Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ BIỂU TƯỢNG VƯỜN VÀ NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG...

Tài liệu BIỂU TƯỢNG VƯỜN VÀ NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG

.PDF
175
261
110

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đặng Thị Thu Hiền BIỂU TƯỢNG VƯỜN VÀ NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đặng Thị Thu Hiền BIỂU TƯỢNG VƯỜN VÀ NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG Chuyên ngành Mã số : Văn học nước ngoài : 60 22 02 45 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH PHAN CẨM VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Đặng Thị Thu Hiền LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình từ thầy cô, gia đình và bạn bè. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:  Quý thầy cô trong khoa Ngữ văn và phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi thực hiện đề tài này.  Cô Đinh Phan Cẩm Vân, người đã giúp đỡ, cung cấp tài liệu và hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Qua đây, tôi xin gửi tới cô lời biết ơn chân thành nhất.  Gia đình, bạn bè, người thân luôn hỗ trợ, động viên tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Với việc thực hiện một đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian và khả năng của bản thân còn hạn chế, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn! Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2014 Đặng Thị Thu Hiền MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 10 1.1. Biểu tượng – vấn đề thuật ngữ .............................................................. 10 1.1.1. Khái niệm biểu tượng ..................................................................... 10 1.1.2. Các cấp độ của biểu tượng ............................................................. 16 1.1.3. Vấn đề “giải mã” biểu tượng .......................................................... 17 1.2. Biểu tượng trong văn học cổ - trung đại Trung Quốc .......................... 19 1.2.1. Thời kỳ văn học Tiên Tần............................................................... 22 1.2.2. Thời kỳ văn học cổ điển.................................................................. 26 Chương 2. BIỂU TƯỢNG VƯỜN TRONG HỒNG LÂU MỘNG .......... 31 2.1. Biểu tượng vườn trong văn hóa – văn học Trung Quốc ...................... 31 2.1.1. Biểu tượng vườn trong văn hóa Trung Quốc – niềm nuối tiếc về một thiên đường đã mất .................................................................. 33 2.1.2. Biểu tượng vườn trong văn học Trung Quốc – sự tiếp nối những giá trị văn hóa truyền thống ............................................................ 35 2.2. Biểu tượng vườn trong Hồng lâu mộng - những sáng tạo của Tào Tuyết Cần ..................................................................................................... 39 2.2.1. Cách thức xây dựng biểu tượng vườn............................................. 39 2.2.2. Đặc trưng tiểu cảnh Đại Quan Viên – sự mở rộng ý nghĩa biểu tượng ............................................................................................... 49 Chương 3. BIỂU TƯỢNG NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG ........... 68 3.1. Biểu tượng nước trong văn hóa – văn học Trung Quốc ....................... 68 3.1.1. Biểu tượng nước trong văn hóa Trung Quốc - sự đồng điệu cùng dòng chảy văn hóa nhân loại........................................................... 70 3.1.2. Biểu tượng nước trong văn học Trung Quốc - tiếng đồng vọng của văn hóa truyền thống ................................................................ 74 3.2. Biểu tượng nước trong Hồng lâu mộng - những tầng ý nghĩa.............. 78 3.2.1. Nước – biểu tượng của nữ giới ....................................................... 78 3.2.2. Biểu tượng nước và tư tưởng “sùng âm ức dương” trong Hồng lâu mộng.......................................................................................... 88 3.2.3. Biểu tượng nước và những chuyển hóa – biến thể ....................... 100 KẾT LUẬN .................................................................................................. 114 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 117 PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Tiểu thuyết chương hồi là một trong những “đặc sản” của văn học Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn tới các nước thuộc khu vực văn hóa Đông Á trong đó có Việt Nam. Hồng lâu mộng là kiệt tác văn xuôi không chỉ được người Trung Hoa ưu ái, ngưỡng mộ mà còn làm say mê tất cả những ai đọc nó, bình luận về nó. Trên quê hương của mình, tiểu thuyết này được đề cao hơn hẳn so với những tác phẩm cùng thời: “Khai đàm bất thuyết Hồng lâu mộng; Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (Mở miệng mà không nói Hồng lâu mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Bởi vậy, nó được xếp trong “Tứ tài tử” (Tây sương ký, Tam quốc chí, Thủy Hử truyện, Hồng lâu mộng), “Tứ đại kỳ thư” (Kim Bình Mai, Tam quốc chí, Thủy Hử truyện, Hồng lâu mộng), một trong hai “Tuyệt thế kỳ thư” (Tây du ký, Hồng lâu mộng). Từ khi ra đời, Hồng lâu mộng luôn là thử thách đối với người đọc bởi nó không phải là một tác phẩm dễ đọc, dễ hiểu. “Hồng lâu mộng phản ánh kiến trúc thượng tầng từ phong tục, tập quán, đạo đức, giáo dục, văn hóa, hội họa, y học, ẩm thực, phục trang cho đến các quan điểm triết học, tôn giáo, kinh học, sử học” [76, tr.62]. Văn học Trung Quốc từ cổ đại, trung đại tới hiện đại luôn thu hút sự quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu không chỉ bởi những sự đa dạng về phong cách sáng tác, đặc sắc về nghệ thuật mà còn bởi sự nỗ lực không ngừng của nhiều thế hệ văn nhân trên con đường tìm tòi và đổi mới bút pháp. Tiểu thuyết Minh – Thanh là giai đoạn văn học chứng kiến sự xuất hiện của nhiều cây bút muốn bứt phá, muốn trải nghiệm, không chấp nhận lối viết sáo mòn, cũ kỹ của văn nhân thuở trước. Tào Tuyết Cần là bông hướng dương tiêu biểu nhất trong một rừng hoa đang hướng về phía mặt trời. Với những quan niệm mới mẻ về tiểu thuyết, Cần Khê đã nghiêm túc coi việc sáng tạo nghệ thuật là vấn đề sống còn trong sáng tác của người nghệ sỹ. Một trong những đổi mới trong bút pháp của ông chính là sử dụng hệ thống biểu tượng dày đặc, mang 2 hàm nghĩa phong phú để truyền đạt quan điểm nhân sinh và quan niệm nghệ thuật của mình. Việc tìm hiểu biểu tượng là một trong những con đường quan trọng để tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn. Dựa trên nền tảng những giá trị văn hóa tinh thần của nhân loại cũng như tinh hoa văn hóa dân tộc, chúng ta có thể thấy được cách thức tiếp nhận, khả năng khai thác những giá trị ấy nhằm sáng tạo ra cái mới phục vụ cho việc truyền tải tư tưởng của Tào Tuyết Cần. Mặt khác, đến với Hồng lâu mộng là người đọc đến với thế giới của những biểu tượng. Với tư cách là một trong những thành tố nội tại của tác phẩm, cùng với những biểu tượng khác, vườn và nước là hai biểu tượng quan trọng, có quan hệ mất thiết với nhau, thể hiện tư tưởng nghệ thuật cũng như quan điểm thẩm mỹ của nhà văn. Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Biểu tượng vườn và nước trong Hồng lâu mộng” với mong muốn đóng góp phần nhỏ vào quá trình “giải mã” cũng như tiếp cận thế giới nghệ thuật của tác phẩm từ mã văn hóa. Qua đó, phần nào giúp người đọc có cái nhìn toàn vẹn hơn về “Tuyệt thế kỳ thư” này và những sáng tạo nghệ thuật của nhà văn trong dòng chảy của văn hóa, văn học dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Hồng lâu mộng không chỉ được yêu quý trên quê hương của nó mà tại nhiều quốc gia trên thế giới (cả phương Đông và phương Tây), bộ tiểu thuyết cũng dành được đón nhận nồng nhiệt của độc giả và sự quan tâm của giới nghiên cứu văn học. Dựa vào những tài liệu đã thu thập được, chúng tôi chủ yếu quái quát tình hình nghiên cứu biểu tượng nói chung trong Hồng lâu mộng, biểu tượng vườn và nước nói riêng tại Trung Quốc cũng như Hoa Kỳ. Hồng lâu mộng đã được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng qua nhiều thời kỳ, thậm chí ở Trung Quốc đã có ngành nghiên cứu riêng về kiệt tác này là 3 Hồng học. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, hướng tiếp cận cũng như tiếp nhận khác nhau nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu chủ yếu tiếp cận tác phẩm dựa trên cơ sở lịch sử và lập trường giai cấp nên hiệu quả nghiên cứu gặp nhiều hạn chế, thậm chí, có người còn cho rằng việc nghiên cứu về Hồng lâu mộng đã đi tới chỗ cùng kiệt. - Cựu Hồng học: xu hướng nghiên cứu chủ yếu là tập trung khảo chứng, truy tìm người thật việc được dùng làm nguyên mẫu cho các nhân vật cũng như địa danh, địa điểm trong Hồng lâu mộng. - Tân Hồng học: tập trung tìm hiểu mối quan hệ giữa Tào Tuyết Cần với Bảo Ngọc và gia đình họ Giả, dẫn đến việc nghiên cứu Hồng học thành nghiên cứu Tào học. Gần đây, tại Trung Quốc một số công trình nghiên cứu quan trọng về Hồng lâu mộng đã được công bố: Tác giả Dương Hải Ba với bài “Tượng trưng bản thể - mục đích tối thượng của nghệ thuật tượng trưng trong Hồng lâu mộng” đăng trên Học san Hồng lâu mộng kỳ 1 năm 2010 đã khái quát được quá trình nghiên cứu kiệt tác Hồng lâu mộng theo hướng tìm hiểu về nghệ thuật tượng trưng của nhiều học giả nổi tiếng tại Trung Quốc. Ngoài việc chỉ ra những hạn chế trong việc nghiên cứu thủ pháp tượng trưng của những công trình ấy, Dương Hải Ba đã đi vào phân tích rất sâu sắc về nghệ thuật tượng trưng bản thể trong Hồng lâu mộng: ý nghĩa tượng trưng bản thể hiện thực, ý nghĩa tượng trưng bản thể của cuộc sống, ý nghĩa tượng trưng bản thể tình cảm. Cuối cùng, tác giả khẳng định rằng: tượng trưng bản thể vừa có tính trừu tượng, vừa có tính hiện thực; tất cả những vấn đề trong kiệt tác này, xét cho cùng đều trở về biểu hiện một số điều có tính cốt lõi của nhân sinh. Hồng lâu mộng là “tác phẩm văn học hiếm có trên thế giới mang ý nghĩa tượng trưng bản thể” [134]. Như vậy, bài viết của Dương Hải Ba đã nghiên cứu về thủ pháp tượng trưng (mà nói chính xác hơn là tượng trưng bản thể) trong Hồng lâu mộng 4 trên bình diện khá rộng và qua đó, cung cấp nhiều cứ liệu quan trọng cho người đọc liên quan tới nội dung của Hồng lâu mộng (về hiện thực xã hội, đời sống tinh thần của con người). Tuy vậy, bài báo rất ít đề cập tới đối tượng nghiên cứu của luận văn, cũng như không đi sâu vào một biểu tượng cụ thể nào đó trong tác phẩm để thấy được biểu tượng văn hóa biến đổi hay sản sinh ý nghĩa khi đi vào tác phẩm văn học. Công trình nghiên cứu nổi bật về Hồng lâu mộng là cuốn Hai thế giới trong Hồng lâu mộng (The Two Worlds of Hung-lou-meng) của Dư Anh Thời (Yu Yingshi) - giáo sư đại học Harvard, do Thượng Hải Xã hội Khoa học Viện Xuất bản Xã xuất bản năm 2002. Một một chương trong cùng tên trong cuốn sách này đã được Lê Thời Tân dịch sang tiếng Việt. Phần trích dịch này chủ yếu nói về thế giới bên trong và bên ngoài Đại Quan Viên mà cụ thể là sự đối lập giữa thanh sạch và nhơ bẩn giữa hai thế giới ấy. Bên cạnh đó, dù không gọi chính thức vườn và nước trong Hồng lâu mộng bằng thuật ngữ “biểu tượng” nhưng nhà nghiên cứu đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần về hai biểu tượng này và cho rằng cả nước và vườn trong kiệt tác của Tào Tuyết Cần đều chứa những ẩn ý nhất định. Đó là những gợi ý quan trọng giúp chúng tôi có thêm tư liệu và cách nhìn cũng như những đánh giá về đối tượng nghiên cứu. Tại Hoa Kỳ, bài viết “Hồng học tâm bệnh: tiếp cận Hồng lâu mộng từ góc nhìn phân tâm học” của Ming – Donggu (Giáo sư Văn học và Ngôn ngữ – Đại học Texas, Dallas) do Nguyễn Đào Nguyên và Trần Hải Yến dịch cũng đề cập đến vườn Đại Quan như “một dạ con biểu tượng”. Đó là tài liệu quý giá giúp chúng tôi có thêm một hướng tiếp cận cho đề tài của mình. Tất cả đều là những tài liệu quan trọng, không chỉ có tác dụng gợi ý mà còn hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Tại Việt Nam, nhiều giáo trình nghiên cứu đã cho độc giả cái nhìn khái quát về tác giả Tào Tuyết Cần (cuộc đời), tác phẩm Hồng lâu mộng (tóm tắt 5 sơ lược nội dung cốt truyện, trích dẫn những đoạn độc đáo để độc giả thưởng thức, khái quát về nội dung và hình thức của tác phẩm, đồng thời nêu nhận định chung của tác giả) như: Bài giảng văn học Trung Quốc (GS. Lương Duy Thứ), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Văn học Trung Quốc) (Trần Xuân Đề),... Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu riêng trình bày sự chuyển biến từ thưở ban sơ cho đến khi hình thành nên một thể loại hoàn chỉnh và phát triển rực rỡ, góp phần vào thành công của tiểu thuyết Trung Hoa: Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc (Trần Xuân Đề), Để hiểu tám bộ tiếu thuyết Trung Quốc (Lương Duy Thứ),... Những tài liệu trên chỉ đề cập tới một vài khía cạnh nghệ thuật của bộ tiểu thuyết, còn vấn đề có liên quan đến biểu tượng hầu như chưa được nhắc tới. Tuy vậy, tất cả những công trình đều trên là nguồn tài liệu hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Trong qua tình tìm kiếm tài liệu để thực hiện đề tài, chúng tôi nhận thấy ở Việt Nam hầu như chưa có công trình nghiên cứu về biểu tượng trong Hồng lâu mộng. Các khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án phần lớn tập trung vào nghiên cứu về phương diện hình thức cũng như nội dung trong kiệt tác văn chương này. Tựu chung, các công trình nghiên cứu ấy tập trung vào các nhóm (tạm chia) sau đây: + Nhóm nghiên cứu về nội dung của Hồng lâu mộng gồm: Luận văn Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong "Hồng Lâu Mộng" của Tào Tuyết Cần do Phan Thị Lan thực hiện tại Đại học Vinh năm 2005; Nhân vật A hoàn trong Hồng Lâu Mộng (Nguyễn Thị Thanh Nga - Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2010)… và nhiều luận văn, luận án khác nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng nhân vật, phân tích tâm lý bi kịch tình yêu và hôn nhân trong kiệt tác này. + Ngoài ra, còn có một số luận văn nghiên cứu một số đặc điểm nghệ thuật của Hồng lâu mộng như: Nghệ thuật tổ chức không, thời gian trong "Hồng Lâu Mộng" của Nguyễn Thị Minh Hậu – Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2002; hay Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết "Hồng lâu mộng" do 6 Nguyễn Thị Cẩn thực hiện tại Đại học Vinh, năm 2006; Lê Thị Thanh Hồng với Kết cấu tác phẩm Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần (2006); Yếu tố "kỳ" trong Hồng Lâu Mộng do Bùi Thị Phương Lan thực hiện - Đại học Sư phạm Hà Nội (2007),... Khóa luận tốt nghiệp của Võ Hương Giang thực hiện tại Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 với đề tài khá bao quát Bút pháp nghệ thuật độc đáo của “Hồng lâu mộng” cũng chỉ đề cập được ba đặc điểm nghệ thuật chính của tác phẩm là: nghệ thuật miêu tả nhân vật, kết cấu nghệ thuật và ngôn ngữ. Dù vườn và nước không được gọi rõ ràng bằng cái tên “biểu tượng” nhưng rải rác trong cuốn “Tìm hiểu Hồng lâu mộng”, Tiến sĩ Đinh Phan Cẩm Vân (Trường đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) cũng có nhiều phân tích và nhận định quan trọng có liên quan mật thiết với đối tượng nghiên cứu của luận văn. Cùng với chương trích trong cuốn sách cùng tên “Hai thế giới trong hồng lâu mộng” của Dư Anh Thời (Lê Thời Tân dịch), công trình này là tài liệu quý giá, gợi mở ý tưởng, cung cấp những cứ liệu quan trọng để chúng tôi bắt tay vào thực hiện đề tài của mình. Tính đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam, chưa có công trình nào viết về biểu tượng trong Hồng lâu mộng nói chung, biểu tượng vườn và biểu tượng nước nói riêng. Chúng tôi cho rằng, nghiên cứu kiệt tác này từ bình diện biểu tượng là hướng đi mở, cần được thực hiện nghiêm túc. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn nhằm cắt nghĩa, lý giải biểu tượng vườn và nước trong Hồng lâu mộng từ nguồn gốc đến sự biến đổi, mở rộng ý nghĩa trong mối quan hệ với văn hóa và những tác phẩm văn học khác. Đồng thời, luận văn tìm hiểu thủ pháp nghệ thuật xây dựng biểu tượng cũng như chức năng mà biểu tượng đem lại cho cuốn tiểu thuyết. Nghiên cứu biểu tượng không chỉ nằm ở yếu tố riêng rẽ mà phải đặt chúng trong hệ thống những biểu tượng khác trong tác 7 phẩm, để thấy được đầy đủ những nét nghĩa của biểu tượng cũng như cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Hồng lâu mộng là thế giới của những biểu tượng. Tuy nhiên, trong phạm vi hạn hẹp của luận văn, chúng tôi xin lựa chọn hai biểu tượng để nghiên cứu, khảo sát và “giải mã” là biểu tượng vườn và biểu tượng nước. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi dựa vào bản dịch Hồng lâu mộng 120 hồi (80 hồi đầu là Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc kế tục tinh thần của văn sỹ họ Tào viết nên). Bộ tiểu thuyết gồm sáu tập của nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1989, do Vũ Bội Hoàng và Nguyễn Doãn Địch dịch theo bản Trung văn “Hồng lâu mộng thập bát hồi hiệu bản”, do nhà xuất bản Văn học nhân dân Bắc Kinh xuất bản năm 1958. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng riêng lẻ (hoặc kết hợp) một số phương pháp nghiên cứu chính sau đây: - Phương pháp nghiên cứu văn hóa học: Dựa trên cách tiếp cận biểu tượng, đi sâu “giải mã” nền văn hóa nhân loại và dân tộc có ảnh hưởng đến việc sử dụng biểu tượng. - Phương pháp ký hiệu học: được sử dụng để nghiên cứu biểu tượng dưới góc độ ký hiệu học, giúp giải mã các nét nghĩa cũng như cách thức phái sinh nghĩa của từng biểu tượng cụ thể trong tác phẩm. - Phương pháp thống kê – phân loại: nhằm thống kê về số lượng cũng như tần số xuất hiện của từng biểu tượng được khảo sát trong đề tài nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu văn học: Nghiên cứu biểu tượng dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá với việc biểu đạt nội dung ý nghĩa. 8 - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu này nhằm đặt tác phẩm trong mối quan hệ với triết học, văn hóa học, sử học, tôn giáo để góp phần làm rõ ý nghĩa của biểu tượng cũng như quan niệm thẩm mỹ của Tào Tuyết Cần. - Phương pháp so sánh: + Phân biệt “biểu tượng” với các thuật ngữ, các khái niệm dễ gây nhầm lẫn; + Đối sánh những điểm giống nhau và khác nhau giữa biểu tượng được khảo sát trong đề tài với biểu tượng bên trong cũng như bên ngoài kiệt tác Hồng lâu mộng; + Chỉ ra sự tương đồng cũng như khác biệt, sáng tạo trong cách sử dụng biểu tượng của Tào Tuyết Cần với biểu tượng văn hóa của nhân loại và văn hóa – văn học Trung Quốc. - Phương pháp tiểu sử: Nghiên cứu biểu tượng trên cơ sở tìm hiểu cuộc đời nhà văn để làm sáng tỏ những nét tư tưởng cũng như quan niệm sống của tác giả. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn bước đầu tìm hiểu hai trong số rất nhiều biểu tượng trong Hồng lâu mộng dựa trên cơ sở tìm hiểu nghĩa gốc và sự vận dụng sáng tạo trong tác phẩm. Từ đây, công trình nghiên cứu chỉ ra những nét khác biệt của biểu tượng vườn và nước trong Hồng lâu mộng với văn hóa, văn học Trung Hoa truyền thống về mặt ý nghĩa. Qua đó, người đọc có thể thấy được những nét đặc sắc về nội dung tư tưởng, chức năng cũng như cách thức tiêu biểu trong việc xây dựng biểu tượng của nhà văn. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm ba chương chính: 9 Chương 1: Những vấn đề chung Trình bày lý thuyết về biểu tượng để làm cơ sở lý luận chung cho toàn luận văn. Từ đó, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu khái quát về vấn đề sử dụng biểu tượng trong văn học cổ - trung đại Trung Quốc. Chương 2: Biểu tượng vườn trong Hồng lâu mộng Tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng vườn trong văn hóa thế giới, trong văn hóa – văn học Trung Quốc, phương thức xây dựng biểu tượng của Tào Tuyết Cần cũng như những tiếp thu, sáng tạo khi viết về biểu tượng của nhà văn so với ý nghĩa của biểu tượng vườn truyền thống. Chương 3: Biểu tượng nước trong Hồng lâu mộng Tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng nước trong văn hóa thế giới, trong văn hóa – văn học Trung Quốc cũng như sự tiếp nhận, sáng tạo ý nghĩa biểu tượng của Tào Tuyết Cần trong việc thể hiện quan niệm thẩm mỹ và nội dung của tác phẩm. 10 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Biểu tượng – vấn đề thuật ngữ 1.1.1. Khái niệm biểu tượng Vấn đề khái niệm biểu tượng hiện nay rất phức tạp, chưa có sự thống nhất giữa các ngành khoa học và các lĩnh vực. Bởi vậy, trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi vào nắm bắt, khái quát tinh thần cơ bản của một số quan niệm xung quanh thuật ngữ biểu tượng. Từ tượng trưng (symbole) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp sumballein có nghĩa là nối lại với nhau. Quá trình hình thành của biểu tượng xuất phát từ thực tiễn đời sống. Nếu trong tiếng Việt, biểu tượng là một từ gốc Hán được dùng lẫn lộn với hình tượng và ký hiệu (với ba nghĩa: 1- hình ảnh tượng trưng; 2- “hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn lưu giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan của ta đã chấm dứt” [34, tr.99]; 3- ký hiệu bằng hình, đồ họa trên máy tính) thì đối với nhiều ngành khoa học, nó là một thuật ngữ được sử dụng với những nội hàm khác nhau: Trong phạm vi tâm lý học, biểu tượng được xem như những hình ảnh cụ thể, trực quan, là “hình ảnh của vật thể, bối cảnh và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng” [10, tr.29]. Đi từ nền tảng tâm lý, biểu tượng trở thành đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa học xã hội. Phân tâm học trong nghiên cứu biểu tượng có được nhiều thành tựu đáng kể. Theo S. Freud, thuật ngữ biểu tượng (symbole) chỉ sản phẩm của vô thức cá nhân bao gồm những hình ảnh, sự vật, hiện tượng có khả năng “diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột” [60, tr.XXIV]. Và như vậy, S. Freud đã quá tập trung vào lĩnh vực bản năng vô thức, đánh đồng toàn bộ hình ảnh xuất hiện trong giấc mơ với biểu tượng. 11 C. Jung cũng thừa nhận quá trình hình thành biểu tượng gắn liền với cái vô thức mà cụ thể hơn là vô thức cá nhân nhưng ông lại lý giải sự hình thành biểu tượng khác với sự luận giải dựa trên dục năng libido của Freud. Theo C. Jung, biểu tượng được hình thành dựa trên “những dấu vết cổ xưa” hay từ vô thức tập thể. Quan điểm của C. Jung về biểu tượng gắn với ký ức nhân loại và cho thấy có mối liên hệ giữa biểu tượng và mẫu gốc. Mẫu gốc là những tín hiệu xuất hiện sớm nhất (để lại dấu ấn trong tín ngưỡng, văn hóa dân gian: lễ hội, thần thoại, truyền thuyết,…), mang tính phổ quát, còn có khả năng sản sinh ra các hệ biểu tượng văn hóa: mặt trời, hành xác, hiến tế,… Jung đã trình bày một cách rốt ráo về mẫu gốc (cổ mẫu). Theo ông, “các mẫu gốc giống như những nguyên mẫu của các tập hợp biểu tượng ăn sâu vào vô thức đến nỗi chúng trở thành như một cấu trúc” [60, tr.XXI]. Mẫu gốc gần như là hằng số chung cho cơ cấu tinh thần. Đó là tiếng nói của giống nòi, của tổ tiên khi đứng trước tự nhiên và trong mối liên hệ với tự nhiên. Cơ sở để hình thành và khởi đi của các mẫu gốc là vô thức tập thể (tức ký ức nguyên thủy của nhân loại). Cũng theo C.Jung, mẫu gốc là yếu tố sản sinh ra các hệ biểu tượng trong một nền văn hóa, một cộng đồng. Khi khuynh hướng vận hành của phản ứng tinh thần tác động vào phạm vi vô thức cá nhân thì nó được biểu lộ qua các biểu tượng. Biểu tượng của mẫu gốc là những biểu lộ bằng hình ảnh tinh thần đặc biệt được nhận thức bởi ý thức và rất khác nhau đối với mỗi mẫu gốc riêng biệt. Những khía cạnh khác biệt của cùng một mẫu gốc này lại được biểu hiện qua nhiều hình ảnh khác nhau. Mẫu gốc là khuynh hướng tạo ra những biểu tượng trong môi trường vô thức cá nhân. Những biểu tượng của cùng mẫu gốc đã vô cùng khác nhau, nhưng đến lượt mình, biểu tượng lại được biểu lộ bằng nhiều hình ảnh tinh thần mà ý thức có thể nắm bắt được. Bởi vậy, biểu tượng không chỉ là hình ảnh trong mơ, mang hàm ý tính dục và tuân thủ nguyên tắc thỏa mãn đơn thuần (theo quan điểm của Freud); mà hơn 12 thế, nó còn là sự tái sinh và biểu hiện những dấu vết trí tuệ của tổ tiên được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử giống nòi. Song song với điều đó, bằng ý thức sáng tạo và tài năng của mình, người nghệ sỹ sẽ luôn làm phong phú thêm nghĩa của biểu tượng. Mặt khác, khi nghiên cứu vấn đề biểu tượng trong lĩnh vực tâm lý và nghệ thuật, hai nhà phân tâm học trên đều khẳng định: trong mối quan hệ giữa cái biểu trưng (mặt hình thức của cảm tính) và cái được biểu trưng (mặt ý nghĩa, phi trực quan) thì cái được biểu trưng bao giờ cũng là cái vô thức. Do đó, bình diện cái biểu trưng là rõ ràng, có thể nắm bắt được, còn bình diện cái được biểu trưng luôn biến đổi. Với triết học, biểu tượng là “hình ảnh trực quan - cảm tính, khái quát về các sự vật và hiện tượng của hiện thực, được giữ lại và tái tạo trong ý thức và không có sự tác động trực tiếp của bản thân các sự vật hiện tượng đến giác quan” [52, tr.86]. Có hai điểm cần chú ý ở đây: là hình thức phản ánh cảm tính, được giữ lại và tái tạo. Điều đó có nghĩa là biểu tượng như một hạt mầm không ngừng nảy nở, xác lập và tái tạo lại nó để bản thân nó có thể chứa đựng một lượng ý nghĩa năng động. Theo Từ điển bách khoa văn hóa học, “biểu tượng – một loại ký hiệu đặc biệt, thể hiện nội dung thực tế của một điều nào đó. Biểu tượng văn hóa khác ký hiệu thông thường ở chỗ chứa đựng mối liên hệ tâm lý và tồn tại mà nó biểu trưng” [67; tr.50]. Các nhà nghiên cứu văn hóa đều có xu hướng xem xét biểu tượng trong mối quan hệ mang tính chất hai chiều giữa thế giới của đời sống tâm lý cá nhân và đời sống tâm linh của cộng đồng. Tách khỏi mối quan hệ đó, biểu tượng không còn tồn tại với những năng lực mang ý nghĩa giàu có, tiềm tàng của nó nữa. Đối với văn học, biểu tượng còn được gọi là tượng trưng. Theo nghĩa rộng, “biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật” [18, tr.24]. Còn theo nghĩa hẹp, “biểu tượng là một phương 13 thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một vài hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời”[18, tr.24]. Trên đây là một số cách hiểu xoay quanh khái niệm biểu tượng. Mặc dù quan niệm không hoàn toàn giống nhau nhưng các lĩnh vực, các tác giả đều có sự gặp gỡ về một số đặc trưng của biểu tượng: 1- biểu tượng vừa là hình thức phản ánh cảm tính của cá nhân, vừa mang nội dung xã hội; 2- biểu tượng là một yếu tố tất yếu của ý thức; 3- biểu tượng gồm hai mặt: cái biểu trưng và cái được biểu trưng. Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tiếp thu quan điểm của C. Jung về biểu tượng. Theo chúng tôi, đó là những kiến giải đầy đủ nhất về nguồn gốc, nội hàm cũng như bản chất của thuật ngữ này: biểu tượng của một nền văn hóa, một cộng đồng được sản sinh dựa trên cơ sở của mẫu gốc; nó luôn được tái sinh để biểu hiện những dấu vết trí tuệ của tổ tiên; vai trò sáng tạo độc lập của người nghệ sỹ là đặc biệt quan trọng trong quá trình làm phong phú thêm nghĩa của biểu tượng; biểu tượng gồm hai mặt: cái biểu trưng (mặt hình thức của cảm tính, là cái vô thức - luôn rõ ràng, có thể nắm bắt được) và cái được biểu trưng (mặt ý nghĩa, phi trực quan - luôn biến đổi). Những cách hiểu về biểu tượng ở trên đều có nguồn gốc từ phương Tây. Với Trung Quốc, các nhà lý luận văn học không đưa ra được một khái niệm chặt chẽ về biểu tượng cũng như xây dựng nó thành một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh như vậy nhưng họ cũng có từ ngữ khác tương đương với nội hàm của thuật ngữ này dưới tên gọi “tượng trưng”. Theo họ, tượng trưng là “mượn một hình tượng cụ thể nhất định nào đó để biểu hiện một ý nghĩa đặc biệt nào đó hoặc ám chỉ một sự vật nào đó” [19, tr.215]. Xét cho cùng, tuy không hoàn toàn đồng nhất, trùng khít về câu chữ nhưng cách “mượn một hình tượng cụ thể” để “biểu hiện một ý nghĩa” của lý luận văn học Trung Hoa chính là nói 14 về quan hệ giữa cái biểu trưng và cái được biểu trưng mà phương Tây đề cập tới trong nội hàm của hai chữ “biểu tượng”. a. Đặc trưng của biểu tượng Tính có lý do: Cái được biểu trưng (biểu đạt) của biểu tượng chỉ nảy sinh trên cơ sở những đặc điểm bản thể của cái biểu trưng. Các ý nghĩa biểu trưng của biểu tượng là có thể lý giải được chứ không phải là sự quy ước tùy tiện. Tính khả biến – chính là khả năng biến đổi ý nghĩa, sức sản sinh dồi dào của cái được biểu đạt từ một cái biểu đạt. Tính khả biến của biểu tượng nghĩa là sự không ổn định, biến đổi theo môi trường, thời kỳ, cá nhân, cộng đồng dân tộc… Đó là khả năng chuyển dịch liên tục, tái sinh liên hồi từ cái biểu đạt đến cái được biểu đạt. Theo tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa, quá trình biến đổi ấy được diễn ra qua hai cấp độ mô hình hóa sau đây: (biến đổi ý nghĩa cấp độ 1) Các biến thể từ ngữ (hiện thực hóa quan hệ sản sinh từ mẫu gốc đến hệ biểu tượng) Phân hóa Chi tiết hóa Tương đồng Tương phản (biến đổi ý nghĩa cấp độ 2) Biến thể kết hợp (hiện thực hóa quan hệ sản sinh từ bình diện văn háo đến bình diện chủ thể) Tương tác Cộng hưởng (Biến đổi sắc thái ý nghĩa) (Nảy sinh nghĩa mới) [94, tr.40] Mô hình trên đã giải thích, cắt nghĩa triệt để tính khả biến của biểu tượng, đồng thời cũng khái quát hóa được quy trình biến đổi ý nghĩa của biểu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan