Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo bộ lu...

Tài liệu Biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo bộ luật hình sự năm 1999 luận văn ths. luật

.PDF
110
713
121

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHƢỢNG BIỆN PHÁP TƢ PHÁP: TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHƢỢNG BIỆN PHÁP TƢ PHÁP: TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2014 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Vò ThÞ Ph-îng 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU Chương 1: 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP 7 "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. cơ sở lý luận về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 7 1.1.1. Quan niệm chung về các biện pháp tư pháp 7 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 12 Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản và với biện pháp tư pháp tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam 17 1.2.1. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền 17 1.2.2. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản 20 1.2.3. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với biện pháp tư pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" 22 1.2. 4 Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 25 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 25 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 27 Nghiên cứu so sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự Việt Nam với biện pháp cưỡng chế hình sự tương đương trong luật hình sự của Liên bang Nga và Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa 29 1.3. 1.4. 1.4.1. Luật hình sự Liên bang Nga 29 1.4.2. Luật hình sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa 32 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ 36 LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI" TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI BÌNH 2.1. Những quy định về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong Bộ luật hình sự năm 1999 36 2.1.1. Những quy định chung 36 2.1.2. Quy định về "Trả lại tài sản" 44 2.1.3. Quy định về "Sửa chữa tài sản" 50 2.1.4. Quy định về "Bồi thường thiệt hại" 52 2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trên địa bàn tỉnh Thái Bình 65 2.2.1. Tình hình chung 65 2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trên địa bàn tỉnh Thái Bình 69 5 2.3. Những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 78 2.3.1. Nguyên nhân khách quan 79 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan 79 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ 81 BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 81 3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 82 3.2.1. Hoàn thiện quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999 82 3.2.2. Hoàn thiện một số quy định pháp luật hình sự có liên quan đến áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 86 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong thực tiễn 91 3.3. 3.3.1. Nâng cao năng lực, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tư pháp 91 3.3.2. Tăng cường hoạt động hướng dẫn bảo đảm thực hiện áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thường thiệt hại" đạt hiệu quả 93 3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 96 3.3.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép 97 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự TNHS : Trách nhiệm hình sự 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc 18 bảng 1.1 bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền 1.2 So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc 21 bồi thường thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản 1.3 So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc 24 bồi thường thiệt hại" với biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm 2.1 Thống kê xét xử các loại tội phạm của ngành Tòa án Thái 66 Bình từ năm 2009 đến năm 2013 2.2 Thống kê xét xử 3 nhóm tội phạm có khả năng áp dụng 68 cao biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại 3.1 Đề nghị sửa đổi khoản 2 Điều 41 BLHS và khoản 1 Điều 42 84 3.2 Đề nghị sửa đổi Điều 42 BLHS năm 1999 85 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tình hình tội phạm ở nước ta thời gian qua ngày càng gia tăng không chỉ về số lượng mà cả về các loại tội phạm, đặc biệt là các loại tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền sở hữu; các tội phạm về chức vụ cũng như các tội phạm kinh tế... Để xử lý các tội phạm này các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng nhiều biện pháp xử lý khác nhau, trong đó có việc áp dụng biện pháp tư pháp. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp năm 2012 "Thực tiễn 11 năm thi hành Bộ luật hình sự cho thấy, các biện pháp tư pháp thường được áp dụng nhiều nhất là tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 41); trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại (Điều 42)" [1]. Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" không có ý nghĩa quyết định như hình phạt nhưng trong giới hạn tác động của nó đã phát huy được vai trò tích cực, là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm. Vai trò nổi bật của biện pháp tư pháp này khi áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội trong tương lai và khi áp dụng cùng hình phạt nó có vai trò hỗ trợ cho hình phạt. Tuy nhiên, việc nhận thức cũng như áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" một cách chính xác, trên cơ sở đó đưa ra phán quyết công bằng và thống nhất chung cho mọi trường hợp không phải là việc dễ dàng, đơn giản đối với những người tiến hành tố tụng. Vì thế có nhiều trường hợp đã dẫn đến tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng trong áp dụng các điều luật có nội dung liên quan đến vấn đề xử lý tài sản là đối tượng chiếm đoạt hoặc bị sử dụng trái phép, còn tồn tại việc xác định thiệt hại cũng 9 như đánh giá các chứng cứ liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại chưa triệt để dẫn đến Tòa án đưa ra quyết định về việc bồi thường thiệt hại chưa thỏa đáng, có trường hợp bồi thường thấp có trường hợp bồi thường cao;… Đây cũng là một trong những lý do dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất và tình trạng kháng cáo, kháng nghị, kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng lợi ích của những người bị hại thậm chí của cả người phạm tội. Bản chất của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" mang tính dân sự và giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc quan trọng đã được quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003. Trong thời gian qua, các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp này đã có những sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng cũng như nghiên cứu vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, cách hiểu và áp dụng khác nhau. Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho việc lựa chọn đề tài: Biện pháp tư pháp: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo Bộ luật hình sự năm 1999 làm luận văn thạc sĩ luật học. Đây là một đề tài khá mới và phức tạp, tuy nhiên với phạm vi luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến biện pháp tư pháp này trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tiễn xét xử 5 năm (2009 - 2013) địa bàn tỉnh Thái Bình. 2. Tình hình nghiên cứu Từ khi Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 có hiệu lực, các biện pháp tư pháp cũng đã được một số tài liệu, bài viết tạp chí đề cập đến và cũng đã được các nhà nghiên cứu chọn làm đề tài luận văn, luận án. 10 Trước tiên, phải kể đến là Giáo trình của một số cơ sở đào tạo Luật trong nước, như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2010; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Học viện Tư pháp, PGS.TS Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2011. Thứ hai, ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Trường Đại học Luật Hà Nội có đề tài của Lê Thị Bích Lan, "Một số vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm"; cấp độ đề tài luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Hồng, "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án tai nạn giao thông đường bộ". Thứ ba, một số sách chuyên khảo như: Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam", PGS.TS Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2011;"Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Tìm hiểu hình phạt và các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam: những văn bản hướng dẫn thi hành hình phạt trong bộ luật hình sự 1999", Trần Minh Hưởng, Nxb Lao động, Hà Nội, 2007; "Hoàn thiện các quy định chung của phần chung Bộ luật hình sự trong yêu cầu mới của đất nước", TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012. Thứ tư, một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã đề cập đến đối tượng nghiên cứu của luận văn này, như: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm hại tính mạng, sức khỏe con người" của ThS. Đinh Văn Quế (Tạp chí Tòa án, số 10/2004); "Quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự về việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu và thực tiễn áp 11 dụng" của ThS. Nguyễn Văn Trượng (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2005); "Thực trạng quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp" của TS. Trương Quang Vinh (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02/2010). Tình hình nghiên cứu cho thấy, trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận về vấn đề này, các nhà nghiên cứu luật học đã đề cập đến một mức độ nào đó về biện pháp tư pháp. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu riêng về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" mà chỉ đơn lẻ nghiên cứu đề cập về vấn đề bồi thường thiệt hại. Để việc đưa biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" áp dụng vào thực tiễn được chính xác, cụ thể hơn đòi hỏi vấn đề lý luận về loại biện pháp tư pháp này phải được nghiên cứu sâu hơn, toàn diện, có hệ thống và chính thống hơn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Xây dựng và hoàn thiện biện pháp tư pháp này nói riêng và BLHS, BLTTHS nói chung là đáp ứng một trong những yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" cũng như thực tiễn pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp này trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong 5 năm từ năm 2009 đến năm 2013, luận văn đề xuất những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp này và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn. * Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"như: khái niệm, đặc điểm, 12 vai trò của biện pháp tư pháp này; phân biệt biện pháp này với biện pháp tư pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" và với một số hình phạt mang tính kinh tế. - Nghiên cứu so sánh với pháp luật hình sự Liên bang Nga và Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa. - Phân tích làm sáng tỏ những quy định biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp này trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ năm 2009 đến năm 2013 để chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó. - Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện chế định biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, logic học, triết học, tội phạm học, luật hình sự, tố tụng hình sự. Luận văn được hình thành dựa trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và các tài liệu đã được công bố, dựa trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản áp dụng pháp luật, bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, phân tích thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thái Bình đồng thời sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp logic lịch sử, phân tích, thống kê và phương pháp tổng hợp để chọn lọc, trình bày nội dung luận văn. 13 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan đến loại biện pháp tư pháp thường xuyên được áp dụng trong thực tiễn của luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn có đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định để nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tư pháp này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, đào tạo, các cơ quan bảo vệ pháp luật có thể dùng để rút kinh nghiệm trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dụng của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Những quy định về biện pháp tư pháp: "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" 1.1.1. Quan niệm chung về các biện pháp tƣ pháp Nhà nước quản lý xã hội bằng nhiều phương tiện khác nhau trong đó phương tiện hữu hiệu nhất là pháp luật, với mỗi loại vi phạm pháp luật có những chế tài riêng để xử lý và đưa các quan hệ xã hội trở về trật tự cần phải có. Khi cá nhân thực hiện tội phạm thì sẽ phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi thông qua các chế tài hình sự được quy định trong BLHS hay nói cách khác người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) do hành vi phạm tội của mình. Hệ thống các dạng của TNHS gồm: - Hệ thống hình phạt gồm: + Các hình phạt chính: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình. + Các hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền là hình phạt bổ sung; Trục xuất là hình phạt bổ sung. - Hệ thống các biện pháp tư pháp gồm: + Các biện pháp tư pháp chung như: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại; Buộc công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh. 15 + Các biện pháp tư pháp quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm tội: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng. Nghiên cứu luật hình sự nước ngoài cho thấy, ít có nước nào chỉ thiết lập riêng hoặc là hệ thống các hình phạt hoặc là hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự khác trong luật hình sự, mà phần lớn các nước chấp nhận sự song song tồn tại hai hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự: Hình phạt và biện pháp cưỡng chế hình sự khác. Tuy nhiên, biện pháp cưỡng chế hình sự khác ở mỗi nước khác nhau có tên gọi khác nhau, chẳng hạn, BLHS của Cộng hòa Liên bang Đức quy định từ Điều 61 đến Điều 72 về các biện pháp cải biến và an toàn; luật hình sự của Cộng hòa Pháp và BLHS năm 1995 của Tây Ban Nha đều gọi các biện pháp này với tên gọi là biện pháp an ninh. Chính quyền Sài Gòn cũ đưa các biện pháp này vào Chương II BLHS năm 1972 với tên gọi là các biện pháp phòng vệ. Còn BLHS năm 1999 của Việt Nam đặt tên các biện pháp cưỡng chế hình sự này là các biện pháp tư pháp. Trong luật hình sự Việt Nam, chế định hình phạt được BLHS năm 1999 ghi nhận đầy đủ từ khái niệm, mục đích đến các loại hình phạt cụ thể. Trong khi đó, Pháp luật hình sự nước ta từ năm 1945 đến nay chưa có ghi nhận khái niệm pháp lý cũng như mục đích của biện pháp tư pháp. Định nghĩa biện pháp tư pháp đã được một số nhà hình sự học đề cập đến trong một số công trình khoa học luật hình sự như các sách chuyên khảo và giáo trình của các trường đại học chuyên ngành Luật. Chẳng hạn như: Biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng với người phạm tội cũng như người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình [46, tr. 186]; "Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt" [47, tr. 249]; 16 Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt [7, tr. 679]. Trong khoa học luật hình sự nước ngoài, biện pháp cưỡng chế hình sự khác được hiểu là "Biện pháp tước hoặc hạn chế tự do hoặc quyền, hoặc là biện pháp về tài sản, chủ yếu có mục đích ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm mới" hoặc là "những biện pháp cưỡng chế không có màu sắc luân lý, áp dụng với các cá nhân nguy hiểm cho trật tự xã hội để phòng ngừa các tội phạm mà tình trạng của họ có thể gây ra". Trong các định nghĩa khoa học về các biện pháp cưỡng chế hình sự khác nêu trên, các học giả đã dựa trên bản chất, đặc điểm và chức năng của các biện pháp này tuy nhiên chưa khái quát hết các đặc điểm chủ yếu của loại biện pháp này như về chủ thể áp dụng, hiệu lực pháp luật và hiệu lực thi hành của nó [40, tr. 87]. Trên cơ sở nghiên cứu phân tích, so sánh, tổng hợp các định nghĩa của các nhà khoa học trong và ngoài nước, có thể chỉ ra năm đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp như sau: Thứ nhất, biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt. "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" [27, Điều 26] do Tòa án quyết định, chính vì vậy khi bị áp dụng hình phạt sẽ để lại án tích đối với người bị tuyên phạt trong khi đó hậu quả pháp lý đối với người bị áp dụng biện pháp tư pháp không bị coi là có án tích. Mặt khác, tính ít nghiêm khắc hơn hình phạt của biện pháp tư pháp còn thể hiện ở mục đích của hai loại biện pháp cưỡng chế hình sự này. Nếu như hình phạt nhằm trừng trị 17 người phạm tội, có thể tước đoạt quyền, tự do thậm chí là tính mạng của người bị kết án thì các biện pháp tư pháp chỉ có thể hạn chế một số quyền nhân thân của người phạm tội thậm chí một số biện pháp tư pháp xét về mặt xã hội còn mang lại lợi ích cho người phạm tội. Ví dụ: trường hợp áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình; hoặc người phạm tội trước khi bị kết án hoặc đang trong thời gian chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình thì biện pháp tư pháp có ý nghĩa nhân đạo giúp người này trở lại trạng thái của người bình thường. Thứ hai, biện pháp tư pháp được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong những trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu TNHS hoặc được miễn truy cứu TNHS thì người đó vẫn có thể phải bị áp dụng biện pháp tư pháp. Ví dụ: Giá trị tài sản trộm cắp dưới 2 triệu đồng và người thực hiện chưa có tiền án, tiền sự thì người đó không bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 nhưng tài sản thu giữ được sẽ được áp dụng biện pháp tư pháp trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu có hư hỏng có thể sẽ phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại. Thứ ba, biện pháp tư pháp nhằm hạn chế quyền, tự do của người thực hiện tội phạm, nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt và nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai. Xét về bản chất, các biện pháp tư pháp hình sự không phải là hình phạt nhưng cũng là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhằm tăng hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, các biện pháp tư pháp khi áp dụng cùng với hình phạt thì chúng có khả năng tác động hỗ trợ cho việc áp dụng và thi hành hình phạt đạt hiệu quả cao hơn hoặc có thể thay thế cho hình phạt đối với những trường hợp không áp dụng hình phạt (như miễn hình phạt, miễn TNHS). 18 Ngoài ra, do tính chất được áp dụng trong mọi giai đoạn tố tụng nên ngay cả trước khi Tòa án áp dụng hình phạt thì những điều kiện phạm tội cũng sẽ được biện pháp tư pháp loại bỏ cùng với đó sẽ phòng ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai (ví dụ: việc áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm đối với tiền, tài sản và các công cụ phạm tội trong vụ án bắt quả tang nhiều đối tượng đánh bạc sẽ làm chấm dứt các điều kiện phạm tội đang tồn tại và có giá trị phòng ngừa các đối tượng phạm tội tiếp). Thứ tư, biện pháp tư pháp được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố tụng vì vậy chủ thể áp dụng biện pháp tư pháp rộng hơn chủ thể áp dụng hình phạt. Với tính chất đặc biệt của mình, hình phạt chỉ có thể do Tòa án áp dụng thông qua bản án. Trong khi đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp khi có căn cứ đối với người phạm tội nói chung (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cả người bị kết án), riêng đối với biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt chỉ có thể do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án. Thứ năm, biện pháp tư pháp được quy định trong BLHS, phải được cơ quan tư pháp có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự thủ tục chặt chẽ do luật tố tụng hình sự quy định và phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người. Quy định về việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự trong luật hình sự Việt Nam bảo đảm thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta là mọi hành vi phạm tội đều bị xử lý. Đồng thời góp phần giúp cho các cơ quan tư pháp có thẩm quyền vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và đúng đắn chính sách hình sự của Nhà nước; đồng thời khẳng định việc áp dụng hình phạt với tư cách là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất không phải là phương tiện duy nhất trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. 19 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của biện pháp tƣ pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" * Khái niệm, đặc điểm của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" Khi điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm có liên quan đến việc chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép tài sản hoặc những tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm… Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thường phải áp dụng các quy định của BLHS và BLTTHS để giải quyết những vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại. Một trong những biện pháp giải quyết vấn đề tài sản và trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hiệu quả là biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được quy định tại Điều 42 BLHS năm 1999. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định biện pháp này tại Điều 34 và được giữ nguyên tên gọi tại Điều 42 BLHS năm 1999. "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp tư pháp chung áp dụng đối với người đã thành niên và người chưa thành niên phạm tội. Biện pháp này tuy được quy định thành một điều luật riêng trong BLHS nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu nội dung của biện pháp. Cũng như biện pháp tư pháp, trong luật hình sự của nước ta từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 1999 chưa có khái niệm pháp lý nào về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" tuy nhiên nó được đề cập đến trong giáo trình của một số cơ sở đào tạo Luật. Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1 của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 có đưa ra khái niệm về biện pháp tư pháp này như sau: "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là biện pháp tư pháp được BLHS quy định, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội khi họ đã gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại" [43, tr. 259]. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan