực sự bình đẳng, tiến bộ.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Với các đóng góp mới về mặt khoa học trên đây, luận văn góp phần
làm cơ sở lý luận, căn cứ thực tiễn cho việc hoạch định chính sách về bình
đẳng giới, gia đình, phụ nữ ở thành phố Hà Nội.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến vấn đề gia đình, bình đẳng giới, phụ nữ trí
thức trong các chuyên ngành có liên quan.
7. Kết cấu chính của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương 7 tiết.
Chương 1: Bình đẳng giới trong gia đình trí thức Hà Nội - cơ sở lý luận
và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện
bình đẳng giới trong gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy
bình đẳng giới trong gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội hiện nay.
9
Chương 1
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH TRÍ THỨC HÀ NỘI
- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Quan niệm về bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình
trí thức
Con người luôn vươn tới khát vọng về một xã hội bình đẳng, trong đó
có bình đẳng giới. Muốn có bình đẳng giới ngoài xã hội thì phải bắt đầu thực
hiện bình đẳng giới trong gia đình, bởi gia đình là tế bào của xã hội. Để có
nhận biết về bình đẳng giới trong gia đình trí thức ở thành phố Hà Nội cần
tiếp cận từ một số cơ sở lý luận sau đây.
1.1.1. Quan niệm và nội dung của bình đẳng giới
1.1.1.1. Quan niệm về giới
Mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới, sự giống và khác nhau giữa họ
đó là vấn đề muôn thủa, có từ xa xưa khi loài người mới xuất hiện. Là con
người, phụ nữ và nam giới gống nhau nhưng họ lại khác nhau về đặc điểm
của cơ thể tự nhiên, đồng thời cũng khác nhau trong cách ứng xử do ảnh
hưởng của các mối quan hệ xã hội.
Giới là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân chủng học, chỉ sự khác
biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm
và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ. Điều 5 của
Luật Bình đẳng giới (2006) đã chỉ rõ: “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của
nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội” [74, tr.8].
Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công
lao động, phân chia các nguồn của cải vật chất và tinh thần, tức là cách đáp
ứng nhu cầu của nam và nữ trong xã hội. Theo quan niệm và thói quen đã có
từ lâu đời ở nhiều nước, nhiều khu vực thì phụ nữ phải làm hầu hết các công
việc trong nhà như nấu ăn, chăm sóc con, phục vụ chồng… Còn nam giới có
10
trách nhiệm lao động sản xuất để nuôi gia đình và làm các công việc xã hội.
Khi sinh ra con người chưa có trong bản thân sự phân biệt giới mà họ dần tiếp
thu và chấp nhận từ nền nếp gia đình, quy ước của xã hội và chuẩn mực của
nền văn hóa.
Khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên quy định.
Nó ổn định, thậm chí, hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về mặt
không gian và thời gian. Chẳng hạn, phụ nữ trong mọi thời đại, mọi chế độ
chính trị, mọi nền văn hóa đều giống nhau ở khả năng mang thai và sinh sản.
Còn nói đến giới là nói đến địa vị xã hội, thái độ và hành vi ứng xử giữa nam
và nữ do hoàn cảnh, điều kiện, văn hóa, xã hội… tạo nên. Địa vị, thái độ và
hành vi đó không bất biến mà thay đổi theo sự thay đổi của hoàn cảnh, điều
kiện xã hội, văn hóa.
Giới và giới tính có quan hệ chặt chẽ với nhau. Giới tính là tiền đề sinh
học giới, là dấu hiệu đầu tiên và lâu dài để phân biệt nam, nữ. Không nên và
không thể xem nhẹ sự khác biệt về giới tính giữa nam, nữ. Trái lại, cần tìm
hiểu rõ những sự khác biệt này vì điều đó cho phép người ta hiểu được đầy đủ
hơn năng lực, sở trường, nhu cầu riêng của nam, nữ để có sự phân công lao
động phù hợp nhằm phát huy năng lực và đáp ứng đúng hơn nhu cầu riêng
của nam và nữ.
Hiểu rõ vai trò của giới và giới tính trong mối quan hệ qua lại là điều
cần thiết để tổ chức và triển khai sự phân công lao động hợp lý. Tuy thế cần
thấy vai trò của từng nhân tố và quan hệ giữa chúng không đơn giản và luôn
thay đổi do tác động của hoàn cảnh xã hội, văn hóa, điều đó được biểu hiện rõ
ở thời kỳ đầu của lịch sử loài người, ở thời kỳ này, nhân tố giới tính chi phối
mạnh hơn, bởi con người sống theo bản năng tự nhiên, còn quan hệ xã hội thì
mới sơ khai. Đặc điểm tự nhiên của con người lúc đó tác động mạnh hơn so
với tác động của quan hệ xã hội. Do vậy, đặc điểm giới tính của nhóm xã hội
nào phù hợp với tính chất, trình độ của nền sản xuất thì nhóm đó tự nhiên có
11
được vị trí cao hơn. Ví dụ, thời kỳ đầu tiên của lịch sử loài người, đặc điểm
giới tính của phụ nữ phù hợp hơn với nền kinh tế hái lượm và trồng trọt và đó
chính là cơ sở tự nhiên của chế độ mẫu quyền. Khi xã hội chuyển sang nền
kinh tế lấy chăn nuôi săn bắn là chính thì đặc điểm giới tính của đàn ông tỏ ra
phù hợp và họ đã giành được vị trí thống trị của phụ nữ trước đó và chế độ
phụ quyền được xác lập.
Từ khi chế độ phụ quyền được xác lập, đàn ông với ưu thế sẵn có đã
buộc xã hội chấp nhận quan niệm và cách sắp xếp của họ. Điều đó được nâng
lên thành hệ tư tưởng và được thể chế hóa thành pháp luật, lâu dần thành thói
quen, thành nếp sống, phong tục tập quán… Trong xã hội, người ta thường
lấy sự khác biệt về giới tính để giải thích sự khác biệt về giới. Các quan niệm
rập khuôn, những thói quen và những điều mà xã hội chấp nhận thường được
coi là thước đo hành vi, là chuẩn mực đánh giá phẩm chất của mỗi giới.
Những tác động này làm duy trì và tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa nam
giới và nữ giới trong xã hội.
Từ mối quan hệ giữa giới và giới tính cho thấy giữa nam và nữ có
những đặc trưng hết sức khác nhau về mặt tự nhiên và mặt xã hội. Sự khác
biệt tự nhiên giữa nam và nữ mang tính bẩm sinh, không thể thay đổi được,
đó là sự hài hòa mà tạo hóa đã ban cho loài người, để bảo tồn nòi giống.
Ngược lại sự khác biệt xã hội giữa nam và nữ do xã hội tạo ra đã đưa tới sự
bất bình đẳng giữa nam và nữ. Do vậy, bất bình đẳng giới thực chất là sự bất
bình đẳng xã hội, xóa bỏ bất bình đẳng giới là rất cần thiết nhằm thay đổi
tương quan địa vị xã hội giữa nam và nữ, thực hiện bình đẳng giới.
1.1.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới và nội dung bình đẳng giới
Bình đẳng giới là khái niệm biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội đối
với nam và nữ; là môi trường trong đó có cả nữ giới và nam giới được hưởng
vị trí ngang nhau, họ có các cơ hội bình đẳng để phát triển đầy đủ tiềm năng
của mình nhằm cống hiến cho sự phát triển quốc gia và được hưởng lợi từ các
12
kết quả đó [85]. Luật Bình đẳng giới (2006) tại Điều 5 chỉ rõ: Bình đẳng giới
là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội
phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó [74, tr.2]. Điều quan
trọng nhất, bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và phụ nữ được hưởng các
thành quả một cách bình đẳng.
Nếu như cả phụ nữ và nam giới cùng có điều kiện bình đẳng để phát
huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng
để tham gia, đóng góp và hưởng thụ từ các nguồn lực của xã hội là quá trình
phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng
thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội, thì xã hội đó đã đạt được
bình đẳng giới. Nếu những tiêu chí này không được xác lập có nghĩa là trong
xã hội đang tồn tại bất bình đẳng giới.
Tuy nhiên, việc đối xử như nhau, cơ hội như nhau không đem lại kết
quả như nhau đối với giới nữ và giới nam. Vì vậy, bình đẳng giới cần được
hiểu là sự đối xử ngang quyền giữa hai giới nam và nữ có xét đến những đặc
điểm giống nhau và khác nhau của mỗi giới, và được điều chỉnh bởi các chính
sách đối với từng giới một cách hợp lý. Mặt khác, không nên hiểu bình đẳng
giới theo cách đơn giản là nam giới và nữ giới tham gia như nhau trong tất cả
các hoạt động, cũng không phải phương châm phụ nữ “vùng lên” đòi hỏi
quyền lợi ngang bằng nam giới, bất chấp sự khác biệt về đặc tính sinh học
giữa nam và nữ. Hơn nữa, việc không phân định rõ ràng sự khác biệt mang
tính chất giới và giới tính lại chỉ thấy có một phía là không bình đẳng nghiêng
về nữ, chắc chắn sẽ dẫn đến hệ quả ngược lại với mong muốn ban đầu mang
tính nhân văn sâu sắc của nhận thức giới và cách giải quyết sẽ chỉ là: hoặc
hoán vị vai trò giới một cách máy móc những gì phụ nữ có và phải làm thì
đem chuyển cho nam giới và ngược lại, hoặc đi đến chủ nghĩa bình quân giữa
nam và nữ để chỉ chia nhau cơ hội, lợi ích, trách nhiệm…
13
Bình đẳng giới theo yêu cầu của xã hội hiện nay còn cần phải gắn với
quan điểm phát triển, sự tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nó đòi hỏi
một sự chuyển biến đồng bộ của tất cả mọi thành phần, mọi lứa tuổi, nhưng
trước hết đối với nam giới trong hàng loạt vấn đề: từ nhận thức đến thái độ
ứng xử xã hội và hành vi cụ thể trong mối quan hệ với phái nữ. Để có thể đáp
ứng được yêu cầu trên, cần đảm bảo hai yếu tố: Thứ nhất. Đó là sự tôn trọng
giá trị nhân phẩm (quyền con người toàn diện) cũng như giá trị lao động của
lao động nam cũng như lao động nữ trong những đóng góp của họ đối với xã
hội và gia đình. Thứ hai. Là cả lao động nữ lẫn lao động nam đều có trách
nhiệm, chia sẻ với nhau trong thực hiện công việc gia đình và công việc
chung của xã hội.
Sự phát triển bền vững của xã hội là lấy con người là mục tiêu và là
động lực. Quá trình phát triển sẽ diễn ra chậm chạp nếu như một nửa của nhân
loại là phụ nữ vẫn bị hạn chế hoặc loại trừ khỏi quá trình phát triển. Chính vì
nhận thức được điều này mà vấn đề bình đẳng giới đang là vấn đề có tính
quốc tế, là mối quan tâm của toàn nhân loại. Năm 1979 Liên hợp quốc đã
thông qua công ước quốc tế về “Xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ” còn gọi
là công ước CEDAW. Lần đầu tiên các quyền con người của phụ nữ được đề
cập một cách toàn diện nhất trong công pháp quốc tế.
Theo tinh thần của CEDAW, nội dung bình đẳng giới bao gồm các lĩnh
vực:
1- Bình đẳng về chính trị;
2- Bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế việc làm;
3- Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục;
4- Bình đẳng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe;
5- Bình đẳng trong vấn đề hôn nhân và gia đình.
Tùy theo đặc điểm của mỗi quốc gia mà có các thứ tự ưu tiên khác
nhau. Để đảm bảo thực hiện đầy đủ, đúng đắn nội dung bình đẳng giữa hai
14
giới nam và nữ vốn chưa có bình đẳng, cần thực hiện các yêu cầu và nguyên
tắc cơ bản sau:
1- Bình đẳng về cơ hội và điều kiện;
2- Bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ;
3- Bình đẳng về kiểm soát và ra quyết định.
Việt Nam là quốc gia thứ 6 ký công ước CEDAW, cho đến nay Việt
Nam là một trong các quốc gia tích cực thực hiện các cam kết của mình nhằm
thúc đẩy sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Với quan
điểm thừa nhận sự khác biệt về giới và giới tính giữa nam và nữ, Nhà nước
Việt Nam đã thực hiện tốt công ước CEDAW, đặc biệt là điều 4 của Công
ước, thực hiện các đối xử đặc biệt giành cho phụ nữ. Quan điểm thực hiện đối
xử đặc biệt với phụ nữ trên mỗi lĩnh vực đã được cụ thể hóa trong các chính
sách, các chương trình, dự án phát triển ở Việt Nam, nhất là trong Luật Bình
đẳng giới và trong Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam,
Nhà nước Việt Nam cũng cho rằng, những đối xử đặc biệt với phụ nữ sẽ chấm
dứt khi đạt tới bình đẳng giới thực sự.
Trên cơ sở cam kết thực hiện công ước CEDAW nội dung bình đẳng
giới được cụ thể hóa trong luật Bình đẳng giới của Việt Nam gồm các điểm
sau:
1- Bình đẳng về chính trị;
2- Bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế;
3- Bình đẳng trong lĩnh vực lao động;
4- Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo;
5- Bình đẳng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ;
6- Bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao;
7- Bình đẳng trong lĩnh vực y tế;
8- Bình đẳng trong vấn đề hôn nhân và gia đình.
15
- Xem thêm -